HÀNH TRÌNH DOANH NGHIỆP ĐƯỢC TỰ CHỦ VỚI “CON DẤU” CỦA MÌNH – Luật sư Đà Nẵng – Luật sư FDVN

Dẫn nhập: Sáng ngày 17/06/2020, với 90,68% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp 2020 (LDN 2020), sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2021. So với Luật Doanh nghiệp 2014 (hiện hành) thì LDN 2020 có một số thay đổi, trong đó cơ quan nhà nước dần từ bỏ sự ràng buộc để tạo sự chủ động cho Doanh nghiệp trong việc sử dụng con dấu của mình.

Từ tư duy quản lý tất cả

Các quy định từ Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 đều chứng mình rằng dường như Việt Nam vừa bắt đầu những bước chậm của quá trình đổi mới, mở cửa thị trường, tư tưởng “kinh tế tập trung”, nhà nước tham gia vào các hoạt động quản lý kinh tế ở mọi nơi, kể cả khối doanh nghiệp tư nhân, vẫn còn hiện hữu. Do vậy, nhà nước quy định rất khắt khe công tác quản lý và sử dụng con dấu, xem con dấu như một điều gì đó rất quan trọng, chẳng hạn tại Điều 8 Nghị định số 58/2001/NĐ-CP về quản lý và sử dụng con dấu, quy định như sau: “Bộ Công an quy định thống nhất mẫu các loại con dấu và việc khắc biểu tượng trong con dấu hoặc chữ nước ngoài trong con dấu; cấp giấy phép khắc dấu, lưu chiểu mẫu dấu và cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu; quản lý hoạt động khắc dấu; kiểm tra việc quản lý, sử dụng con dấu và thực hiện các công việc khác theo quy định của Nghị định này.”

Sau đó, theo quy định tại Điều 36 Luật Doanh nghiệp 2005, về con dấu của doanh nghiệp:

“1. Doanh nghiệp có con dấu riêng. Con dấu của doanh nghiệp phải được lưu giữ và bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Hình thức và nội dung của con dấu, điều kiện làm con dấu và chế độ sử dụng con dấu thực hiện theo quy định của Chính phủ.

2. Con dấu là tài sản của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần thiết, được sự đồng ý của cơ quan cấp dấu, doanh nghiệp có thể có con dấu thứ hai.”

Theo đó, con dấu là tài sản của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp lại phải đăng ký với cơ quan công an, muốn sử dụng thêm một con dấu thứ hai thì phải được sự đồng ý của cơ quan cấp dấu (Công an). Như vậy, con dấu từ một vật ghi thông tin của doanh nghiệp (như tên doanh nghiệp, mã số doanh nghiệp) trở thành vật thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp.

Có thể, các nhà lập quy nghĩ rằng cần phải quản lý chặt chẽ con dấu, để tránh trường hợp các đối tượng sử dụng con dấu cho các mục đích vi phạm, hoặc dựa vào con dấu để xác định các giao dịch có hợp pháp hay không. Với cách quản lý này, nhà nước kiểm soát từ ban đầu, tuy nhiên, với việc nâng cao giá trị pháp lý, quản lý quá chặt con dấu thì cũng gây ra những rào cản với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi, doanh nghiệp chỉ có một con dấu, nếu muốn xin thêm thì phải thực sự cần thiết và phải được cơ quan cấp dấu đồng ý, vậy nếu cơ quan không đồng ý thì doanh nghiệp không được khắc, sử dụng thêm con dấu. Do đó, tự nhiên cái con dấu vô tri trở thành lực cản cho hoạt động bình thường của doanh nghiệp, niềm tin vào sự tồn tại của doanh nghiệp trong các giao dịch phát sinh lại dựa vào con dấu, thiếu con dấu thì xem như không tiến hành thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp, không có phương tiện để xác lập các quan hệ pháp luật liên quan. Vấn đề này dẫn đến rất nhiều vụ tranh chấp, kiện tụng cũng liên quan đến con dấu, mà nếu có sự thông thoáng trong quản lý, sử dụng con dấu thì đã không xảy ra những tranh chấp không đáng có này.

