Giải pháp giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

TÓM TẮT:

Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng
của Việt Nam thời gian qua đã mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường và học hỏi kinh
nghiệm kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng khiến các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng trước những thách thức lớn.
Điều đó đặt ra những yêu cầu cấp thiết cho khối doanh nghiệp này cần duy trì và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể tồn tại và phát triển trong một
môi trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt.

Từ khóa: Doanh nghiệp vừa và nhỏ, thị
trường, kinh doanh, kinh tế, nguồn nhân lực.

I. Đặt vấn đề

Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đóng
vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển. DNVVN là tiền đề cho sự phát triển công nghệ và kỹ
năng trong nước, sự phát triển kinh tế – xã hội và thúc đẩy tiến bộ khoa học
với khả năng thu hút lao động rất lớn, giảm thiểu gánh nặng từ những tiêu cực
của xã hội. Ở Việt Nam, với nền kinh tế đang phát triển, sự tập trung hóa trong
sản xuất còn thấp, DNVVN đóng góp đáng kể trong việc tạo ra sản phẩm và GDP. Cùng
với đó, Việt Nam còn là một nước đông dân (trên 90 triệu dân/331.212 km2 ), tỷ
lệ thất nghiệp tương đối cao, do đó sự phát triển của DNVVN sẽ góp phần làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Quá trình phát
triển của DNVVN đồng nghĩa với quá trình nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến
thiết bị máy móc tạo ra chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu cao của nền kinh tế
thị trường đến một mức độ nào đó và đóng góp giá trị không nhỏ cho quá trình
hiện đại hóa, công nghiệp hóa của nước ta. Sự phát triển của DNVVN có vai trò
quan trọng cho quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa (CNH, HĐH) đất nước cũng
như chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam.

Theo số liệu thống kê, 20% số DNVVN
đang hoạt động có thể trụ được trong cạnh tranh, 60% số doanh nghiệp (DN) đang
cố gắng để tồn tại và 20% đã bị giải thể hoặc ngừng hoạt động. Số DN gặp khó
khăn rút lui khỏi thị trường ngày càng nhiều do những thách thức của nền kinh
tế đã và đang loại khỏi thị trường những DN yếu kém, không đủ sức tồn tại và không
kịp thay đổi để thích nghi với điều kiện mới. Có thực tế như trên, ngoài ảnh
hưởng của kinh tế cả nước cũng như toàn cầu, năng lực của đội ngũ lao động
DNVVN cũng đóng góp một phần không nhỏ. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng
của khoa học công nghệ, sự toàn cầu hóa kinh tế quốc tế ngày càng sôi động. Sự
ra đời của nền kinh tế tri thức đặt ra yêu cầu ngày càng cao về chất lượng
nguồn nhân lực (NNL) đối với sự phát triển có hiệu quả của DNVVN.

Đứng trước thời kỳ hội nhập, việc phát
triển nguồn nhân lực đạt chất lượng cao là vấn đề sống còn của DNVVN, bởi đây
là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm, đồng thời
nâng cao tính ổn định và năng động của các doanh nghiệp, từ đó phát triển kinh
tế. Phát triển nguồn nhân lực cho DNVVN có chất lượng là điều kiện tiên quyết
để các doanh nghiệp phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường hiện nay
và cũng là một bài toán đang đặt ra đối với Nhà nước và các cơ quan quản lý.
Phát triển nguồn nhân lực DNVVN được hiểu là việc phát triển nguồn nhân lực cho
DNVVN thông qua chính sách, giải pháp của các cơ quan quản lý. Đây là quá trình
phát triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực DNVVN đáp ứng yêu cầu vị
trí công việc trong tương lai để phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, địa phương,
thành phố.

II. Thực trạng nguồn nhân lực của DNVVN

Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam,
DNVVN là loại hình DN chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế. Theo đó, loại
hình DN này đóng vai trò quan trọng, nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa
đói giảm nghèo… Cụ thể, về lao động, hàng năm, DNVVN tạo thêm trên nửa triệu
lao động mới; sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP… Số tiền
thuế và phí mà các DNVVN tư nhân đã nộp cho Nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10
năm. Sự đóng góp đã hỗ trợ lớn cho việc chi tiêu vào các công tác xã hội và các
chương trình phát triển khác. Do vậy, đã tạo ra 40% cơ hội cho dân cư tham gia
đầu tư có hiệu quả nhất trong việc huy động các khoản tiền đang phân tán, nằm
trong dân cư, để hình thành các khoản vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. Bên
cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, khối DNVVN còn tồn tại một số hạn chế
cố hữu trong đó phải nói đến bất cập về trình độ quản lý và chất lượng nguồn
lao động trong các DN này. Theo số liệu thống kê, có tới 55,63% số chủ DN có
trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học
vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, tiến sỹ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%;
tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung
học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Về lực lượng lao
động, có tới 75% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa qua
đào tạo chuyên môn kỹ thuật; việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc
trong khu vực DNVVN, do vậy các DNVVN càng rơi vào vị thế bất lợi. Điều đáng
chú ý là đa số các chủ DN, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng
và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản
trị DN, các lớp về pháp luật trong kinh doanh…, điều này có ảnh hưởng lớn đến
việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý, phòng tránh
các rủi ro pháp lý của các DN Việt Nam.

Nhìn nhận ra được lỗ hổng này, hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV đã nhận được sự ủng hộ, quan
tâm của các bộ, tổ chức hiệp hội và sự đồng thuận của cộng đồng DNNVV. Hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV đã tạo được sự phát triển lớn
về chiều rộng và từng bước hướng vào đào tạo có trọng tâm, trọng điểm và vào
chất lượng đào tạo. Trong 3 năm 2014-2016, kết quả từ hoạt động này như sau:

Một kết quả rõ nét là hầu hết các học
viên đều cho rằng, khả năng và năng lực kinh doanh của họ được cải thiện đáng
kể sau khi tham dự các khóa đào tạo. Sự tự tin trong quản lý và điều hành hoạt
động sản xuất và kinh doanh của DN là tiến bộ rõ rệt nhất. Chương trình này đã
góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cán bộ chủ chốt trong
DN về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, sự cần thiết phải xây dựng
kế hoạch, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN. Hoạt động đào tạo triển
khai tại các đơn vị bước đầu mang lại hiệu quả và tác động nhất định cho các
học viên, đặc biệt là học viên tại các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó
khăn tham gia tích cực các khóa đào tạo. Tuy nhiên, sau 3 năm triển khai,
chương trình đã bộc lộ một số hạn chế chính như sau: Ngân sách dành cho hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV còn hạn hẹp, mới chỉ đáp ứng
một phần nhu cầu đào tạo của các DNNVV; Nội dung của các khóa đào tạo mới chỉ
đáp ứng được nhu cầu cơ bản về khởi sự doanh nghiệp, cũng như những kiến thức
tổng quan về quản lý doanh nghiệp; Nội dung thiết kế còn khá đơn giản, phương
pháp giảng dạy còn đơn điệu, thời gian thảo luận, giải đáp vướng mắc còn chưa
nhiều.

III. Giải pháp

Một là, thực hiện hoạt động phát triển
nghề nghiệp cho người lao động: DNNVV cần giúp nhân viên thấy rõ những cơ hội
nghề nghiệp và động viên họ tự nhìn nhận về bản thân trong quá trình lập kế
hoạch phát triển nghề nghiệp của mình. DN cần lập kế hoạch bổ nhiệm cán bộ, có
kế hoạch hỗ trợ họ thực hiện kế hoạch nghề nghiệp. Mặt khác, DN cần khuyến khích
cá nhân có trách nhiệm trong phát triển nghề nghiệp của mình…

Hai là, thực hiện chính sách thu hút và
duy trì những người lao động giỏi. Những chính sách khen thưởng và ghi nhận phù
hợp này sẽ làm nhân viên hài lòng và thu hút được nhân viên mới. Để có nhân
viên giỏi, DNNVV cần thực hiện thu hút ứng viên từ nhiều nguồn, tránh tình
trạng chỉ sử dụng người nhà vì có nhiều hạn chế. Việc tuyển dụng đòi hỏi phải
theo đúng quy trình tuyển dụng.

Ba là, tăng cường đào tạo nguồn nhân
lực cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục triển khai hiệu quả hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng quản trị kinh doanh cho các DNNVV. Bộ Lao động Thương
binh và xã hội (Tổng Cục dạy nghề) đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đảm bảo cung
cấp nguồn nhân lực có kỹ năng cho doanh nghiệp. Chú trọng đào tạo nghề các
ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao để chuyển dịch cơ cấu lao động từ thô sơ
sang lao động có tay nghề trình độ, đáp ứng yêu cầu phát triển của DNNVV trong
giai đoạn mới. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập hoặc liên kết với cơ sở dạy
nghề trong đào tạo và giải quyết việc làm. Phát triển đồng bộ thị trường lao
động; phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, các hình thức
thông tin thị trường lao động nhằm kết nối cung cầu lao động.

Bốn là, tăng cường công tác đào tạo bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động dưới nhiều
hình thức nhằm tuyên truyền, khuyến cáo doanh nghiệp thực thi pháp luật. Thực
tiễn trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp hội viên và các hiệp hội địa
phương phản ánh về Hiệp hội những khó khăn trong quá trình thực hiện các hoạt
động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, do không có nguồn lực, đội ngũ cán bộ
không có kỹ năng, không được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp, vì vậy trong nội dung bồi dưỡng tăng cường cho cán bộ thực hiện
công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Hiệp hội đề nghị ngoài việc tập trung
đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho chủ sở hữu, người quản lý
doanh nghiệp, cần tăng cường dành nhiều thời lượng cho chương trình bồi dưỡng
kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
này. Đặc biệt là bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ Hiệp hội doanh nghiệp địa phương
về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Năm là, đối với công tác quản trị nhân
lực, cần: nâng cao chất lượng đội ngũ nhà quản lý. Bên cạnh sự nỗ lực của DN,
cần sự hỗ trợ, giúp đỡ thường xuyên của các cơ quan ban, ngành nhà nước trong
công tác đào tạo nhà quản lý DN; hoàn
thiện công tác tuyển dụng nhân sự. Các DNNVV ở Hà Nội nên tuyển dụng nguồn nhân
lực từ các trường đào tạo, để tuyển dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao;
đồng thời hoàn thiện chế độ lương bổng, đãi ngộ và chính sách bảo hiểm cho
người lao động, nhằm củng cố mối quan hệ hữu cơ giữa họ với DN. Đây là nhân tố quyết
định, không chỉ đảm bảo cho cuộc sống hiện tại, mà còn cho cả tương lai của
người lao động.

Sáu là, hoàn thiện chính sách hỗ trợ
DNVVN. Theo đó, Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách vĩ mô nhằm khuyến khích
phát triển DNNVV, hình thành quỹ phát triển nguồn nhân lực, tiếp tục thực hiện
chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực và đa dạng hóa các hoạt động hỗ
trợ DNNVV. Trong đó, Nhà nước cần hỗ trợ về kinh phí đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực cho các DNNVV, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho các tổ chức
quốc tế trợ giúp cho các DNNVV bằng các hình thức đa dạng. Bên cạnh đó, Nhà
nước cần hoàn thiện chính sách, pháp luật về quan hệ lao động. Bộ Luật Lao động
cũng cần có những quy định bảo vệ quyền lợi của các chủ DN, có những chế tài
cần thiết để xử lý các vi phạm của người lao động tự ý bỏ việc hoặc thôi việc;
Tạo điều kiện để đại diện lao động và chủ sử dụng lao động tham gia xây dựng
chính sách về lao động và phát triển thị trường lao động.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nguyễn Thị Duyên, Bài toán phát
triển nguồn nhân lực cho DNNVV, http://tapchitaichinh.vn, 17/10/2014.

2. Phạm Thị Minh Nghĩa, Một số hạn chế
liên quan đến sự phát triển của DNNVV Hà Nội trong giai đoạn hiện nay,
http://sokehoach.onme.vn, 13/10/2015.

3. Nguyễn Vân Điềm và Nguyễn Ngọc Quân
(2004). Giáo trình quản trị nhân lực. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội,
trang 8.

SOLUTIONS TO IMPROVE THE QUALITY OF
HUMAN

RESOURCES OF VIETNAMESE SMES

Master. TRAN THI HUYEN TRANG

Faculty of Business Administration,
Hanoi Community College

ABSTRACT:

The wide and deep international economic
integration of Vietnam in recent years has created many business opportunities
for domestic enterprises in expanding their markets and absorbing international
business experience. However, this integration process also brings challenges
to these domestic enterprises, particularly small and medium-sized ones which
account for the majority of Vietnamese enterprises. Therefore, it is essential
for Vietnamese small and medium-sized enterprises (SMEs) to find solutions to
maintain and improve the quality of their human resources in order to operate
profitably in the context of an increasingly competitive market.

Keywords: Small and Medium-sized
enterprises (SMEs), market, business, economy, human resources.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả
nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 03 tháng 03/2017

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 03 tháng 03/2017 tại
đây