Giải pháp đột phá nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững | Doanh nghiệp

17h07:

Phát biểu tổng kết Diễn đàn, ông Ngô Sỹ Hoài – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đánh giá cao các báo cáo đều được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, tập trung xung quanh đến các chủ đề xung quanh đến doanh nghiệp doanh nhân Việt Nam đó là làm thế nào để tăng năng lực cạnh tranh doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững. Đây là cơ hội để doanh nghiệp tận dụng cơ để bứt phá trong thời gian tới.

Ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

Ông Ngô Sỹ Hoài – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

Gửi lời cảm ơn tới các doanh nghiệp, các diễn giả tham dự diễn đàn, nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cũng cho biết tạp chí sẽ có những báo cáo đầy đủ để gửi đến các cơ quan chức năng liên quan để có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.

 ——————————————————————–

17h00:

Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Vương Quân Ngọc – Giám đốc tư vấn FPT Digital đã có bài trình bày ngắn về “Bẫy” chuyển đổi số. Theo ông Ngọc, công tác về chuyển đổi số, thực hiện nhiều dự án chuyển đổi số không chỉ các tập đoàn, nhà nước mà còn liên quan đến chính phủ, ban bộ, ngành, chính quyền địa phương.

Ông Vương Quân Ngọc - Giám đốc tư vấn FPT Digital

Ông Vương Quân Ngọc – Giám đốc tư vấn FPT Digital

Làm thế nào để biết cách sử dụng đúng các nền tảng chuyển đổi số. Theo ông Ngọc, tận dụng các nền tảng chuyển đổi số là điều mà các doanh nghiệp đang quan tâm. Số hoá doanh nghiệp là điều hầu hết các doanh nghiệp cần, quản trị tốt hơn. Hành vi tiêu dùng cũng là một hành vi bắt buộc cần trong chuyển đổi số.

Các câu hỏi của doanh nghiệp vừa và nhỏ “làm thế nào để chúng tôi chuyển đổi số được” khi không có tiền, và FPT cũng đã hỗ trợ cơ số những doanh nghiệp này.

Bất cập lớn nhất trong chuyển đổi số là trong việc chuyển giao tới các cấp trong bộ máy. 

Đồng hành cùng các doanh nghiệp trong việc tránh bẫy, FPT cũng đưa ra các phương pháp luận, phù hợp với văn hoá Việt Nam.

 ——————————————————————–

16h50:

Chia sẻ tại Diễn đàn, doanh nhân Phan Minh Thông – Chủ tịch HĐQT, TGĐ Công ty cổ phần Phúc Sinh cho biết, Việt Nam là một đất nước nông nghiệp và xuất khẩu rất nhiều mặt hàng nông sản trên toàn thế giới. Chúng ta sản xuất chiếm vị trí có thứ hạng cao như xuất khẩu gạo đứng thứ hai – thứ ba trên thế giới, cùng với đó là hạt điều, hạt tiêu, cà phê, thủy sản cũng như nhiều mặt hàng khác.

Doanh nhân Phan Minh Thông - Chủ tịch HĐQT, TGĐ Công ty cổ phần Phúc Sinh

Doanh nhân Phan Minh Thông – Chủ tịch HĐQT, TGĐ Công ty cổ phần Phúc Sinh

Trong 3 năm vừa qua, chúng ta gặp vấn đề về COVID-19 và thế giới đã có nhiều biến động. Năm 2022, sau khi đại dịch giảm xuống, châu Âu bắt đầu cho đi lại, chúng tôi đã ngay lập tức có chuyến đi châu Âu làm triển lãm và gặp gỡ khách hàng. Qua đó nhận thấy, châu Âu đang rất khó khăn ở các khía cạnh như, khu vực này phụ thuộc nhiều vào năng lượng của Nga và nhập khâu hàng hoá Trung Quốc. Do đó, khi Trung Quốc đóng cửa, phong toả, các nước này gặp rất nhiều khó khăn, ngay cả một quốc gia rất phát triển như Đức cũng nhập nhiều thiết bị từ Trung Quốc bao gồm cả máy móc.

Một vấn đề nóng nữa là lạm phát trên toàn thế giới hiện nay. Khoảng 70% các doanh nghiệp của Việt Nam sản xuất nông nghiệp với nhiều mặt hàng xuất khẩu, khi lạm phát xảy ra, chúng ta thấy không ảnh hưởng nhiều. Tuy nhiên, lạm phát ở các nước châu Âu và Mỹ diễn ra, dần dần họ bắt đầu mua bán chậm hơn, ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam nhiều hơn đặc biệt là khối xuất khẩu. Đặc biệt, điều đó sẽ ảnh hưởng rất mạnh trong nửa cuối năm 2022.

Bên cạnh đó, các nhà sản xuất ở châu Âu có hai vấn đề rất nổi cộm đó là: 

Thứ nhất, là phát triển bền vững. Thường các doanh nghiệp Việt Nam đã không quan tâm đến truy suất nguồn gốc, trồng trọt ở đâu,… Các doanh nghiệp làm nội địa tại Việt Nam dù lớn, nhưung không gắn chặt với các vùng sản xuất, chế biến, cái họ đi xa nhất là xây dựng các nhà máy hiện đại, nhưng lại không gắn liền với nông dân. Trong khi các khách hàng châu Âu rất quan tâm đến phát triển bền vững và truy suất nguồn gốc.

Đây là một trong những yêu cầu cực kỳ bức thiết, muốn phát triển nông nghiệp và bán hàng hóa vào châu Âu thì phải phát triển bền vững, phát triển các vùng trồng, con người, phát triển theo chuỗi và kiểm soát theo chuỗi. Đây là những thông điệp để các nhà sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hãy quan tâm đến truy suất nguồn gốc và quan tâm đến người nông dân hơn nữa.

Thứ hai, là phát triển chiều sâu. Có một bài toán hiện nay là các công ty phải đầu tư vào trong ngành chế biến, bởi vì nếu không đầu tư chế biến, thì việc cạnh tranh càng trở nên khó khăn.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, doanh số của Phúc Sinh đã tăng 50% so với 2021, vì chúng tôi đầu tư rất nhiều vào các hoạt động có chiều sâu, phát triển bền vững để đáp ứng với nhu cầu mà thế giới đã thay đổi, hoặc có đòi hỏi cao hơn.

 ——————————————————————–

16h40:

Trả lời câu hỏi về việc truyền thông số có thể hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao chất lượng cạnh tranh như thế nào, ông Nguyễn Vũ Anh – Tổng giám đốc công ty TNHH Cốc Cốc chia sẻ từ thực tế hoạt động của doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Vũ Anh - Tổng giám đốc công ty TNHH Cốc Cốc

Ông Nguyễn Vũ Anh – Tổng giám đốc công ty TNHH Cốc Cốc

Ông cho rằng, lãnh đạo doanh nghiệp cần đi từ hành vi của người tiêu dùng, bởi sau đại dịch COVID-19 xảy ra, người dùng đã chuyển từ offline qua online. Đây là cơ hội cũng như là thách thức với các doanh nghiệp khi người dùng có những thay đổi lớn về hành vi người dùng và họ sẽ rất quan tâm về giá của sản phẩm. Họ có xu hướng mua online rất nhiều nhưng ngược lại cùng xu hướng thì 66% người dùng tìm kiếm về giá và so sánh rất kỹ.

Trong bức tranh như vậy các doanh nghiệp có thể tận dụng chuyển đổi số như thế nào để có thể tăng năng lực cạnh tranh? Ông Nguyễn Vũ Anh cho biết, đầu tiên chắc chắn cần truyền thông online, tăng hoạt động marketing Online. Cốc cốc mới được đưa vào mạng lưới số của Việt Nam, phát triển sản phẩm cho người dùng Việt, cạnh tranh với Google. Vị trí hiện tại của cốc cốc và ngoài trình duyệt thì cũng có công cụ tìm kiếm đứng số hai Việt Nam, hàng tháng sẽ có 500.000.000 lượt tìm kiếm trên máy tính và lực tìm kiếm trên điện thoại, đây là những con số rất lớn.

Ông Vũ Anh cho biết với dữ liệu người dùng như trên thì Cốc Cốc có thể hiểu hành vi của người dùng online rất sâu, và có thể hỗ trợ các doanh nghiệp tìm hiểu về hành vi lợi dụng cơ hội trong Online. 

 ——————————————————————–

16h30: 

Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bà Trần Uyên Phương, Phó Tổng Giám đốc Tân Hiệp Phát chia sẻ, từ kinh nghiệm của chính Tập đoàn, các doanh nghiệp cần phải có chiến lược rõ ràng, nhất quán và kiên định với nguyện vọng và tầm nhìn, sứ mệnh. Những điều này là kim chỉ nam giúp doanh nghiệp luôn đi đúng hướng và tiến về phía trước. 

Bà Trần Uyên Phương, Phó Tổng Giám đốc Tân Hiệp Phát

Bà Trần Uyên Phương, Phó Tổng Giám đốc Tân Hiệp Phát.

Đặc biệt, bà Phương nhấn mạnh, để xây dựng công ty có năng lực cạnh tranh và dẫn đầu, đội ngũ lãnh đao cần là những người có hoài bão, dám nghĩ dám làm. “Tại Tân Hiệp Phát, các cấp quản lý cần là những người sẵn sàng tạo nên sự khác biệt, đầu tư, tìm kiếm những hệ thống, mô hình quản trị. Đồng thời tiên phong triển khai mô hình quản trị hướng tới phát triển bền vững”, bà Phương chia sẻ.

Bên cạnh đó, công ty đặt yếu tố tiên phong để nỗ lực đạt được những bước phát triển ấn tượng. Điều này đã giúp Tân Hiệp Phát trở thành công ty đầu tiên trong ngành đạt chứng nhận ISO 9001, ISO 14001…

Đặc biệt, bà Phương cho biết, Tân Hiệp Phát là tập đoàn tiên phong trong sử dụng công nghệ mới để tạo sự thay đổi không chỉ trong chính doanh nghiệp, mà còn tạo làn sóng chuyển đổi trong lĩnh vực nước giải khát.  

Hiểu rõ về doanh nghiệp, Tân Hiệp Pháp đã chủ động đầu tư vào các hệ thống công nghệ thông tin và công nghệ quản trị để cải tiến doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp này cũng đã tận dụng cơ hội từ đại dịch để đẩy mạnh chuyển đổi số

Yếu tố con người cũng là một khía cạnh được bà Phương nhấn mạnh. Theo bà Phương, các doanh nghiệp cần khuyến khích các nhân viên phát triển bản thân, vượt qua giới hạn để từ đó tạo ra giá trị lớn hơn cho chính mình và cho cả tổ chức.  

 ——————————————————————–

16h15: 

Chia sẻ tại Diễn đàn về sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân nhìn từ Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, ông Lê Duy Bình – Chuyên gia Kinh tế, Giám đốc Economica Việt Nam cho biết, tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân có sự chậm lại về số lượng và lao động trong 5 năm từ 2016-2020. Theo đó, số lượng doanh nghiệp đang thực sự hoạt động trong nền kinh tế hiện tăng từ 505.000 doanh nghiệp vào năm 2016 lên khoảng 684.000 doanh nghiệp vào năm 2020.

Ông Lê Duy Bình - Chuyên gia Kinh tế, Giám đốc Economica Việt Nam

Ông Lê Duy Bình – Chuyên gia Kinh tế, Giám đốc Economica Việt Nam

“Như vậy, số lượng tăng lên chỉ 180.000 doanh nghiệp, là khoảng cách khá xa so với số lượng doanh nghiệp đăng ký hàng năm, thường ở mức 1,2 – 1,3 triệu doanh nghiệp đăng ký mỗi năm”, ông Bình cho biết.

Cũng theo ông Lê Duy Bình, trong số 684.000 doanh nghiệp đang hoạt động thì doanh nghiệp tư nhân trong nước là chính, khoảng 660.000 doanh nghiệp, 1.900 doanh nghiệp nhà nước và 22.000 doanh nghiệp FDI.

“Con số này so với là tỷ lệ doanh nghiệp đang thực sự hoạt động ở các quốc gia trong khu vực ASEAN là còn khá xa. Đồng thời, so với mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025 là khá xa”, ông Bình nhấn mạnh.

Nhìn vào xu thế tăng trưởng 5 năm vừa qua, ông Bình cũng chia sẻ, số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhưng tốc độ tăng trưởng chậm lại, cho thấy động lực tăng trưởng chậm lại.

“Chúng tôi cho rằng cần chú trọng, xử lý tăng tốc độ tăng trưởng cho doanh nghiệp đang hoạt động chứ không phải con số tăng trưởng doanh nghiệp đăng ký. Chúng ta đã đạt tới giới hạn doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả, do đó, cần quan tâm đối tượng “dự bị” là hộ kinh doanh với các giải pháp khuyến khích cụ thể để họ phát triển thành doanh nghiệp”, ông Bình kiến nghị.

Quy mô của doanh nghiệp tư nhân 5 năm qua cũng là điều đáng ông Bình cho rằng đáng suy nghĩ khi mà quy mô doanh nghiệp tư nhân nhỏ dần trong 5 năm qua. Từ mức trung bình 18 lao động/ doanh nghiệp đã gỉam chỉ còn 13 lao động/ doanh nghiệp, như vậy cho thấy quy mô doanh nghiệp tư nhân chỉ nhỏ bé tương tự hộ gia đình.

Tuy vậy, tỷ trọng tích tụ vốn của khu vực kinh tế tư nhân tăng lên trong 5 năm qua, từ 53% năm 2016 lên 59% năm 2020. Ông Bình đánh giá, nguồn vốn tăng khá mạnh nhưng quy mô bình quân của doanh nghiệp tư nhân vẫn nhỏ hơn các thành phần kinh tế còn lại như doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp nước ngoài. Quy mô nhỏ bé dẫn tới không tận dụng được lợi thế về quy mô, không tập trung vào đầu tư công nghệ…

Doanh thu của khu vực tư nhân tăng ấn tượng so với khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI. Nhưng điều này chưa thực sự đáng mừng bởi lợi nhuận không theo đà tăng ấn tượng cho thấy doanh nghiệp tư nhân sử dụng vốn lớn, vất vả nhưng lợi nhuận lại khiêm tốn.

5 năm tốc độ đóng góp cho GDP vẫn ở mức khiêm tốn chỉ mức 7,8% năm 2016 lên 9,6% năm 2020, còn xa với mục tiêu tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP, để đến năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 – 65%  như mục tiêu của Nghị quyết số 10-NQ/TW. “Điều này cho thấy cần nhiều nỗ lực cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân để rút ngắn khoảng cách với các nước khu vực ASEAN và gần hơn với mục tiêu được đề ra” – ông Lê Duy Bình nhấn mạnh.

 ——————————————————————–

16h10: Những vấn đề thực tiễn

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, trong phần I, diễn đàn đã được tiếp cận theo ba nhóm vấn đề và được định hình theo phương pháp tư duy mới cho lãnh đạo trong phát triển doanh nghiệp, bao gồm:

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng biên tập Diễn đàn Doanh nghiệp

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

Nhóm vấn đề thứ nhất, với bối cảnh mới, chúng ta cần phải nhìn nhận bao gồm xu hướng phát triển kinh tế mới, xu hướng đang chi phối nền kinh tế toàn cầu hiện nay đó là xu hướng xanh, xu hướng số và xu hướng mới trong phát triển hội nhập, hay những vấn đề chính trị xã hội mới mà chúng ta không thể bỏ qua. Tất cả điều đó đòi hỏi đòi hỏi các lãnh đạo phải đi tìm kiếm những cách thức mới, giá trị mới cho vấn đề điều hành và phát triển.