Điển hình, có vụ tranh chấp nội bộ liên quan đến con dấu đã bị hình sự hóa. Theo đó, vào những năm 2000, khi Công ty Cổ phần Hữu Nghị (Hà Nội) tiến hành cổ phần hóa thì phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp nội bộ. Một nhóm cổ đông đã triệu tập Đại hội đồng cổ đông để phế truất HĐQT cũ và bầu HĐQT mới. Các bên đã đưa sự việc tranh chấp ra Tòa án và đơn thư khắp các cơ quan.

Sau đó cuối năm 2005, UBND thành phố Hà Nội có văn bản công nhận HĐQT mới và yêu cầu HĐQT cũ giao nộp con dấu cho HĐQT mới. HĐQT cũ không chấp nhận giao nộp con dấu và gửi đơn khiếu nại. Sự việc tranh chấp đã bị dẫn lên tới đỉnh điểm, khi cơ quan Công an đã quyết định khởi tố vụ án “Chiếm đoạt con dấu” theo quy định tại Điều 268 Bộ luật Hình sự; ra lệnh khám xét khẩn cấp để tịch thu con dấu, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và tất cả giấy tờ liên quan đến tư cách pháp nhân của Công ty. Sau một thời gian điều tra, thì vụ án bị đình chỉ. Đầu tháng 07/2019, Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, yêu cầu kiểm tra lại quá trình giải quyết của vụ án “hình sự hóa con dấu” nêu trên.[1]

Đến những quan điểm cởi mở hơn về con dấu

Theo thống kê của Nhóm Ngân hàng Thế giới (World Bank Group), trong số 189 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng về môi trường kinh doanh tại báo cáo Doing Business:[2]

“- Có 79 quốc gia có thủ tục làm con dấu doanh nghiệp là một trong những thủ tục của quy trình gia nhập thị trường. Trong số này, chỉ có 7 quốc gia quy định bắt buộc doanh nghiệp phải có con dấu (bao gồm: Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar, Triều Tiên, Buhtan), 72 quốc gia còn lại cho phép doanh nghiệp được lựa chọn việc có sử dụng con dấu hay không.

– Có 110 quốc gia không sử dụng con dấu doanh nghiệp: Canada (từ năm 1971), Anh (từ năm 1989), California – Mỹ (từ năm 1995), Úc (từ năm 1998), Armenia (từ năm 2010), Hy Lạp (từ năm 2013), Hồng Kông (từ tháng 3/2014),…”

Căn cứ vào số liệu thống kê nói trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng xu hướng chung của thế giới là tạo sự cởi mở, thông thoáng, tạo cơ chế tự do, tự quyết định của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng con dấu.

Ở nhiều quốc gia, việc sử dụng con dấu rất linh hoạt và thuộc quyền tự chủ của doanh nghiệp. Ví dụ:

– Tại Vương quốc Anh đã bãi bỏ việc doanh nghiệp bắt buộc phải sử dụng con dấu kể từ năm 1989. Theo quy định của Luật Công ty 2006 của Anh, doanh nghiệp không bắt buộc phải có con dấu. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có con dấu thì nội dung của con dấu phải tuân thủ một số nguyên tắc chung. Luật này cũng quy định con dấu doanh nghiệp và chữ ký của người có thẩm quyền có giá trị ngang nhau trong việc khẳng định giá trị pháp lý của văn bản do doanh nghiệp ban hành.

– Tại nước Úc (hay Australia): Theo Luật Công ty 2001 – Corporation Act 2001, công ty không bắt buộc phải có con dấu, nếu có 1 con dấu thì nó phải là con dấu chung của Công ty (common seal). Theo quy định, con dấu phải có tên công ty, mã số công ty ACN (Australian Company Number) hoặc mã số kinh doanh ABN (Australian Business Number). Công ty có thể ký kết hợp đồng mà không cần sử dụng con dấu. Trường hợp công ty nhân bản con dấu chung thì các con dấu nhân bản phải được ghi rõ tương ứng là “duplicate seal” hoặc “share seal” hoặc  “certificate seal”.

– Tại Hồng Kông: Theo Pháp lệnh Công ty (622) – Companies Ordinance (622) của Hồng Kông, công ty không bắt buộc phải có con dấu chung (common seal). Theo quy định, con dấu phải được làm bằng kim loại, được khắc chữ tên công ty một cách rõ ràng, dễ nhìn. Nếu hình thức con dấu không đúng quy định thì các cá nhân liên quan sẽ bị vi phạm pháp luật và phải chịu mức phạt ở mức độ 3. Nếu tiếp tục vi phạm sẽ bị phạt $300 Hồng Kông mỗi ngày cho đến khi khắc phục hành vi vi phạm đó.

Ngoài ra, Pháp lệnh Công ty cho phép công ty đã có con dấu chung có thể có con dấu chính thức (official seal) để sử dụng ở nước ngoài. Con dấu chính thức đó phải là bản sao của con dấu chung của công ty, nhưng có khắc rõ ràng tên địa điểm nơi con dấu này sẽ được sử dụng.

– Tại Nhật Bản: Con dấu được sử dụng cùng với chữ ký để khẳng định tính pháp lý của văn bản. Không chỉ pháp nhân mà cá nhân cũng sử dụng con dấu để đóng dấu vào các văn bản quan trọng. Người Nhật có hai loại con dấu cơ bản đó là: con dấu không phải đăng ký (mitomein) và con dấu phải đăng ký (jitsuin).

Khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, bắt buộc phải sử dụng con dấu của người đại diện theo pháp luật (đã được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền) để đóng dấu vào đơn đăng ký. Doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng con dấu của công ty và con dấu của người đại diện theo pháp luật, trong đó, con dấu của người đại diện theo pháp luật được coi là quan trọng hơn vì chỉ có con dấu này là bắt buộc phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Pháp luật Nhật Bản quy định rõ con dấu là tài sản giá trị của doanh nghiệp.

Việc quản lý và sử dụng con dấu được quy định rất chặt chẽ nhằm hạn chế tối đa các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến con dấu. Kích cỡ, hình thức của con dấu được quy định chi tiết bởi Bộ Tư pháp (Ministry of Justice).

Các loại con dấu được đặt tên gọi tương ứng với ý nghĩa, mục đích sử dụng của chúng, ví dụ như: con dấu liên kết (bridging seal) – sử dụng để đóng vào giữa hai trang giấy liền kề nhau, con dấu đóng trước khi sửa chữa (pre-affixed correction seal) – đóng dấu trước khi có sự sửa chữa trong văn bản, con dấu sửa chữa (correction seal) – đóng dấu sau khi sửa chữa văn bản,… Ý nghĩa sử dụng của con dấu phải được đăng ký với cơ quan nhà nước.[3]

Trong quá trình xây dựng, soạn thảo Luật Doanh nghiệp 2014, nhà nước đã dần cơi nới, cho doanh nghiệp được tự chủ về con dấu và không cần phải đăng ký mẫu dấu với cơ quan công an (trừ một số loại hình đặc thù như Công ty Luật, Văn phòng Công chứng). Theo đó, tại Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014 về Con dấu của doanh nghiệp có quy định:

“1. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Nội dung con dấu phải thể hiện những thông tin sau đây:

a) Tên doanh nghiệp;

b) Mã số doanh nghiệp.

2.Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

3. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty.

4. Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.”

Như vậy, sau một chặng đường dài, doanh nghiệp đã có quyền quyết định số lượng, hình thức, nội dung của con dấu.

Tuy nhiên, trước khi sử dụng vẫn phải có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh, để được đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nội dung thể hiện “Con dấu là tài sản của doanh nghiệp” mà Luật Doanh nghiệp 2005 đã thể hiện trước đây, thì tại Luật Doanh nghiệp 2014 đã không có nội dung ghi nhận con dấu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, đây cũng được xem là một điểm mới, một cách nhìn nhận, tiếp cận mới của Luật Doanh nghiệp 2014, so với Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ đang nhắc đến tính sở hữu của doanh nghiệp đối với con dấu.

Cách nhìn nhận, thay đổi này là phù hợp, bởi theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015, hiện hành) thì “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Trong khi đó, con dấu có nhiệm vụ chính, và mục đích chính là xác nhận, xác định người ký kết vào văn bản, tài liệu là đại diện cho doanh nghiệp hoặc xác nhận giấy tờ giao dịch đã đóng là của doanh nghiệp. Điều này giúp cho công việc chống giả mạo văn bản, là công cụ để giám sát, phân biệt tài liệu thật, giả, tạo niềm tin cho đối tác, khách hàng yên tâm giao dịch, mua bán. Con dấu cũng không phải là của cải, vật chất để dùng vào mục đích sản xuất, tiêu dùng, không mang tính chất là một tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc không ghi nhận “Con dấu là tài sản của doanh nghiệp” là hoàn toàn phù hợp.

Khẳng định Doanh nghiệp được tự chủ sử dụng con dấu

Theo quy định tại Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 về dấu của Doanh nghiệp:

“1. Dấu bao gồm dấu được làm tại cơ sở khắc dấu hoặc dấu dưới hình thức chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

2. Doanh nghiệp quyết định loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp.

3. Việc quản lý và lưu giữ dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc quy chế do doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu ban hành. Doanh nghiệp sử dụng dấu trong các giao dịch theo quy định của pháp luật.”

Quy định trên cho thấy Luật Doanh nghiệp 2020 đã bỏ hoàn toàn thủ tục thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp quyết định loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp. Có nghĩa rằng, doanh nghiệp có quyền tự quyết định, không tuân theo chuẩn mực nào, có thể sử dụng dấu dưới hình thức chữ ký số trong giao dịch.

Doanh nghiệp cũng không cần thông báo mẫu dấu đến cơ quan đăng ký kinh doanh thì đã bớt bỏ đi một thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, nhà nước chính thức thay đổi cách thức quản lý từ kiểm soát sang cho doanh nghiệp tự chủ động và tự chịu trách nhiệm.

Với việc thay đổi này, chúng ta đã dần tiệm cận với những chuẩn mực pháp lý trong kinh doanh đối với thế giới. Con dấu doanh nghiệp trở về với công dụng, mục đích ban đầu của nó là dấu hiệu nhận biết của một doanh nghiệp hơn là một yếu tố then chốt thể hiện sự pháp lý của doanh nghiệp.

Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, các cách thức để xác lập giao dịch, ghi nhận ý chí của các bên trong giao dịch đã có sự thay đổi, các nền kinh tế được kết nối không biên giới. Do đó, việc đòi hỏi những “chữ ký tươi” “dấu đỏ” trong các giao dịch sẽ dần thay thế bằng các chữ ký điện tử, hoặc con dấu điện tử.

Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2020 vẫn kế thừa và ghi nhận tiếp nội dung, tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014 rằng trong các giao dịch không bắt buộc phải có sử dụng con dấu. Cụ thể: Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu”. Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Doanh nghiệp sử dụng dấu trong các giao dịch theo quy định của pháp luật.”

Quy định này của Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Doanh nghiệp 2014 là điểm mới so với Luật Doanh nghiệp 2005. Bởi, trước khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời thì trước đó, quy định về quản lý, sử dụng con dấu được quy định tại Nghị định 58/2001/NĐ-CP và doanh nghiệp là một trong những đối tượng thuộc điều chỉnh của Nghị định. Theo đó, tại Điều 1 của Nghị định 58/2001/NĐ-CP thể hiện: “Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước. Con dấu được quản lý theo quy định của Nghị định này”.

Do đó, khi lập, ký kết các văn bản trong giao dịch thì doanh nghiệp phải đóng dấu vào văn bản để thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ. Nếu không đóng dấu thì văn bản, giao dịch đó sẽ không có giá trị pháp lý.

Khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành, tại Điều 36 có quy định: “Chế độ sử dụng con dấu thực hiện theo quy định của Chính phủ” và Nghị định 58/2001/NĐ-CP vẫn có hiệu lực, chỉ bị thay thế theo Nghị định 99/2016/NĐ-CP (có hiệu lực ngày 01/07/2016). Tại Nghị định 99/2016/NĐ-CP, thể hiện việc quản lý và sử dụng con dấu của doanh nghiệp được đăng ký, hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 và Luật đầu tư mà không chịu sự điều chỉnh chung bởi Nghị định về quản lý con dấu như trước đây.

Như vậy, có thể nhận thấy trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020 có hiệu lực thi hành thì những giao dịch được xác lập trước đây, phải có đóng dấu để ghi nhận tính pháp lý. Tuy nhiên, hiện nay, việc sử dụng con dấu là không bắt buộc trong giao dịch, tùy theo sự thỏa thuận của các bên và giao dịch pháp luật bắt buộc.

Sự thay đổi này đã làm thay đổi tư duy, nhận thức vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp, của cơ quan quản lý nhà nước rằng con dấu là vật chứng giám ghi nhận pháp lý của giao dịch. Trong khi đó, để xác định một giao dịch có hợp pháp, hợp lệ hay không giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác thì điểm quan trọng là phải xem sự thỏa thuận, thống nhất ý chí, tự nguyện trong giao dịch, là những nội dung không trái quy định của pháp luật, là năng lực của chủ thể khi giao kết, thực hiện giao dịch.

Hiện nay, ngoài việc tự chủ cho doanh nghiệp trong việc sử dụng con dấu “vật lý”, “vật chất” thì nhà nước cũng đã có những quy định trong việc sử dụng “con dấu điện tử”. Theo đó, tại Điều 8 Nghị định số 130/2018/NĐ-CP thì đã thể hiện chữ ký số có giá trị pháp lý nếu được đáp ứng điều kiện thông điệp dữ liệu an toàn. Như vậy, các bên khi xác lập giao dịch có thể sử dụng chữ ký điện tử, con dấu điện tử để ghi nhận các giao dịch của mình.

Khi doanh nghiệp đã được nhà nước trao các quyền chủ động về con dấu thì cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải có trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng con dấu; chủ động thông báo cho các đối tác được biết. Và việc không bắt buộc phải có con dấu trong các văn bản, hợp đồng khi thực hiện giao dịch thì pháp luật đang khẳng định giá trị pháp lý của chữ ký người đại diện theo pháp luật. Khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến việc sử dụng con dấu, hoặc giao dịch của doanh nghiệp thì doanh nghiệp là bên chịu trách nhiệm và là bên chứng minh. Vậy nên, việc nhà nước không quản lý, không can thiệp sâu vào các tranh chấp này là hoàn toàn phù hợp.

Ngày 01/01/2021, Luật Doanh nghiệp 2020 sẽ có hiệu lực, thời gian cũng cận kề, để những quy định về con dấu doanh nghiệp đi vào đời sống, doanh nghiệp phát huy quyền làm chủ của mình một cách hiệu quả đối với con dấu thì chính bản thân các doanh nghiệp cũng phải có những sự chuẩn bị chu đáo để đón nhận quy định mới của Luật Doanh nghiệp trao cho mình. Theo đó, doanh nghiệp phải có những quy định, cơ chế để phân cấp, phân quyền quản lý, sử dụng con dấu của doanh nghiệp; có cách thức để công khai con dấu, chữ ký để thực hiện giao dịch với các đối tác được diễn ra dễ dàng; tiếp cận với các công nghệ, cách thức sử dụng chữ ký điện tử, con dấu điện tử nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh linh động, thuận lợi../.

Luật sư Mai Quốc Việt – Công ty Luật FDVN

[1] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/pho-thu-tuong-yeu-cau-lat-lai-vu-an-hinh-su-hoa-con-dau-13-nam-truoc-552258.html

[2] https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/3903/van-de-ve-quan-ly-va-su-dung-con-dau-doanh-nghiep.aspx

[3] Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh – Bộ Kế hoạch và Đầu tư – https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/3903/van-de-ve-quan-ly-va-su-dung-con-dau-doanh-nghiep.aspx

XEM THÊM BẢN TIN PHÁP LÝ SỐ 04 THÁNG 8 NĂM 2020 TẠI: https://fdvn.vn/ban-tin-phap-ly-fdvn-so-04-thang-8-nam-2020-hanh-trinh-doanh-nghiep-duoc-tu-chu-voi-con-dau-cua-minh/

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: [email protected]    [email protected]

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL