Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động bị tai nạn lao động – Công ty Luật số 1 Hà Nội

Tình huống : Chồng tôi là công nhân có ký hợp đồng không xác định thời hạn.Chồng tôi đã làm việc ở đó được hơn 2 năm. Ngày 18/02/2019 đang làm việc tại công trình thì có xảy ra tai nạn lao động đó là đổ giàn giáo làm cho 3 người công nhân trong đó có chồng tôi bị ngã từ tầng 4 xuống. Chồng tôi bị gãy chân và chấn thương sọ não. Tiền thuốc ,chi phí điều trị đều do công ty chi trả, tuy nhiên đến ngày 12/05/2019 vừa qua thì công ty xây dựng mà chồng tôi đã ký hợp đồng thông báo sẽ chấm dứt hợp đồng lao động với chồng tôi. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của công ty đó có đúng pháp luật không? Nếu mà trái pháp luật thì phải có nghĩa vụ gì đối với chồng tôi? Chúng tôi có được bồi thường gì không?

Trả lời

Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật lao động năm 2012 quy định các trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể:

“ Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 của Bộ luật này.

  2. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý.

  3. Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này.

  4. Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”

Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 quy định người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp “Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động”.

Theo thông tin bạn cung cấp thì loại hợp đồng mà chồng bạn đã ký hợp đồng với công ty xây dựng là hợp đồng không xác định thời hạn. Như vậy, trong trường hợp chồng bạn bị tai nạn lao động và đã điều trị 12 tháng liên tục mà vẫn chưa phục hồi sức khỏe để quay lại làm việc thì công ty xây dựng mới được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.

Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của công ty xây dựng là trái quy định pháp luật lao động, vì vậy công ty đó phải có nghĩa vụ sau:

  •  Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày người lao động không được làm công việc  cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động

  • Nếu trong trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường nêu trên thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định pháp luật.

  • Trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại người lao động và NLĐ đồng ý thì ngoài tiền bồi thường và trợ cấp thôi việc thì hai bên thỏa thuận tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền luong theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

 

Lưu ý: Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Nếu bạn còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác vui lòng liên hệ đến Luật sư tư vấn trực tiếp TỔNG ĐÀI TƯ VẤN LUẬT 1900 966 980 hoặc Email: [email protected] để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời!