Giả thiết nghiên cứu khoa học là gì? Cách tìm ra giả thiết phù hợp

Nghiên cứu khoa học là hành động tìm hiểu, quan sát, thí nghiệm… dựa trên những số liệu, dữ liệu, tài liệu thu thập được để phát hiện ra bản chất, quy luật chung của sự vật, hiện tượng, tìm ra những kiến thức mới hoặc tìm ra những ứng dụng kỹ thuật mới, những mô hình mới có ý nghĩa thực tiễn.

Người muốn làm nghiên cứu khoa học phải có những kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu nhưng chủ yếu là phải rèn luyện cách làm việc tự lực và có phương pháp. Do đó, là sinh viên với những kiến thức hạn chế thực hiện nghiên cứu càng phải phát huy khả năng tự học để trau dồi những kiến thức cần thiết, đồng thời việc lựa chọn đề tài nên phù hợp với khả năng của mình.

2. Giả thiết nghiên cứu khoa học là gì?

Giả thuyết nghiên cứu là những nhận định sơ bộ hay là một kết luận giả định về kết quả nghiên cứu, bản chất của đối tượng nghiên cứu do người nghiên cứu đề ra để chứng minh hoặc bác bỏ (Vũ Cao Đàm, 2018).

Giả thuyết nghiên cứu có thể đúng hoặc sai. Người nghiên cứu đề ra giả thuyết nghiên cứu nhằm định hướng nghiên cứu và kế hoạch thực hiện nghiên cứu khoa học.

Trong các bài nghiên cứu khoa học, sau khi đã tìm được vấn đề, chủ đề nghiên cứu, các nhà nghiên cứu cần tập trung xây dựng giả thuyết nghiên cứu. Từ những giả thuyết này, họ tiến hành chứng minh hoặc bác bỏ đối tượng nghiên cứu theo mục đích nghiên cứu đã đề ra.

3. Phân loại giả thuyết nghiên cứu khoa học 

Dựa vào đặc điểm của mỗi giả thuyết khoa học, các nhà khoa học đã chia chúng ra thành 7 loại chính. Nắm bắt, hiểu được đặc điểm của từng loại giả thuyết khoa học sẽ giúp bạn có thể hiểu cách viết các giả thuyết nghiên cứu.

3.1. Giả thuyết không

Giả thuyết không là giả thuyết khoa học cho rằng các biến nghiên cứu, các đối tượng nghiên cứu không có bất kỳ mối quan hệ nào với nhau. Cũng vì vậy mà giả thuyết không còn được gọi là một giả thuyết không liên quan.

Giả thuyết không sẽ được khẳng định, xác định và chấp nhận nếu tất cả các kết quả điều tra cho thấy giả thuyết đúng. Đặc biệt, các giả thuyết thay thế cho giả thuyết không không hoạt động, hoặc không hợp lệ.

3.2. Giả thuyết chung hoặc lý thuyết

Giả thuyết chung hoặc lý thuyết là các giả thuyết khoa học xây dựng dựa trên hoạt động khái niệm hóa mà không định lượng cụ thể các biến nghiên cứu, các đối tượng nghiên cứu.

Những giả thuyết chung hoặc lý thuyết thường được hình thành thông qua một quá trình sơ bộ về cảm ứng và khái quát đối tượng nghiên cứu. Người nghiên cứu sẽ dựa trên những đặc điểm nổi bật, hành vi tương tự để đưa ra giả thuyết.

3.3. Giả thuyết công việc

Giả thuyết công việc là giả thuyết khoa học được chứng minh, bác bỏ hoặc hỗ trợ thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học. Qua các cuộc điều tra thực tế, các kết quả điều tra, người nghiên cứu có thể xác minh các giả thuyết công việc.

Có thể hiểu rằng, các giả thuyết công việc được xây dựng từ việc khấu trừ dựa trên các quy định cụ thể trong các trường hợp nhất định. Giả thuyết công việc thường chỉ các nguyên nhân hay sự kết hợp giữa các biến nghiên cứu.

3.4. Giả thuyết tương đối

Giả thuyết tương đối hay còn được gọi là giả định tương đối, là các giả thuyết nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của các biến số nghiên cứu với nhau. Giả thuyết này thường dùng để miêu tả mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các giả thuyết nghiên cứu.

3.5. Giả thuyết có điều kiện

Giả thuyết có điều kiện là các giả thuyết cho rằng một biến nghiên cứu phụ thuộc vào giá trị của hai biến nghiên cứu khác. Trong trường hợp này, giả thuyết có điều kiện sẽ bao gồm hai vế đó là hai biến “nguyên nhân” và một biến “ hiệu ứng”.

Để dễ hình dung hơn, thì hai biến “nguyên nhân” chính là điều kiện để một biến “hiệu ứng” có thể xảy ra. Đây cũng là lý do các giả thuyết khoa học này được gọi là giả thuyết có điều kiện.

Đây là giả thuyết khoa học phổ biến và có tính ứng dụng cao trong các nghiên cứu khoa học.

3.6. Giả thuyết xác suất

Giả thuyết xác suất là các giả thuyết khoa học thể hiện mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu và được đáp ứng trong hầu hết các đối tượng nghiên cứu, hầu hết dân số.

3.7. Giả thuyết xác định

Giả thuyết xác định là các giả thuyết thể hiện mối quan hệ giữa các biến số luôn luôn được đáp ứng. Nói cách khác, điều kiện và hiệu ứng luôn tồn tại song song với nhau.

4. Vai trò của giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết nghiên cứu khoa học có vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình nghiên cứu.

  • Khởi điểm của mọi nghiên cứu khoa học: không có nghiên cứu khoa học hay khoa học nào lại không có giả thuyết. Phát triển từ các giả thuyết nghiên cứu, người nghiên cứu tiến hành nghiên cứu và tìm ra đáp án.
  • Định hướng nghiên cứu khoa học: việc chứng minh hay bác bỏ giả thuyết nghiên cứu là phần việc chính trong một nghiên cứu khoa học.
  • Đưa ra các giả thuyết nghiên cứu đúng, logic sẽ giúp quá trình nghiên cứu diễn ra nhanh hơn.
  • Đưa ra các giả thuyết nghiên cứu sai, không phù hợp sẽ đưa nghiên cứu khoa học vào ngõ cụt, không thể thực hiện các bước tiếp theo.
  • Tiền đề để thực hiện các nghiên cứu khoa học: căn cứ vào đặc điểm của các giả thuyết khoa học, người nghiên cứu tiến hành xây dựng kế hoạch nghiên cứu. Sau khi đã xác định được chủ đề nghiên cứu thì đưa ra các giả thuyết khoa học là bước cần thiết nhất.
  • Cơ sở phát triển của nghiên cứu khoa học. đi lên từ việc chứng minh các giả thuyết khoa học, nhà nghiên cứu mới có thể chứng minh được mục đích thực hiện nghiên cứu khoa học của mình.
  • Tạo nên nghiên cứu khoa học: giải thuyết nghiên cứu là thành phần chính, mấu chốt trong các nghiên cứu khoa học. Tính đúng đắn của giả thuyết khoa học, cùng với tính đúng đắn của quá trình chứng minh giả thuyết đó có tác động rất lớn đến một nghiên cứu khoa học.

5. Chức năng của giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết nghiên cứu khoa học được xem là các tiên đoán, phán đoán trong các nghiên cứu khoa học. Dựa vào tư duy logic của chủ thể nghiên cứu khoa học, cộng với các kinh nghiệm khoa học, quan sát từ trước,  nhà nghiên cứu đưa ra các giả thuyết nghiên cứu.

Giả thuyết có tính chỉ đường. Mendeleev đã nói rằng “Có một giả thuyết sai, vẫn hơn không có một giả thuyết nào cả.” Thông qua các giả thuyết, người nghiên cứu mới có thể hoàn thành nghiên cứu khoa học của mình.

6. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu

Để xây dựng được một giả thuyết nghiên cứu, người nghiên cứu cần nắm vững đầy đủ 2 yếu tố sau:

6.1. Nhận dạng các loại hình nghiên cứu

Có ba loại nghiên cứu phổ biến: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Các nhà nghiên cứu cần xác định rõ đặc điểm của nghiên cứu khoa học mình đang thực hiện.

Dựa vào loại hình nghiên cứu khoa học, nhà khoa học có thể thực hiện và nhận định một số giả thuyết khoa học và cách viết giả thuyết khoa học phù hợp.

6.2. Phương pháp đưa ra một phán đoán

Đây là phương pháp chính, sử dụng tư duy logic hay suy luận cá nhân của chủ thể nghiên cứu để đưa ra các phán đoán từ đó xây dựng thành giả thuyết nghiên cứu.

Liên hệ từ những đặc điểm, quan sát, kinh nghiệm, người nghiên cứu có thể xây dựng phù hợp. Họ cũng cần xác định rõ giả thuyết nghiên cứu khoa học là gì.

Có ba hình thức suy luận thông dụng:

  • Suy luận theo hướng diễn dịch: Trong hình thức này, nhà nghiên cứu sẽ tư duy bắt đầu từ những phát đoán đã có sẵn rồi mới phát triển và đưa ra thành giả thuyết nghiên cứu.
  • Suy luận theo hướng quy nạp: Đây là hình thức suy luận cần có khả năng phân tích và tổng hợp cao. Người nghiên cứu sẽ tổng hợp những cái riêng, thành những cái chung và đưa ra giả thuyết nghiên cứu.
  • Suy luận theo hướng loại suy: Đây là hướng suy luận đồng cấp. Nhà nghiên cứu sẽ suy luận từ cái riêng đến cái riêng, tìm ra những điểm chung hay loại trừ những suy luận không liên quan.