Giúp học sinh lớp 3 học tốt ”biện pháp tu từ so sánh” trong phân môn Luyện từ và câu

Bạn đang xem tài liệu “Giúp học sinh lớp 3 học tốt ”biện pháp tu từ so sánh” trong phân môn Luyện từ và câu”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.	
 Như chúng ta đã biết: Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, văn hoá giáo dục, thành tựu khoa học đều có liên quan đến việc dạy Tiếng Việt mà trong hệ thống giáo dục, bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, vì nó là bậc học nền móng cho các bậc học tiếp theo. 
 Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học có chức năng “kép” (vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ) và là môn học chiếm nhiều thời lượng nhất. Môn Tiếng Việt cung cấp một khối lượng kiến thức cơ bản cho mỗi học sinh trước khi bước vào đời. Đồng thời, nó giúp học sinh rèn luyện, nâng cao trình độ sử dụng một phương tiện học tập và lĩnh hội tri thức khoa học, nâng cao kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. Học Tiếng Việt không chỉ dừng lại ở những hiểu biết về nó, mà điều quan trọng là sử dụng nó ngày một thành thạo hơn, tốt hơn vào các hoạt động giao tiếp đa dạng trong xã hội. 
 Để đạt được mục tiêu trên, phân môn Luyện từ và câu đã góp phần không nhỏ, ngoài việc củng cố về các mẫu câu và mở rộng vốn từ cho học sinh thì phân môn Luyện từ và câu còn giúp các em làm quen với các biện pháp tu từ, trong đó có biện pháp tu từ so sánh. Đây là mảng kiến thức rất mới đối với học sinh lớp 3. 
 Môn Tiếng Việt lớp 3 nằm trong hệ thống các môn học ở Tiểu học, với mục tiêu nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt như nghe – nói – đọc – viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
 Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự nhiên, xã hội và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
 Trong chương trình Tiểu học hiện nay, phân môn Luyện từ và câu lớp 3, không có bài học riêng về kiến thức, chỉ trình bày các kiến thức (về từ gồm cả thành ngữ, tục ngữ về lao động sản xuất, văn hoá, xã hội, bảo vệ Tổ quốc; kiến thức về ngữ pháp như từ chỉ sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất; Dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy, dấu hai chấm. Học sinh nhận biết sơ giản về các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá ) học sinh cần làm quen và nhận biết thông qua các bài tập thực hành. Qua các bài học, các em sẽ nhận biết được các hình ảnh so sánh, các sự vật được so sánh với nhau trong mỗi khổ thơ, mỗi đoạn văn, các em cần phân biệt được kiểu so sánh của mỗi hình ảnh so sánh ấy; thấy được ý nghĩa, tác dụng của biện pháp so sánh trong biểu đạt ngôn ngữ làm cho sự vật hiện lên sinh động và gần gũi hơn. Để viết được những câu văn hay, những bài văn giàu hình ảnh và cảm xúc, các nhà thơ nhà văn phải có sự quan sát tinh tế và kết hợp với các biện pháp nghệ thuật để tạo nên sự thành công của tác phẩm mà trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần không nhỏ để làm nên điều đó . Vì vậy dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 là trên cơ sở lấy quan điểm giao tiếp làm định hướng cơ bản và dạy theo tinh thần quan tâm đến việc tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hành làm bài tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
 Xuất phát từ đó mà tôi chọn đề tài: Giúp học sinh lớp 3 học tốt '' biện pháp tu từ so sánh " trong phân môn Luyện từ và câu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
 Tiếng Việt cùng với môn Toán là môn học quan trọng ở Tiểu học. Nó chiếm nhiều thời gian trong quá trình học tập, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 cung cấp cho học sinh nhiều kiến thức về mảng nghĩa của từ. Đặc biệt là các hình ảnh so sánh là một trong những nội dung mới và khó đối với học sinh. Học sinh hay nhầm lẫn về hình ảnh so sánh và nhân hóa. Vậy để giúp học sinh đạt kết quả học tập tốt hơn trong phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã đưa ra một số biện pháp nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Tôi chọn học sinh lớp 3B làm đối tượng nghiên cứu trong năm học 2018-2019 tại nơi tôi công tác.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc, tham khảo, nghiên cứu tài liệu.
- Quan sát học sinh và giáo viên khi dạy phân môn luyện từ và câu trong khi đi dự giờ. 
- Điều tra, khảo sát thực tế. 
- Thực nghiệm. 
- Thống kê, so sánh đối chiếu.
- Kiểm tra, đánh giá. 
2. NỘI DUNG .
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
 Thế nào là so sánh? So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc có nét tương đồng, có dấu hiệu chung nào đó nhằm tăng sức gợi cảm hoặc diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự việc. 
 Trong thực tế có 2 loại so sánh là so sánh tu từ và so sánh luận lý. 
 So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh. Mục đích của so sánh tu từ nhằm diễn tả một cách sinh động đặc điểm của sự vật, sự việc.
 So sánh luận lý nhằm mục đích xác lập sự tương đương giữa 2 đối tượng.
 Mặt khác, Nội dung chương trình học Luyện từ và câu lớp 3 về phần so sánh được học trong 10 tiết ở các tuần ở tuần 1,3,5,7,9,10,15,18 của học kỳ 1 với 22 bài tập khác nhau. Nội dung “so sánh” được dạy kèm với các nội dung khác. Có bài chỉ dạy một nội dung về so sánh (bài 5) nhiều bài do kết hợp với các nội dung khác như: 
So sánh được dạy cùng nội dung ôn kiểu câu: “Ai là gì ?” trong 4 tiết. 
So sánh được dạy cùng nội dung ôn kiểu câu “ Ai làm gì ?” trong 2 tiết 
So sánh được dạy cùng nội dung Danh từ (chỉ sự vật) trong 4 tiết
Riêng tuần 9 có thêm nội dung “Từ ngữ về quê hương”
Ở lớp 3, học sinh vẫn chỉ đang ở cuối giai đoạn của một quá trình nhận thức nên nội dung dạy học so sánh không có tiết lý thuyết riêng phần hình thành kiến thức được cung cấp thông qua hệ thống bài tập. Các bài tập được đưa ra dưới nhiều dạng khác nhau. 
Việc hiểu và tìm đúng các hình ảnh so sánh giúp học sinh làm bài tập một cách chính xác, tránh những cách hiểu khác nhau. Vậy cần có một số biện pháp đưa ra để giúp học sinh nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 
2.2.1. Về việc dạy của giáo viên.
 Theo quy trình dạy học phân môn Luyện từ và câu, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh nắm kiến thức. Tuy nhiên do thời lượng một tiết có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ, phân biệt biện pháp tu từ so sánh trong các bài học được. Do đó sau các bài học về so sánh học sinh chỉ nắm được kiến thức một cách riêng biệt. Đôi khi trong dạy học các nội dung này giáo viên có lúc bí từ ( hạn chế về vốn từ) khi lấy thêm ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa để giúp học sinh phân biệt biện pháp tu từ so sánh với các mạch kiến thức khác.
2.2.2. Về việc học biện pháp tu từ so sánh của học sinh.
 Khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực
quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế.
 Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về so sánh tu từ học sinh tiếp thu và làm bài tập nhanh hơn về so sánh lí luận, có lẽ bởi so sánh lí luận trừu tượng hơn so sánh tu từ.
 Đặc biệt khi làm bài tập biện pháp tu từ so sánh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài tập chưa đạt yêu cầu. Các em chưa nắm được yêu cầu cơ bản như: cách nhận diện sự vật, nhận diện về đặc điểm của sự vật được đem ra so sánh, từ thể hiện sự so sánh sao cho phù hợp. 
 Để kiểm tra khả năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh tôi đã cho học sinh lớp 3B làm bài tập sau:
Đề bài:
 Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn sau:
a) Hai bàn tay em
 Như hoa đầu cành
 b) Những ngôi sao thức ngoài kia
 Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
 c) Trường Sơn: chí lớp ông cha
 Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào
 d) Mảnh trăng non đầu tháng lơ lửng giữa trời như một cánh diều.
Kết quả khảo sát:
Tổng số
học sinh
Số học sinh 
trả lời đúng
Số học sinh 
trả lời sai
Số học sinh 
không trả lời được
25 em
SL
TL
SL
TL
SL
TL
10
40
10
40
5
20
Chỉ có 10 em trả lời đúng, 10 em chưa xác đinh được các hình ảnh so sánh, còn 5 em không hiểu gì.
Đứng trước thực trạng trên, bản thân tôi rất trăn trở. Làm thế nào để giúp học sinh có thể nhận biết được biện pháp so sánh trong quá trình học tập. Bản thân tôi đã đưa ra một số biệp pháp để giúp các em nhận biết được biện pháp so sánh như sau: 
2.3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1. Giáo viên phải nắm vững kiến thức về biện pháp tu từ so sánh.
a) Về nội dung, yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng.
 *) Néi dung vÒ “biện pháp so sánh” trong phân môn Luyện từ và câu ë ch­¬ng tr×nh Tiếng Việt lớp 3.
Kiến thức lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài với các nội dung sau:
- So sánh: Sự vật - Sự vật.
Ví dụ: Hai bàn tay em
 Như hoa đầu cành.
- So sánh: Sự vật - Con người.
Ví dụ: Mắt hiền sáng tựa vì sao
 Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
- So sánh: Âm thanh - Âm thanh.
Ví dụ: Tiếng suối trong như tiếng hát xa
 Trăng lồng cổ thụ, bóng lòng hoa.
- So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
Ví dụ: Con voi đen lông mượt
 Chân đi như đạp đất.
*) Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng:
- Tìm được những sự vật được so sánh với nhau câu văn, câu thơ.
- Tìm được hình ảnh so sánh trong câu văn, câu thơ.
- Nhận biết được các từ chỉ sự so sánh.
- Nắm được các kiểu so sánh: So sánh hơn kém ; so sánh sự vật với con người ; so sánh âm thanh với âm thanh ; so sánh hoạt động với hoạt động.
- Nêu được các từ so sánh.
- Điền từ ngữ vào câu có hình ảnh so sánh. 
b) Biện pháp tu từ so sánh: 
So sánh là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác nhau nhưng giống nhau ở một điểm nào đó, để hiểu rõ hơn đối tượng được nói đến.
So sánh bao gồm:
- Đối tượng được so sánh
- Phương diện so sánh
- Từ biểu thị quan hệ so sánh ( như, như thể, như là, giống, giống như, tựa như, không khác gì, bằng, là, chẳng bằng )
- Đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh.
So sánh có tác dụng như sau:
- Về nhận thức: Qua so sánh, đối tượng nói đến được hiểu rõ hơn.
 - Về biểu cảm: Hình ảnh so sánh làm tăng thêm tính biểu cảm cho câu văn.
 Bài tập về so sánh có hai loại nhỏ :
- Bài tập nhận biết phép tu từ so sánh
- Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh
2.3.2. H­íng dÉn häc sinh c¸ch häc tõng m¹ch kiÕn thøc vÒ so sánh th«ng qua c¸c bµi tËp cô thÓ.
Sách Tiếng Việt lớp 3 không trực tiếp giới thiệu khái niệm so sánh ( với tư cách là một biện pháp tu từ ) cho học sinh, mà thông qua hàng loạt bài tập, dần dần hình thành ở học sinh khái niệm này. Hình thức bài tập thường là nêu câu văn, câu thơ, đoạn văn trong đó có sử dụng biện pháp tu từ so sánh; yêu cầu học sinh chỉ ra các hình ảnh so sánh, các sự vật được so sánh với nhau trong câu văn, câu thơ, đoạn văn ấy.
 Chính vì thế tôi đã hướng dẫn học sinh nhận biết biện pháp tu từ so sánh thông qua các bài tập cụ thể.
a) Kiểu so sánh: Sự vật - Sự vật.
Dạng bài tập này được cung cấp đan xen trong 4 tuần : Tuần 1, 3 , 9 và 15 với các bài tập cụ thể như sau:
* Ví dụ: 
 Bài 1: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
a.	"Hai bàn tay em
	Như hoa đầu cành" 
 (Huy Cận)
	 b. 	"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
	 (Vũ Tú Nam)
c.	"Cánh diều như dấu á
	Ai vừa tung lên trời"
	 (Lương Vĩnh Phúc)
d.	"Ơ cái dấu hỏi
	Trông ngộ ngộ ghê
	Như vành tai nhỏ
	Hỏi rồi lắng nghe"
	 (Phạm Như Hà) - (Bài tập SGK-trang 8)
 Bài 2: Tìm các hình ảnh được so sánh trong những câu thơ, câu văn dưới đây :
 a. Mắt hiền sáng tựa vì sao
 Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
 Thanh Hải
 b. Em yêu nhà em
 Hàng xoan trước ngõ
 Hoa sao xuyến nở
 Như mây từng chùm.
 Tô Hà
 c. Mùa đông
 Trời là cái tủ ướp lạnh
 Mùa hè
 Trời là cái bếp là nung
 Lò Ngân Sủn
 d. Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.
 Đất nước ngàn năm.
 (Bài tập SGK-trang 25)
 Bài 3 : Ghi lại những sự vật được so sánh với nhau trong những câu sau :
a. Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục khổng lồ, sáng long lanh. ( Ngô Quân Miện)
b. Cầu Thê Húc màu son, cong cong như con tôm, dẫn vào đền Ngọc Sơn.
 (Ngô Quân Miện)
c. Người ta thấy con rùa lớn, đầu to như trái bưởi, nhô lên khỏi mặt nước.
 (Bài tập SGK-trang 69)
Cách dạy loại bài tập này, trước hết giáo viên cho một học sinh đọc thành tiếng toàn bộ bài tập. Các em khác vừa nghe, vừa nhìn vào bài tập trong sách giáo khoa. Ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn. Sau bước nhận biết sơ bộ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào phân tích từng trường hợp, tìm các sự vật được so sánh hoặc các hình ảnh so sánh theo yêu cầu của bài tập.
 Với dạng bài tập này tôi thường hướng dẫn học sinh làm theo các bước sau :
- Đọc yêu cầu bài tập. Lưu ý đọc toàn bộ bài tập
- Hướng dẫn HS phân tích yêu cầu.
+ Bài tập yêu cầu làm gì ?
+ Để tìm được các sự vật, hình ảnh được đem ra so sánh em cần làm gì ?
 (Đọc kĩ yêu cầu và các câu văn câu thơ đề tìm các sự vật, các hình ảnh được đem ra so sánh)
- Tìm sự vật được so sánh hoặc các hình ảnh được so sánh.
 Lưu ý HS : Đã gọi là so sánh thì phải có ít nhất 2 sự vật hoặc 2 hình ảnh trở lên được đem ra để so sánh.
- Kết luận : Giáo viên kết luận và phân tích rõ để HS hiểu và tự làm lại được bài tập nếu sai.
 Theo cách làm này HS sẽ tìm được những sự vật hoặc những hình ảnh được so sánh với nhau theo yêu cầu của bài tập : Cụ thể là :
1. Bài tập 2 – trang 8
a. hai bàn tay em được so sánh với hoa đầu cành. 
b. mặt biển được so sánh với tấm thảm khổng lồ.
c. cánh diều được so sánh với dấu á.
d. dấu hỏi được so sánh với vành tai nhỏ.
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
+ Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai.
 Sau mỗi câu trả lời giáo viên cho học sinh xem hình ảnh minh họa để các em dễ hình dung.
Hai bàn tay
Hoa đầu cành
Dấu hỏi
Vành tai
2. Bài tập 1 – trang 25 
a. Mắt hiền sáng tựa vì sao
 b. Hoa sao xuyến nở như mây từng chùm.
 c. Trời là cái tủ ướp lạnh / Trời là cái bếp lò nung
d. Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng
3. Bài tập 2 – trang 69
a. Hồ như một chiếc gương bầu dục khổng lồ
b. Cầu Thê Húc cong cong như con tôm
c. Đầu (con rùa) to như trái bưởi
* Kết luận: Với kiểu so sánh này tôi củng cố cho HS về:
- Nhận biết được sự vật hoặc hình ảnh được đem ra so sánh.
- Để so sánh được cần phải có ít nhất hai sự vật hoặc hai hình ảnh trở lên trong cùng một ví dụ.
 - Từ để so sánh trong kiểu so sánh sự vật với sự vật là: như, là, tựa
 b) Kiểu so sánh hơn kém:
Bước đầu sách giáo khoa chỉ cung cấp cho HS làm quen với kiểu so sánh này nên có rất ít trong chương trình.
Ví dụ : Bài tập – trang 42, 43
Tìm các hình ảnh so sánh trong những khổ thơ sau :
a. Bế cháu ông thủ thỉ
 - Cháu khỏe hơn ông nhiều
 Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng
 (Phạm Cúc)
b. Ông trăng tròn sáng tỏ
 Soi rõ sân nhà em
 Trăng khuya sáng hơn đèn
 Ơi ông trăng sáng tỏ 
 (Trần Đăng Khoa)
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
 (Trần Quốc Minh)
Ở phần này khi kết luận cần cho HS nhận biết được các từ so sánh trong các khổ thơ để khắc sâu cho HS và giúp HS dễ dàng nhận biết được đó chính là kiểu so sánh hơn kém.
 Từ các bước làm trên HS tìm được các hình ảnh so sánh và kiểu so sánh cụ thể là :
Hình ảnh so sánh
Kiểu so sánh
a. Cháu khỏe hơn ông nhiều
Ông là buổi trời chiều
 Cháu là ngày rạng sáng
hơn kém
ngang bằng
ngang bằng
 b. Trăng khuya sáng hơn đèn
hơn kém
c.Những ngôi sao thức chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
hơn kém
ngang bằng
Lưu ý: Trong câu “Trăng khuya sáng hơn đèn” HS sinh gạch dưới từ trăng hoặc cả cụm từ trăng khuya đều được xem là đúng. Hay trong câu
“Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con”
HS có thể gạch dưới Những ngôi sao hay Những ngôi sao thức ngoài kia, mẹ hay mẹ đã thức vì chúng con đều được. Điều quan trọng là trong mỗi cụm từ đều có các từ nòng cốt : trăng, những ngôi sao, mẹ là được.
* Kết luận: Với kiểu so sánh này tôi củng cố cho HS về:
- Các hình ảnh được so sánh trong câu thơ.
- Các từ so sánh: là – hơn – chẳng bằng
- Kiểu so sánh: hơn kém, ngang bằng. 
c) Kiểu so sánh: Sự vật - Con người.
Dạng của mô hình so sánh này là:
	A như B: 	+ A có thể là con người.
	+ B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Với kiểu so sánh này tôi hướng dẫn HS nắm được yêu cầu của đề bài; tìm các hình ảnh so sánh; nhận biết về kiểu so sánh.
* Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
a.	Trẻ em như búp trên cành
 Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan
 (Hồ Chí Minh)
b.	Ngôi nhà như trẻ nhỏ
 Lớn lên với rời xanh 
 (Đồng Xuân Lan)
c. Cây pơ-mu đầu dốc
 Im như người lính canh
 Ngựa tuần tra biên giới
 Dừng đỉnh đèo hí vang 
 (Nguyễn Thái Vận)
 d. Bà như quả ngọt chín rồi
 Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng.
 (Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được "Vì sao?". Chính vì thế điều đó giáo viên giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn:
Giáo viên cho học sinh xem ảnh chụp búp trên cành và giải thích thêm:
 Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống, chứa chan niềm hy vọng.
Cây pơ- mu cao lơn đứng hiên ngang như người lính dũng cảm đứng canh gác giữa bầu trời.
"Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
* Kết luận: Với kiểu so sánh này tôi khắc sâu cho HS về:
- Các hình ảnh so sánh có trong câu thơ, câu văn, chỉ rõ cho HS biết hình ảnh nào chỉ sự vật hình ảnh nào chỉ người.
- Từ so sánh là từ như
- Kiểu so sánh: Sự vật với con người
d) Kiểu so sánh: Âm thanh - Âm thanh:
Mô hình này có dạng sau:
	A như B:	+ A là âm thanh thứ 1.
	+ B là âm thanh thứ 2.
* Ví dụ: Bài tập 2 – trang 80
 Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ,câu văn dưới đây:
a. 	"Côn Sơn suối chảy rì rầm
 Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"
	(Nguyễn Trãi)
b. Tiếng suối trong như tiếng hát xa
 Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
c. Mỗi lúc, tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng. Chim đầu chen nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết lá. (Đoàn Giỏi)
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn:
Âm thanh thứ nhất
Từ so sánh
Âm thanh thứ hai
Tiếng suối
Tiếng suối
 Tiếng chim
như
như
như
tiếng đàn cầm
tiếng hát xa
tiếng xóc những rổ tiền đồng
Lưu ý: GV giải thích cho HS hiểu những gì ta chỉ có thể nghe được mà không cầm nắm được đó chính là âm thanh.
* Kết luận: Với kiểu so sánh này tôi vừa củng cố và mở rộng cho HS về:
- Xác định được từ chỉ âm thanh có trong câu thơ, câu văn.
- Từ so sánh: như
- Kiểu so sánh mới: So sánh âm thanh với âm thanh
đ) Kiểu so sánh: Hoạt động - Hoạt động.
Mô hình này có dạng như sau: 
+ A như B.
* Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: + 	"Con trâu đen lông mượt
	 Cái sừng nó vênh vênh
	 Nó cao lớn lênh khênh
	 Chân đi như đạp đất" 
 (Trần Đăng Khoa)
 + 	"Cau cao, cao mãi 
	 Tàu vươn giữa trời
	 Như tay