Nhóm vấn đề thứ hai, là giá trị mới đang nổi lên trong xu hướng mới của quản trị đó là giá trị về liêm chính, minh bạch, tạo dựng niềm tin, kết nối và hợp tác cũng như vấn đề về kinh doanh có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, môi trường.

Nhóm vấn đề thứ ba, đã đề cập trong phần một là phương thức mới, chúng ta sẽ tiếp cận nó một cách mới mẻ hơn, hệ thống hơn theo tư duy hiệu quả, thực tiễn. Đó là vấn đề về quản trị kiểu mới, đổi mới sáng tạo theo tư duy mới và chuyển đổi số, nguồn nhân lực,…

“Trong phần II, từ những vấn đề chung như vậy, chúng ta sẽ đi vào những thực tiễn, bài học cụ thể, mới mẻ, nóng hổi từ phía các doanh nghiệp – những người trực tiếp điều hành doanh nghiệp”. – Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn nói.

 ——————————————————————–

15h55:

Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Trương Anh Dũng – Tổng cục trưởng Tổng cục giáo dục nghề nghiệp cho biết, ở phạm vi quốc gia, lực lượng lao động có chất lượng, kỹ năng và hiệu quả cao là tài nguyên quý giá và là nhân tố quyết định sự phát triển trong quá trình phục hồi và phát triển bền vững đất nước.

ông Trương Anh Dũng – Tổng cục trưởng Tổng cục giáo dục nghề nghiệp

Ông Trương Anh Dũng – Tổng cục trưởng Tổng cục giáo dục nghề nghiệp

 

Với các doanh nghiệp, nguồn nhân lực là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh, thông qua quy mô, cơ cấu, chất lượng và năng suất lao động, từ đó giảm giá thành, giá cả, nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.

Chính vì thế, tại diễn đàn kinh tế thế giới chỉ số kỹ năng, chất lượng đào tạo nghề là 1 trong 12 trụ cột để đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia. Và chỉ số PCI cũng cũng lấy chỉ số đào tạo lao động là 1 trong 10 chỉ số để đánh giá. Các nước OECD cũng có bộ chỉ số thống kê kỹ năng lao động toàn cầu, trong đó vấn đề đánh giá kỹ năng lao động là chỉ số rất quan trọng.

Theo ông Dũng, gần đây, báo cáo Đại hội đồng kỹ năng thế giới cũng rằng nếu lấy tập trung vào sự phát triển kỹ năng của con người thì sẽ có khả tăng tăng 0,5%-2% GDP hàng năm. Ngược lại, sự gia tăng khoảng cách kỹ năng của nhân lực hiện tại và kỹ năng của doanh nghiệp cần, sẽ làm mất khoảng 6% GDP mỗi năm.

Hiện nay, cùng với dịch bệnh COVID-19 và xung đột các quốc gia, nền kinh tế đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong khi đó sự phục hồi của thị trường lao động đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong sự tác động của số hóa, tự động hóa thì 50% các doanh nghiệp, người sử dụng lao động cho rằng kỹ năng lao động sẽ không còn phù hợp, 1/3 số ngành nghề hiện tại sẽ bị thay đổi. Từ đó đặt ra vấn đề cần các ngành nghề mới được đặt ra, 50% các doanh nghiệp cho rằng cần đào tạo lại. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp được đặt câu hỏi cho biết không đủ nguồn lực để thực hiện đào tạo lại.

Theo ông Trương Anh Dũng, vấn đề đặt ra là đồng hành của doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực cho thời kỳ mới. Trong Bộ luật Lao động đã có một chương quy định “Để phát triển giáo dục nghề nghiệp và phát triển kỹ năng nghề trong đó quy định rất rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan một doanh nghiệp, các chính sách của nhà nước và các cơ sở đào tạo”.

Ông Dũng cho hay, chúng ta đã có Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định chính sách của nhà nước về chính sách của nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo. Tuy nhiên, vấn đề hợp tác chưa được. Lâu nay có nhiều ý kiến về việc Việt Nam đang thừa nhân lực, song, sau dịch bệnh, vấn đề thiếu nhân lực đang được đặt ra, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Sự thiếu hụt mang tính cục bộ, thời điểm và ở một số địa phương nhất định. Bên cạnh các vấn đề liên quan đến nhận thức thì vấn đề liên quan đến thông tin cũng rất cần thiết. Thực tế các doanh nghiệp hiện nay chưa nắm được các chính sách liên quan đến giáo dục nghề nghiệp. Vấn đề nữa là chúng ta đã có những cơ chế tài chính, nguồn lực cụ thể nhưng việc triển khai chưa tốt

Ông Trương Anh Dũng cũng cho biết đã có kiến nghị chính phủ về hệ thống thông tin, thống kê dự báo nguồn nhân lực cũng được đặt ra. Khi chúng tôi đi khảo sát các doanh nghiệp khi đặt câu hỏi vì các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, các hiệp hội không nắm được quy định của nhà nước về hợp tác đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp. Điều đó cho thấy rằng dường như Luật quy định chính sách trong đào tạo chưa tác động tới cộng đồng doanh nghiệp. Ngược lại, Luật Doanh nghiệp chưa có vấn đề về đào tạo.

Bên cạnh đó, ông Trương Anh Dũng cũng cho biết, vừa qua Tổng cục đã triển khai giải pháp, trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo tiếp cận được thông tin với cộng đồng các doanh nghiệp. Chúng tôi cũng đã xây dựng website để các doanh nghiệp có thể tham gia tìm kiếm các thông tin liên quan gì đến gì đó tạo, quy mô đào tạo, để các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có thể tiếp cận thông tin đào tạo.

Ông Dũng thẳng thắn nhìn nhận chúng ta thiếu những chính sách cụ thể, đơn cử như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia quá trình đào tạo, dù Luật Thuế đã có quy định. Có cơ chế tài chính, nguồn lực cụ thể nhưng triển khai chưa tốt, đã có quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ công đoàn nhưng thực tế việc sử dụng chưa được quan tâm. Ngay cả gói hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao kỹ năng nghề nghiệp 4.500 tỷ đồng cũng chưa được nắm bắt, doanh nghiệp né tránh.

Một vấn đề nữa đó là cần mở ra cơ chế thúc đẩy các doanh nghiệp. Ông Dũng mong muốn các doanh nghiệp đồng hành cùng Tổng cục giáo dục nghề nghiệp để cung cấp thông tin nhu cầu của doanh nghiệp về lao động, cơ cấu ngành nghề… để tạo nên hệ thống thông tin ngành nghề. Đồng thời, cần sự đồng hành của doanh nghiệp ngay khâu đầu vào, xây dựng chuẩn đầu ra, xây dựng chương trình đào tạo lao động, nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời gian tới.

 ——————————————————————–

15h45:

Ông Nguyễn Hải Minh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) cho biết, sau khi Hiệp định thương mại tự do EVFTA đi vào hiệu lực, tăng trưởng thương mại hai chiều đã có sự chuyển biến tích cực. Về đầu tư, các doanh nghiệp châu Âu đầu tư vào Việt Nam với số vốn đáng kể. Đây là những nguồn đầu tư có chất lượng, sử dụng công nghệ cao và thân thiện với môi trường.

Ô

Ông Nguyễn Hải Minh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham)

Nhận định về bối cảnh chung, ông Mình cho biết, tình hình toàn cầu đang gặp nhiều bất lợi, các doanh nghiệp châu âu cũng gặp 1 số khó khăn cơ bản như cuộc chiến tại Ukraine, lạm phát gia tăng, chính sách zero Covid tại Trung Quốc… Điều này thể hiện trong chỉ số BCI (chỉ số môi trường kinh doanh) do Eurocham tiến hành thực hiện cho thấy, quý II/2022 đã có sự giảm nhẹ so với quý I, phản ánh những khó khăn của doanh nghiệp châu Âu đang gặp phải.

Hiện nay, thị trường châu Âu là thị trường lớn, nhiều tiềm năng. Tham gia chuỗi cung ứng và bán hàng cho doanh nghiệp châu Âu cũng là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Về chiều ngược lại, ông Minh cho biết, các doanh nghiệp châu Âu đều mong muốn xuất khẩu sang thị trường Việt Nam nhiều hơn, qua đó tiếp cận với thị trường ASEAN và cả châu Á. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào việc Việt Nam có tận dụng được cơ hội này hay không.

Về khía cạnh phát triển bền vững, Châu Âu có chiến lược phát triển bền vững nhiều năm nay và có một số trụ cột chính gồm bảo vệ môi trường, thúc đẩy quyền con người và quyền của người lao động và trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội. Ba trụ cột này được lồng vào chính sách thương mại của khối, cũng như được thể hiện trong Hiệp định EVFTA khi đưa ra những điều kiện và cam kết mà Việt Nam phải đạt được liên quan đến phát triển bền vững mới có thể hưởng những ưu đãi thuế quan.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp châu Âu đều là những doanh nghiệp đi đầu trong việc tuân thủ yêu cầu trong phát triển bền vững như sử dụng năng lượng sạch trong sản xuất, tiêu chuẩn cao với người lao động. Ông Minh chia sẻ. hiện nay có khái niệm mới bao trùm hơn là thực hành kinh doanh có trách nhiệm.

Theo ông Minh, hiện nay Eurocham đang triển khai 1 số chương trình tăng cường liên kết giữa cộng đồng doanh nghiệp hai bên như các hoạt động kết nối để các doanh nghiệp có thể nắm bắt các thông lệ châu Âu đang triển khai; các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tiếp cận thị trường, xúc tiến bán hàng; các chương trình đào tạo về các quy định mà doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt…

Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ tại hội nghị COP26, do đó, ông MInh cho rằng, các chiến lược, mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới cần thay đổi và điều chỉnh và gắn với chữ “xanh”. 

Đổi mới sáng tạo cũng là một lĩnh vực được doanh nghiệp châu Âu quan tâm. Eurocham đang trong quá trình thành lập tiểu ban đổi mới sáng tạo, bao gồm các thành viên là những tập đoàn hàng đầu châu Âu, start up và những chuyên gia  để cung cấp những hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam.

 ——————————————————————–

15h25: 

Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Trọng Đường – Vụ Quản lý doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi số quốc gia đã được thúc đẩy mạnh mẽ, được Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các bộ ban ngành thúc đẩy mạnh mẽ. Mới đây, tháng 3/2022, chúng ta có Quyết định số 411 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược quốc gia phát triển, có điểm đặc biệt là lần đầu tiên cùng với Nghị định 80 của Chính phủ, khẳng định một cách rõ ràng hơn về sự hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp trong việc chuyển đổi số, phục hồi sau đại dịch mạnh mẽ hơn.

ông Nguyễn Trọng Đường - Vụ Quản lý doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông

Ông Nguyễn Trọng Đường – Vụ Quản lý doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông

Đến nay, chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số lần đầu tiên đưa ra khái niệm kinh tế số là gì, xã hội số là gì và cũng đưa ra tầm nhìn mang tính nhanh, bền vững, bao trùm và kinh tế số giúp cho Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước có thu nhập cao. Chiến lược cũng đặt ra các mục tiêu rất cụ thể để phát triển kinh tế số, xã hội số trong các ngành, lĩnh vực. Chiến lược này lấy giải pháp đột phá phát triển kinh tế số đó là phát triển nền tảng số và chuyển đổi số doanh nghiệp.

Để triển khai chiến lược này, Bộ Thông tin & Truyền thông đã thúc đẩy việc chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Theo nhà bác học Darwin: “Khi khủng hoảng xảy ra, không phải loài mạnh nhất hay thông minh nhất mà loài phản ứng nhanh nhất với thay đổi mới có thể sống sót”. Vì thế, chúng ta vừa mới trải qua thời kỳ COVID và để vượt qua khủng hoảng này, không phải chỉ những doanh nghiệp lớn và những doanh nghiệp nhanh nhạy, tận dụng cơ hội để sử dụng công nghệ số, dữ liệu số, thích ứng với hoàn cảnh mới, với trạng thái bình thường mới có thể sống sót vượt qua đại dịch và phát triển.

Các số liệu cho thấy, có 69 % doanh nghiệp khu vực châu Á Thái Bình Dương đang đẩy nhanh chuyển đổi số để đối phó với đại dịch, nhưng con số này ở Việt Nam là 47%, cho nên chuyển đổi số là một nhu cầu cấp thiết đối với nước ta.

Mô hình chuyển đổi số trong doanh nghiệp bao gồm: Công nghệ mới để tối ưu hóa quy trình, phân tích dữ liệu để đưa ra các mô hình kinh doanh mới, sản phẩm dịch vụ mới, tạo ra các giá trị tiên tiến.

Vậy doanh nghiệp làm gì để chuyển đổi số? Trước hết, doanh nghiệp cần tư duy lại hướng kinh doanh, cạnh tranh, đánh giá lại chuỗi giá trị, đồng thời kết nối lại với khách hàng, tăng trải nghiệm khách hàng và cấu trúc lại doanh nghiệp.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi số và đo lường kết quả chuyển đổi số để đánh giá xem doanh nghiệp đang ở đâu trong quá trình chuyển đổi số cũng rất quan trọng. Nhiều doanh nghiệp thấy mình ứng dụng nhiều phần mềm nhưng không rõ mình đã chuyển đổi số chưa, vì thế Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp đánh giá, trong đó có bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp.

Theo đó, 6 trụ cột của chỉ số đánh giá chuyển đổi số doanh nghiệp gồm: 

Thứ nhất, là trải nghiệm số cho khách hàng, đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc cung cấp cho khách hàng trải nghiệm số.

Thứ hai, là chiến lược số, đánh giá mức độ xuất sắc trong các kế hoạch của doanh nghiệp, nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tầm cao, thông qua chiến lược chuyển đổi số toàn diện.

Thứ ba, là đánh giá về hạ tầng và khả năng công nghệ của doanh nghiệp nhằm thiết lập duy trì và liên tục chuyển đổi số, môi trường số, để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu kinh doanh.

Thứ tư, là vận hành đánh giá hiệu suất cao hoạt động hằng ngày của doanh nghiệp.

Thứ năm, là văn hóa số, đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra môi trường văn hóa nhờ công nghệ số.

Thứ sáu, là dữ liệu tài sản thông tin, đánh giá khả năng của doanh nghiệp cả về mặt chiến lược và hoạt động.

Định hướng trong năm 2022-2023, Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục thúc đẩy doanh nghiệp đánh giá mức độ chuyển đổi số trên cổng DBI, tổ chức mạng lưới tư vấn kinh tế số và chuyển đổi số doanh nghiệp, tổ chức các hội thảo chuyển đổi số, các địa phương đẩy mạnh triển khai các hoạt động truyền thông.

Chúng tôi mong muốn các nền tảng số và đơn vị tư vấn chủ động phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông tham gia thực hiện chuyển đổi số, hỗ trợ đánh giá mức độ chuyển đổi số cho các khách hàng của mình, có cán bộ đăng ký tham gia mạng lưới tư vấn chuyển đổi số doanh nghiệp. 

——————————————————————–

15h15:

Phát biểu tại Diễn đàn, nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh của doanh nghiệp, bên cạnh các góc độ khác còn là góc độ văn hoá doanh nhân doanh nghiệp thể hiện ở đạo đức kinh doanh.  

f

Nhà sử học Dương Trung Quốc

Ông Dương Trung Quốc đánh giá rất cao việc VCCI đã ban hành bộ Quy tắc đạo đức doanh nhân Việt Nam. Sáu nội dung bao gồm Tạo giá trị kinh tế cho xã hội; Tuân thủ pháp luật; Minh bạch, công bằng, liêm chính; Sáng tạo, hợp tác, cùng phát triển; Tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ môi trường; Yêu nước, có trách nhiệm với xã hội và gia đình là sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tạo ra giá trị kinh tế với trách nhiệm xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.

Tuy nhiên, nhà sử học Dương Trung Quốc bày tỏ băn khoăn về nội dung “yêu nước, có trách nhiệm với xã hội và gia đình” và đề xuất nên cụ thể hơn thêm về đối tượng người lao động.

“Chúng tôi cũng nghĩ rằng việc doanh nhân tham gia phát triển kinh tế, đóng thuế, cùng các hoạt động xa hội, từ thiện…là đóng góp cho xã hội thực tiễn. Nhưng vẫn cần làm rõ nhân tố cực kỳ quan trọng, tạo ra giá trị trong nền kinh tế đó là người lao động”, Nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh.

Cũng theo nhà sử học Dương Trung Quốc, Covid-19 là tai hoạ nhưng cũng là cơ hội. Bởi lịch sử cũng ghi nhận, những dịch bệnh lớn trên thế giới tuy tạo ra những trang sử rất ảm đạm về xã hội và y học nhưng là bức tranh sáng, bước ngoặt về kinh tế sau đó.

Những con số đang cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam đang tận dụng tốt cơ hội này. Nhưng nếu chúng ta vội thoả mãn với cơ hội với thành tựu đó chúng ta sẽ dễ chủ quan mà đổ vỡ. “Người Việt giỏi thích ứng nhưng lại không giỏi làm bền vững. Nếu chúng ta không củng cố nền tảng, liên kết, tạo nền tảng vì cộng đồng thì chữ “yêu nước” phải làm thế nào cho đủ. Chúng ta phải tìm được cốt lõi để bền vững”, ông Dương Trung Quốc nhấn mạnh.

Ông Quốc cho biết, nghiên cứu lịch sử doanh nhân Việt Nam thời kỳ đầu tiên tiếp cận nền kinh tế tư bản phương Tây cho thấy họ đã hình thành đội ngũ doanh nhân mà cốt lõi là chữ Tín. Như vậy, làm sao trong 6 chuẩn mực này lấy chữ Tín là chuẩn mực là thước đo.

“Sự trung thực ngay thẳng, dù đã được nêu trong Quy tắc đạo đức doanh nhân nhưng phải lấy đó là chuẩn mực, là thước đo là nền tảng”, nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định.

Bên cạnh đó, ông Dương Trung Quốc cũng lưu ý câu chuyện chú trọng thị trường trong nước, bởi thị trường Việt Nam là thị trường vô cùng to lớn và cần tập trung để phát triển bền vững.

“Chúng ta chỉ nói về xuất khẩu như là một chuẩn mực phát tiển, nhưng chúng ta đâu hưởng lợi bao nhiêu, chúng ta thu được gì? Chưa nói tới rất nhiều ưu đãi, đất đai…  Trong khi chúng ta có thị trường 100 triệu dân. Phải chuyển sang hướng hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam. Sao lại cái tốt nhất mang đi xuất khẩu nước ngoài? Tại Nhật Bản, những gì tốt nhất là tiêu thụ trong nước, chỉ bỏ qua những khâu đóng gói rườm rà. Còn chúng ta gần như bỏ ngỏ, coi thị trường trong nước là thị trg phụ. Dẫn tới tính xấu là sính ngoại. Các doanh nhân, doanh nghiệp phải chú trong thị trường trong nước nhiều hơn nữa”, Nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định.

——————————————————————–

14h55:

Trình bày về nâng cao năng  lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong mở rộng và khai thác thị trường quốc tế, ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng – Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế cho biết, thực hiện chủ trương hội nhập toàn diện với hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, trong những năm gần đây, Việt Nam đã đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh vực kinh tế trên nhiều góc độ. Điều này được thể hiện từ việc tích cực tham gia các diễn đàn, tổ chức kinh tế quốc tế cho tới việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác trong khu vực và trên thế giới.

ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng - Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế

Ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng – Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế

Thực tế thời gian qua đã có nhiều doanh nghiệp đã tận dụng được lợi ích từ các cam kết mở cửa thị trường FTA đã ký kết. Theo số liệu của Bộ Công Thương, hàng năm, đã có hơn 1 triệu bộ C/O ưu đãi được cấp (bao gồm theo FTA và GSP), với trị giá khoảng 61,19 tỉ USD, với mức tăng khoảng 15% về trị giá và tăng 10% về số lượng bộ C/O hàng năm.

Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường là thành viên CPTPP đạt mức tăng tốt, thể hiện bước đầu tận dụng hiệu quả các cam kết từ Hiệp định này để thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.

Nhờ vậy mà trong 2 năm qua, mặc dù kinh tế thế giới có nhiều rủi ro, bất ổn, thương mại toàn cầu giảm sút, xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với  năm trước, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khả quan. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt kỷ lục là 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng 19%; xuất siêu tới 4 tỷ USD.

Theo ông Trịnh Minh Anh, cơ hội và thách thức từ các FTA là song hành và khá rõ ràng, tuy nhiên, các FTA chỉ có thể mang lại lợi ích thực sự cho nền kinh tế khi cộng đồng doanh nghiệp có thể phát huy tối đa vai trò và năng lực của mình trong quá trình thực thi các Hiệp định.

Theo ông Trịnh Minh Anh, để tiếp tục mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp cần các giải pháp đồng bộ.

Thứ nhất, đón đầu và tận dụng cơ hội về dòng vốn dịch chuyển đầu tư; đặc biệt là dòng vốn đầu tư của các nước ra khỏi Trung Quốc, Hongkong…

Thứ hai, chú trọng khai thác thị trường Trung Quốc. Trung Quốc đã, đang và sẽ là thị trường quan trọng của Việt Nam đối với cả XK và NK, đối với cả chính ngạch và biên mậu, đối với cả hàng hóa đúng chuẩn và phi chuẩn…

Thứ ba, khai thác cơ hội ở các thị trường Việt Nam đã có FTA đặc biệt là EU, Hoa kỳ… theo các hướng (Xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp; Ăn theo xu hướng đầu tư, sản xuất, xuất nhập khẩu của các tập đoàn, DN của các quốc gia khác).

Thứ tư, hết sức chú ý đến vấn đề nguồn gốc xuất xứ hàng hóa của sản phẩm (CO) Hải Quan của các nước có FTA và các cơ quan liên quan của Việt Nam rất chú ý vấn đề này, tăng cường kiểm tra nghiêm ngặt vấn đề XXHH.

Thứ năm, để tận dụng tối đa ưu đãi của 15 FTA, doanh nghiệp cần liên kết chặt trẽ với các ngành, cơ quan chức năng (Bộ Công Thương, Nông Nghiệp PTNT, Tài chính…). Cần tìm hiểu rõ chuỗi cung ứng của mình để cố gắng lấp hoặc tham gia lấp đầy các chỗ đứt, gãy của các chuỗi cung ứng này.

——————————————————————–

14h35: 

Chia sẻ tại Diễn đàn, PGS. Trần Phương Trà, Chuyên ngành Quản trị Chiến lược, Giám đốc chương trình thạc sĩ QTKD, Trường Kinh doanh IPAG (Paris, Pháp); Giám đốc mạng lưới chính sách kinh tế EPNet, AVSE Global cho biết, theo biểu đồ chỉ số thu nhập trên vốn đầu tư (ROIC) của 500 doanh nghiệp S&P do Giáo sư Oberholzer-Gee đến từ Havard Business School, trong bất kì bối cảnh, quốc gia hoặc lĩnh vực nào vẫn sẽ có một số doanh nghiệp đạt được hiệu suất cao 1 cách ngoại lệ.

PGS. Trần Phương Trà, Chuyên ngành Quản trị Chiến lược, Giám đốc chương trình thạc sĩ QTKD, Trường Kinh doanh IPAG (Paris, Pháp); Giám đốc mạng lưới chính sách kinh tế EPNet, AVSE Global

PGS. Trần Phương Trà, Chuyên ngành Quản trị Chiến lược, Giám đốc chương trình thạc sĩ QTKD, Trường Kinh doanh IPAG (Paris, Pháp); Giám đốc mạng lưới chính sách kinh tế EPNet, AVSE Global

Do đó, bà Trà đánh giá, những doanh nghiệp tìm ra “kim chỉ nam” trong việc làm thế nào tạo ra giá trị cho khách hàng, cho nhân viên và cho những nhà cung cấp sẽ tạo ra hiệu suất cao ngoại lệ hơn so với các doanh nghiệp khác. 

Trong bối cảnh vĩ mô hiện nay, nhu cầu của người tiêu dùng đang thay đổi rất nhanh. Trong đó, tăng trưởng xanh là xu hướng và ngày một trở nên cần thiết hơn. Việt Nam cũng đưa ra chiến lược tăng trưởng xanh và chuyển đổi số là công cụ để phát triển. 

Chính vì vậy, bà Trà cho biết, các doanh nghiệp cần có khả năng đổi mới sáng tạo mạnh mẽ để đảm bảo khả năng thích ứng với sự biến đổi hiện tại.

Đánh giá về mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp trên thế giới, PGS Trần Phương Trà thông tin thêm, hiện đã có Bộ chỉ số đánh giá mức độ trưởng thành kỹ thuật số độc lập đầu tiên trên thế giới dành cho các nhà sản xuất (SIRI), bao gồm 3 trụ cột: quy trình – công nghệ – tổ chức với các cấu phần nhỏ, giúp người quản lý có thể bao quát các mặt mà doanh nghiệp cần quan tâm trong quá trình đổi mới sáng tạo.

Nhìn vào dữ liệu thống kê của bộ chỉ số SIRI vào năm 2022, những nhóm ngành có mức độ trưởng thành lớn nhất gồm công nghệp bán dẫn, thiết bị điện tử, năng lượng và hóa chất, dược phẩm. Trong năm 2022, ngàng logistics cũng có sức tăng trưởng ấn tượng nhờ sự phát triển của các sàn thương mại điện tử và nhu cầu mua sắm online trong thời đại dịch.

Bà Trà chỉ ra, các chủ đề được ưu tiên, dù là tập đoàn đa quốc gia hay các doanh nghiệp nhỏ, thì sự ưu tiên lớn nhất là năng suất, sau đó là chất lượng sản phẩm. Nhưng với nhóm doanh nghiệp xuất sắc nhất gồm các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp top đầu tập trung vào tốc độ và sự linh hoạt.

“Do đó, những chủ đề ưu tiên trong quá trình chuyển đổi của doanh nghiệp cũng cần tập trung vào việc tạo ra những giá trị khác biệt cho doanh nghiệp”, bà Trà nhấn mạnh. 

Dẫn chứng từ kinh nghiệm của Tập đoàn hàng đầu của Pháp Thales, bà Trà cho biết, tập đoàn này đã tập trung vào từng cá nhân trong doanh nghiệp. Họ mời các nhân viên của mình tham gia vào các cuộc thi, đóng góp ý tưởng… để cải thiện bộ máy vận hành, xây dựng tương tác; đồng thời tạo tương tác giữa người và máy.

Đặc biệt, Thales đã sử dụng nền tảng bán lẻ trực tuyến như một lợi thế cạnh tranh để hỗ trợ các mục tiêu ngắn hạn, đồng thời đối phó với các thách thức trong tương lai.

Từ những kinh nghiệm quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng tư duy luôn luôn tạo ra giá trị. Bên cạnh đó, bà Trà cho rằng, cần xây dưng các kế hoạch hành động cụ thể, xác định ưu tiên các chương trình tạo ra giá trị cho doanh nghiệp như với tăng trưởng xanh, cần đánh giá tính bền vững,… Với khía cạnh tổ chức, đổi mới sáng tạo cần gắn liền với tổ chức, gắn với chiến lược để vận hành có tính hệ thống. Trong đó, bà Trà nhấn mạnh, văn hóa sáng tạo, khởi nghiệp là môi trường tạo tiền đề cho những đổi mới sáng tạo về quy trình, sản phẩm và công nghệ.

——————————————————————–

14h10:

Phát biểu tại Diễn đàn, bà Hà Thu Thanh – Chủ tịch HĐQT Viện Thành viên Hội đồng quản trị Việt Nam (VIOD); Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (VBCSD); Chuyên gia tư vấn Quản trị Công ty cao cấp – Deloitte Việt Nam cho biết, nếu thế kỷ 20 là thế kỷ của Quản trị hoạt động – Quản trị doanh nghiệp, thì thế kỷ 21 là thế kỷ của Quản trị công ty (QTCT) và phát triển bền vững, với những nguyên tắc cốt lõi là liêm chính, bình đẳng, minh bạch, hài hòa và trách nhiệm.

Bà Hà Thu Thanh - Chủ tịch HĐQT Viện Thành viên Hội đồng quản trị Việt Nam (VIOD); Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (VBCSD); Chuyên gia tư vấn Quản trị Công ty cao cấp – Deloitte Việt Nam.

Bà Hà Thu Thanh – Chủ tịch HĐQT Viện Thành viên Hội đồng quản trị Việt Nam (VIOD); Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (VBCSD); Chuyên gia tư vấn Quản trị Công ty cao cấp – Deloitte Việt Nam.

Theo định nghĩa của World Bank, QTCT là một hệ thống các yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của công ty, cho phép thu hút các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, nhờ đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tôn trọng quyền lợi của các bên liên quan và xã hội.

Khi sở hữu hệ thống quản trị tốt, doanh nghiệp có thể có được nhiều lợi ích về mặt tài chính như nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng tiếp cận thị trường vốn, giảm chi phí; nâng cao uy tín của công ty, hội đồng quản trị và ban điều hành và hướng tới mục đích cuối cùng là phát triển bền vững.

Bà Hà Thu Thanh cho rằng, một khung quản trị công ty tốt cần có ba trụ cột cơ bản gồm: Thiết kế hệ thống; Xây dựng tổ chức để thực thi hệ thống đó; và Có nhân lực để thực hiện – nói đi đôi với làm. Khi ba trụ cột được xây dựng một cách vững vàng, doanh nghiệp sẽ phát triển được bền vững, bất kể lãnh đạo doanh nghiệp là nam hay nữ, hay lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, để tối ưu hóa lợi ích từ quản trị công ty, hệ thống quản trị công ty không chỉ nên dừng lại ở cấp độ sơ khởi nhất là tuân thủ pháp luật và các quy định hiện hành, đặc biệt trong một thời kỳ doanh nghiệp chuyển từ phát triển nhanh sang phát triển bền vững.

Về xu hướng toàn cầu, theo bà Thanh, hiện nay có hai xu hướng cần nắm bắt đó là:

Thứ nhất, cần tích hợp ESG vào chương trình nghị sự của HĐQT. Theo đó HĐQT cần thay đổi, hiểu được và nắm bắt những vấn đề lớn theo xu hướng toàn cầu để tăng cường uy tín trong mắt các nhà đầu tư, đó là phát triển bền vững về yếu tố môi trường và xã hội, từ đó có những chiến lược hành động phù hợp.

Trong đó, khủng hoảng khí hậu là một trong những vấn đề xã hội cấp bách nhất hiện nay. Theo báo cáo Turning point của Deloitte, nếu không có những hành động nhằm bảo vệ môi trường chống lại biến đổi khí hậu, nền kinh tế Đông Nam Á có nguy cơ đối diện với tổn thất lên đến 28 nghìn tỷ USD (tính theo giá trị hiện tại) trong vòng 50 năm nữa.

Hơn nữa, Việt Nam được xem là một trong các quốc gia dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu. Theo nghiên cứu tích hợp tác động kinh tế xã hội khác nhau của biến đổi khí hậu và các chiến lược thích ứng đối với Việt Nam, đến năm 2050, nếu không tính đến những yếu tố phi tuyến tính về kinh tế, xã hội có thể nảy sinh từ vấn đề biến đổi khí hậu, thiệt hại kinh tế trực tiếp tích lũy trung bình hàng năm sẽ rơi vào khoảng 1,8% GDP khi nhiệt độ tăng lên 1°C so với thời kỳ tiền công nghiệp.

Mặc dù không thể thay đổi được những hậu quả của những thiên tai đã xảy ra, nhưng nếu chung tay hành động ngay bây giờ, thế giới và Đông Nam Á vẫn viết ra được một tương lai tươi sáng hơn với mức phát thải ròng về không, và trong đó, vai trò của doanh nghiệp là không thể phủ nhận.

Do vậy, HĐQT các doanh nghiệp Việt Nam cần đưa ra chiến lược, chính sách và hành đồng đối phó với cuộc khủng hoảng này từ việc định hình vai trò, trách nhiệm giám sát ESG trong HĐQT, đánh giá cấu trúc quản trị ESG, tích hợp các vấn đề ESG vào chiến lược công ty tới giám sát và thực hiện công bố thông tin tới các bên liên quan một cách minh bạch và đầy đủ.

Thứ hailà định danh, định vị, định hướng văn hóa HĐQT trong xu thế mới. Dù nắm bắt xu thế mới, văn hóa vẫn là điều cần được xây dựng và bồi đắp. Bởi lẽ, văn hóa là thứ duy nhất còn thiếu khi doanh nghiệp phát triển, là thứ duy nhất còn lại khi doanh nghiệp gặp khủng hoảng, và là thứ duy nhất đối thủ cạnh tranh không thể lấy được từ doanh nghiệp.

Trong hơn hai năm vừa qua, có rất nhiều doanh nghiệp đã ứng phó, đối phó và “sống sót” vượt qua “cơn bão” của Covid-19. Một trong những yếu tố rất quan trọng giúp họ làm được điều này, đó chính là nền tảng văn hóa doanh nghiệp. Ở đó, các doanh nghiệp huy động được một nguồn lực rất to lớn mà trước nay chưa được gọi tên, đó chính là nguồn lực xã hội (social capital). Khi khủng hoảng ập đến, nguồn lực tài chính (financial capital) chính là những thứ bị cuốn đi đầu tiên.

Tuy nhiên, nguồn lực con người (human capital) nằm trong nguồn lực xã hội, trong sự tương tác của nguồn lực con người trong chính doanh nghiệp, trong sự tương tác giữa doanh nghiệp với các đối tác, nguồn lực xã hội được bền vững trên nền tảng của văn hóa doanh nghiệp.

Theo sự phát triển của nhân loại và nền kinh tế trong những năm gần đây với công nghệ mới, mô hình kinh tế và kinh doanh đổi mới, khối lượng dữ liệu ngày càng tăng và luồng thông tin tốc độ cao, biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiệm trọng…., tình trạng bất định không phải là điều gì quá mới mẻ, thậm chí ngày càng trở nên phức tạp và không có dấu hiệu ngừng lại. Kết quả là, các doanh nghiệp đang hoạt động dưới mức độ áp lực ngày càng tăng cao chưa từng có trước đây.

Trong một nghiên cứu của Deloitte về Hội đồng quản trị hiệu quả, có bảy yếu tố chính. Bên cạnh các yếu tố quan trọng như lãnh đạo quyết đoán, táo bạo; tư duy cơ hội; hệ sinh thái mang tính cốt lõi; sự phù hợp thị trường; có thể thấy yếu tố số 5 là văn hóa. Trong các nghiên cứu gần đây của Deloitte với các công ty đa quốc gia thì yếu tố số 5 đang được tập trung đặt lên bên cạnh yếu tố số một. Do đó, văn hóa Hội đồng quản trị cần được định danh, định vị và định hướng để trở thành “ngọn đèn hải đăng” dẫn dắt và xây dựng văn hóa công ty, hướng đến phát triển bền vững.

Cũng trong góc nhìn của năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp có văn hoá kinh doanh tốt, có sự quan tâm cụ thể, đầy đủ người lao động, thì doanh nghiệp đã có nguồn lực người lao động ngay cả khi tài chính đã mỏng đi.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm năng lực về thị trường sản phẩm dịch vụ, con người gồm lãnh đạo, đội ngũ nhân viên, văn hóa doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp. Khi gắn quản trị công ty với năng lực cạnh tranh thì đây chính là một trong những điểm kết nối các nguồn lực và gia tăng các nguồn lực.

Về lợi ích tiềm năng của quản trị công ty hiệu quả, thực hiện quản trị công ty tốt không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tối ưu nguồn lực công ty, tăng cường quản trị bộ máy hành chính và nhân sự một cách tốt nhất theo xu thế hiện đại. Đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận thị trường vốn, nếu doanh nghiệp có quản trị công ty tốt, đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa tất cả các đối tác, quyền lợi và tương tác với môi trường tốt, thì các nhà đầu tư luôn có điều kiện doanh nghiệp quản trị ảnh hưởng với biến đổi khí hậu như thế nào và tương tác ra sao.

Vì thế quản trị công ty tốt sẽ giúp huy động nguồn vốn từ các tổ chức, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao uy tín của ban lãnh đạo, ban điều hành, hội đồng quản trị. Trong đó, tổng giám đốc có vai trò then chốt trong việc thực thi, thiết lập các chuẩn mực đạo đứcm không chỉ bằng hành động mà bằng cả lý trí, đạo đức kinh doanh.

Bà Thanh thông tin, để đảm bảo lợi ích tiềm năng như vậy theo thông lệ quốc tế, tại Việt Nam cũng đang thực hành theo 4 cấp độ một là: Cấp độ 1, tuân thủ luật pháp và các quy định hiện hành; Cấp độ 3 là thực hiện các bước khởi đầu trong cải tiến quản trị công ty; Cấp độ 3 là hệ thống quản trị công ty tiên tiến; và Cấp độ 4 là tiên phong trong quản trị công ty.

“Để đánh giá mức độ trưởng thành với bốn cấp độ của quản trị công ty thông qua năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, với nền kinh tế phát triển sâu hơn thì việc áp dụng quản trị công ty và cải thiện quản trị công ty không phải ngày một ngày hai mà là một quá trình, cần có lộ trình thay đổi đầy đủ. Mỗi một lĩnh vực khác nhau, một công ty khác nhau sẽ có sự khác nhau và không có lộ trình chung cho việc áp dụng này, nhưng quan trọng nhất mà các doanh nghiệp cần nhận thức rõ, quản trị công ty cần phải thay đổi” – bà Hà Thu Thanh nhấn mạnh.

Tại ASEAN có bộ quy tắc về quản trị công ty và tại Việt Nam cũng có quy tắc riêng, đây là xu hướng đầu tiên nhưng không phải là quy định bắt buộc theo luật, mà chỉ là lựa chọn của HĐQT cũng như ban lãnh đạo công ty tuỳ chọn. Khi không áp dụng bắt buộc như vậy, vượt lên trên việc tuân thủ có thể đưa thêm các thông lệ quản trị công ty tiên tiến đang là định hướng phát triển của hiện tại và trong tương lai.

Tiếp cận với xu thế toàn cầu trong việc nâng cao năng lực quản trị có 6 vấn đề bao gồm: Nhu cầu ngày càng tăng trong việc tích hợp các ESG; ESG ngày càng được chú trọng trong các chương trình nghị sự của HĐQT; Tuân thủ các yêu cầu của ủy ban chứng khoán; Có một khuôn khổ tiêu chuẩn ESG được công nhận để các công ty có thể dễ dàng áp dụng; Nhu cầu tăng cao về mối liên hệ giữa công bố thông tin theo ESG và báo cáo tài chính; Tăng cường tập trung vào vai trò thiết yếu của sự đảm bảo từ kiểm toán độc lập. Đây là những vấn đề mà hội đồng quản trị phải nhận diện để thực thi và triển khai với cả ban điều hành.

——————————————————————–

14h00: Chương trình chính thức bắt đầu

Thay mặt lãnh đạo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI nhiệt liệt hoan nghênh và chào mừng các quý vị đại biểu tham dự diễn đàn “Giải pháp đột phá nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững”. 

Ô

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI phát biểu khai mạc.

Theo Phó Chủ tịch VCCI, nền kinh tế Việt Nam đang trong quý 3 năm 2022, chứng kiến sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế với nhiều kết quả tự hào, được các bạn bè quốc tế đánh giá cao, xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam ở mức “ổn định” và “tích cực”.

Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, GDP tăng 7,72% trong quý 2, các cân đối lớn được đảm bảo, hoạt động sản xuất kinh doanh phục hồi nhanh. Đóng góp vào kết quả đáng trân trọng của nền kinh tế có sự chủ động, sáng tạo, vượt khó vươn lên của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch VCCI, khảo sát Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI cũng cho thấy sự khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp. Cụ thể, có tới 92% doanh nghiệp (94% doanh nghiệp tư nhân trong nước và 86% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) cho biết bị tác động tiêu cực bởi dịch Covid-19.

Hầu hết các doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực ngành nghề và các địa phương đều phải đương đầu với các vấn đề do dịch COVID-19 gây ra, như khó tiếp cận khách hàng (60%), thiếu hụt nhân công (53%), mất cân đối dòng tiền (52%), đứt gãy chuỗi cung ứng (52%)…

“Cùng với những tác động tiêu cực do dịch COVID-19, khảo sát PCI cũng cho thấy các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.

Đồng thời ông cho biết, những khó khăn trong kinh doanh cùng với tác động của dịch COVID-19 đã khiến cho các doanh nghiệp dè dặt hơn khi xây dựng kế hoạch kinh doanh và điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Toàn cảnh Diễn đàn

Toàn cảnh Diễn đàn: Giải pháp đột phá nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững

Trong bối cảnh mới với nhiều thách thức, Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh, trong thời gian qua cũng chứng kiến và ghi nhận tinh thần tự hào dân tộc của các doanh nghiệp, doanh nhân, tiên phong thực hiện liêm chính trong kinh doanh, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, nêu gương thực hiện đạo đức doanh nhân và có trách nhiệm với người lao động, cộng đồng và xã hội.

Quán triệt mục tiêu phát triển đất nước của Đại hội Đảng XIII đã đặt ra, Nghị quyết Đại hội VII của VCCI đã xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó có việc “Tiên phong xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam, hình thành và thúc đẩy thực hiện các quy ước, chuẩn mực chung về đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp”.

“Thời gian qua VCCI đã triển khai nghiên cứu, xây dựng các quy tắc đạo đức doanh nhân Việt Nam, với sự tham gia của các chuyên gia tư vấn cao cấp, của các đơn vị nghiên cứu khoa học và đại diện các doanh nhân, doanh nghiệp, cũng như tham khảo nhiều tài liệu, mô hình quốc tế và trong nước, VCCI đã chính thức thông qua bộ Quy tắc đạo đức doanh nhân Việt Nam”, ông Hoàng Quang Phòng cho biết.

Cụ thể, 6 điều của quy tắc đạo đức doanh nhân Việt Nam bao gồm: Tạo giá trị kinh tế cho xã hội; Tuân thủ pháp luật; Minh bạch, công bằng, liêm chính; Sáng tạo, hợp tác, cùng phát triển; Tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ môi trường; Yêu nước, có trách nhiệm với xã hội và gia đình.

Phó Chủ tịch VCCI khẳng định: “Đạo đức doanh nhân, đạo đức người đứng đầu doanh nghiệp sẽ góp phần định hướng cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững”.

Nhấn mạnh phải phát triển đội ngũ doanh nhân có bản lĩnh để tiếp sức và lãnh đạo cho doanh nghiệp, ông Hoàng Quang Phòng cho biết, Chính phủ đang hoàn thiện dự thảo Nghị quyết về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025 nhằm xây dựng doanh nghiệp Việt Nam mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành lực lượng quan trọng đảm bảo tính tự chủ của nền kinh tế.

Bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ, Phó Chủ tịch VCCI nhận định mỗi doanh nhân, doanh nghiệp cần sẵn sàng đối mặt với những thách thức, chủ động nắm bắt, chắt chiu từng cơ hội đổi mới và sáng tạo, có phương án đón đầu xu hướng kinh doanh mới, xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế.

Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đầu tư những lĩnh vực mới, hiện đại. Quan tâm đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cấu trúc lao động để thích ứng và đón đầu các xu hướng mới của thị trường.

Với mục đích trên, tại diễn đàn “Giải pháp đột phá nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững” lãnh đạo VCCI mong muốn được lắng nghe ý kiến trao đổi thắng thắn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia kinh tế và các doanh nghiệp về các vấn đề đặt ra liên quan đến khó khăn, thách thức; chia sẻ những bài học kinh nghiệm. Đồng thời, đề xuất những kiến nghị, giải pháp để tạo sự đột phá trong nâng cao năng lực của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế.

——————————————————————–

>> [TRỰC TIẾP] Diễn đàn “Giải pháp đột phá nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững”

Thời gian qua, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp tới các trung tâm kinh tế, đô thị lớn, gây đình trệ sản xuất, đứt gẫy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Thực hiện Nghị quyết số 54/NQ-CP của Chính phủ ngày 14/4/2022 và Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025 được coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, cần được thực hiện đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa Trung ương với địa phương, là bước đi cần thiết để đổi mới mô hình tăng trưởng theo xu thế ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Nhằm góp phần tuyên truyền, thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với Viện Thành viên Hội đồng Quản trị Việt Nam tổ chức:

Diễn đàn: Giải pháp đột phá nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phục hồi và phát triển bền vững

Thời gian: 14h00 – 17h00, thứ Sáu, ngày 19/8/2022

Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc tế, 11 Lê Hồng Phong, Hà Nội

Chương trình được tổ chức trực tiếp và trực tuyến trên các nền tảng số của Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.

 

Đánh giá của bạn:

Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức.