Đổi mới nhận thức về doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan dây chuyền lắp ráp bảng mạch điện thoại của Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam – Thái Nguyên Ảnh: NHẬT BẮC
Trong các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả ở những nước DNNN có tỷ trọng khá lớn trong chiếm giữ tài sản sản xuất cũng như cung cấp của cải xã hội (ví dụ nước Pháp), DNNN chỉ đóng vai trò bổ sung cho khu vực tư nhân với tư cách “công cụ” khắc phục khiếm khuyết của thị trường về các mặt cung cấp điều kiện bảo đảm thực hiện quyền cơ bản của công dân, cung ứng hàng hóa công cộng, cứu vớt các doanh nghiệp khó khăn để nền kinh tế không chịu ảnh hưởng tiêu cực từ sự phá sản của các doanh nghiệp này, tạo các dư địa và điều kiện mới cho nền kinh tế phát triển cũng như đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân không thể đảm đương. Chính vì thế, việc mở rộng hay thu hẹp khu vực DNNN ở các nước tư bản phụ thuộc vào lập trường của đảng cầm quyền, vào năng lực tài chính của nhà nước, vào hiệu quả hoạt động của DNNN, vào thực trạng nền kinh tế,… Nói cách khác, DNNN chỉ được coi là một “công cụ” của bộ máy quản lý nhà nước nhằm thực hiện sự can thiệp có mức độ của nhà nước vào nền kinh tế mà không có nhiệm vụ thay thế doanh nghiệp tư nhân, càng không được coi là mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh phổ biến. Về cơ bản, DNNN hoạt động theo nguyên tắc thị trường như doanh nghiệp tư nhân. Chỉ có điều “ông chủ” của DNNN là cơ quan nhà nước cụ thể nào đó sẽ quyết định nhiệm vụ mà DNNN phải hoàn thành cũng như chế độ tài trợ của nhà nước cho nó. Do “ông chủ” của DNNN là cơ quan nhà nước (thường các cơ quan này có nguồn tài chính lớn độc lập với hoạt động của DNNN), nên DNNN được thụ hưởng những ưu đãi riêng của “ông chủ” như đầu tư những lượng vốn lớn, không đặt yêu cầu cao về lợi nhuận nhưng đặt yêu cầu cao về hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao với những khoản đền bù từ ngân sách nhà nước, được cơ quan nhà nước tài trợ các khoản tài chính lớn khi gặp khó khăn cũng như được hưởng những đơn đặt hàng lớn của nhà nước. Chính vì thế, về mặt pháp lý, DNNN có tư cách giao dịch hàng hóa bình đẳng theo nguyên tắc thị trường, cạnh tranh trong quan hệ với các doanh nghiệp khác, nhưng về thực chất, DNNN bao giờ cũng được cơ quan nhà nước ưu ái hơn trong xử lý lợi nhuận, đấu thầu và tài trợ.
Với vai trò là “công cụ” giúp nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu nhà nước mong muốn, DNNN ở các nước tư bản có thể đem lại lợi nhuận khá lớn cho nhà nước nếu kinh doanh trong các ngành có mức sinh lợi cao và được quản lý tốt, song cũng có thể là gánh nặng của nhà nước nếu kinh doanh trong các ngành sinh lợi thấp và không được quản lý tốt. Về mặt vi mô, nếu DNNN không được quản lý tốt, có thể lâm vào tình trạng phá sản, nếu nhà nước thấy cần cứu trợ DNNN thì sẽ tiếp thêm cho nó những nguồn tài chính lớn, nếu không cần cứu trợ, nhà nước có thể để DNNN phá sản. Sự phá sản của DNNN có thể gây những hậu quả nặng nề cho nhà nước về tài chính, về việc làm, về uy tín,… nhưng nhìn chung không ảnh hưởng đến chế độ kinh tế và chế độ chính trị trong các nước tư bản. Thậm chí, nếu nhà nước thấy không cần đầu tư trực tiếp quá lớn vào DNNN, nhất là khi DNNN hoạt động không hiệu quả và trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước (NSNN), thì nhà nước có thể bán một phần sở hữu của mình cho tư nhân, chuyển DNNN thành doanh nghiệp tư nhân. Đó chính là trào lưu tư nhân hóa vào những thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX ở Anh và Mỹ dưới thời Thủ tướng Thát-chơ và Tổng thống Ri-gân. Ngược lại, vào những thời điểm khó khăn, nhà nước có thể mua một số doanh nghiệp tư nhân, chuyển chúng thành DNNN. Khi các chính đảng xã hội lên cầm quyền ở các nước tư bản chủ nghĩa, nhà nước ở các quốc gia đó cũng có xu hưởng mở rộng DNNN nhằm cung cấp nhiều hơn các dịch vụ công cho xã hội. Song, dù tỷ trọng DNNN giảm hay tăng cũng không đủ sức làm thay đổi chế độ chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Ở những nước lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) như Việt Nam, DNNN có sứ mệnh hoàn toàn khác. Trào lưu XHCN, cả không tưởng lẫn khoa học, đều dựa trên lập trường nhất quán là giải phóng người lao động khỏi mọi hình thức áp bức. Những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã nhìn thấy những mâu thuẫn, những điều xấu xa trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo quá mức, tình trạng đông đảo người lao động tạo ra của cải cho xã hội nhưng lại không có quyền hưởng thụ một cách công bằng nguồn của cải đó, tình trạng thiểu số người có của đã sử dụng quyền tư hữu về tư liệu sản xuất của họ để quyết định cuộc sống của người khác (chỉ khi nào người lao động mang lại lợi nhuận kỳ vọng cho người chủ tư liệu sản xuất, thì người chủ mới cho phép người lao động làm việc để kiếm phương tiện sống). Những người XHCN đã quy những xấu xa của chủ nghĩa tư bản cho chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và do đó, một cách tự nhiên, họ muốn xóa bỏ tư hữu để thay vào đó những hình thức tổ chức sản xuất nhân ái, công bằng và có lợi hơn cho người lao động. Nếu các nhà XHCN không tưởng hy vọng vào các hình thức tự quản của người lao động như hợp tác xã, công xã, hiệp hội (đều có đặc điểm chung là chế độ tự quản của người lao động, phục vụ lợi ích của người lao động), thì các nhà XHCN khoa học kỳ vọng vào nhà nước chuyên chính vô sản dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thay kinh tế thị trường bằng kế hoạch thống nhất của nhà nước. Những người đề xuất tư tưởng XHCN tin tưởng vào năng lực quản lý, ý thức tự giác và lòng nhân ái của con người, hy vọng khi có tự do, khi đã được tổ chức thành giai cấp và có chính quyền, giai cấp công nhân công nghiệp có thể tổ chức nên một phương thức sản xuất dựa trên sở hữu chung của liên minh những người lao động đã được tự do về chính trị, tư tưởng, xã hội.
Lịch sử thế giới đã chứng kiến sự thất bại của các nhà CNXH không tưởng khi cố gắng đưa các sáng kiến tư tưởng vào thử nghiệm ở quy mô nhỏ trong khuôn khổ xã hội tư sản. Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nhất là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với thắng lợi của Hồng quân Liên Xô, hệ thống XHCN hiện thực đã được xác lập ở Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước châu Á, Phi, Mỹ La-tinh, những người XHCN đã có không gian hiện thực rộng lớn để thực thi các chủ thuyết của mình. Sau hơn 70 năm tồn tại và phát triển, hệ thống XHCN thế giới đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, nhưng đến cuối thập niên 80 thế kỷ XX, CNXH hiện thực bắt đầu lộ rõ hạn chế của nó, đó là hiệu quả thấp, mức sống thấp và tình trạng dân cư thụ động, dựa dẫm, phó mặc quyền quyết định vận mệnh của mình cho các cơ quan nhà nước, không quan tâm đến nâng cao năng suất, hiệu quả và tiến bộ kỹ thuật trong hoạt động kinh tế. Diễn biến lịch sử ở thế kỷ XX cho thấy, CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc chỉ thành công khi sử dụng sức mạnh của nhà nước huy động các nguồn lực phát triển theo chiều rộng và trả giá cho sự tập trung phát triển theo chiều rộng bằng mức tiêu dùng vật chất rất thấp của nhân dân.
Song, chuyển sang phát triển theo chiều sâu, các nước XHCN cũ đã không tìm được động lực ủng hộ ngay trong quảng đại những người lao động. Người dân, do không được kích thích bằng lợi ích vật chất trực tiếp nên đã không tích cực lao động một cách sáng tạo. Ngược lại, bộ máy quản lý nhà nước và công chức nhà nước không có khả năng đưa ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hiệu quả. Kết cục là các nước XHCN vẫn không khắc phục được tình trạng lạc hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, hầu hết các nước XHCN đã phải cải cách, đổi mới, từ bỏ kế hoạch nhà nước chỉ huy, quay trở lại kinh tế thị trường.
Trọng tâm của những cải cách kinh tế nhằm quay trở lại kinh tế thị trường là cải cách khu vực DNNN, chuyển một phần năng lực sản xuất của nhà nước sang khu vực tư nhân, xác định các lĩnh vực cần giữ lại DNNN và tìm kiếm mô hình để DNNN không những hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác trong môi trường thị trường, mà còn phải thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, trong đó có nhiều nhiệm vụ giống với DNNN trong các nước tư bản chủ nghĩa, nhiều nhiệm vụ là riêng có ở các nước lựa chọn con đường XHCN. Việt Nam chúng ta cũng lựa chọn con đường như vậy.
Từ khi tiến hành đổi mới toàn diện (từ Đại hội VI của Đảng, tháng 12-1986) đến nay, nhằm giữ vững định hướng XHCN, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã dần trở thành nền tảng của chế độ kinh tế mới. Cơ sở nhận thức của quan điểm này không có gì mới. Chủ nghĩa xã hội gắn với công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, chưa thích hợp với công hữu thuần khiết thì cần duy trì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm phát huy tối đa năng lực sản xuất của đất nước. Tuy nhiên, để không chệch hướng XHCN thì kinh tế nhà nước (với tiền đề là Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản) và kinh tế tập thể (nòng cốt là hợp tác xã) phải được tạo điều kiện thuận lợi tối đa để phát triển dần thành phương thức sản xuất thống trị. Chính vì thế, DNNN được giao ít nhất là 6 trọng trách to lớn: Nắm những vị trí then chốt trong nền kinh tế bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung; là công cụ hỗ trợ Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô; là công cụ thực thi các chính sách mang tính XHCN; là thành phần tạo điều kiện và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi lên CNXH; là hạt nhân tạo sức mạnh cạnh tranh quốc tế; là mô hình xây dựng quan hệ sản xuất XHCN thích hợp với kinh tế thị trường.
Trong chỉ đạo thực tiễn, nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta đã, một mặt, thu hẹp đầu mối DNNN, lựa chọn các lĩnh vực phù hợp với DNNN; mặt khác, đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô và vi mô đối với DNNN. Cho đến nay, về cơ bản nước ta đã tách quản lý vi mô DNNN ra khỏi bộ máy quản lý hành chính nhà nước, giao quyền tự chủ khá rộng rãi cho bộ máy quản lý DNNN, xác định khung khổ pháp lý vận hành bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp khác, bước đầu thiết lập các mô hình tổ chức vi mô DNNN phù hợp với kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, kết quả hoạt động của DNNN chưa thật sự đáp ứng sự kỳ vọng của cả người dân lẫn cơ quan nhà nước về các phương diện: hiệu quả kinh tế cá biệt, phân chia lợi ích, tính hợp lý của mô hình tổ chức đại diện cho phương thức sản xuất mới. Vậy vấn đề ở đâu? Ở quy mô quá lớn của DNNN khiến tài chính nhà nước không kham nổi hay ở mô hình tổ chức vi mô? Ở cơ chế quản lý từ cơ quan nhà nước đại diện cho sở hữu nhà nước đối với DNNN hay ở cán bộ quản trị DNNN? Ở bối cảnh kinh tế khó khăn hay bản chất của sở hữu nhà nước? Những thất thoát, thua lỗ của nhiều DNNN quy mô lớn (tập đoàn kinh tế, tổng công ty) trong thời gian gần đây càng làm cho dư luận bức xúc hơn. Xin đi vào phân tích một số vấn đề đã nêu trên.
Thứ nhất, những yếu kém hiện nay của DNNN có nguyên nhân chủ chốt ở cơ chế quản lý vĩ mô. Ở tầm vĩ mô, luật pháp không xác định rõ cơ quan, cá nhân nào có quyền và phải chịu trách nhiệm đầy đủ về kết quả hoạt động của DNNN, nhất là của các tổng công ty, tập đoàn kinh tế trực thuộc Thủ tướng Chính phủ và các DNNN đã bàn giao về Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).
Với tư cách bộ máy quản lý vi mô các DNNN (dù dưới giác độ tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước), giới quản lý (bộ máy quản trị) DNNN có động lực chạy theo lợi ích cục bộ của doanh nghiệp (đây là một quy luật của kinh tế thị trường). Do vậy, họ có động lực và trên thực tế đã thực hiện việc bưng bít thông tin khi làm sai để khỏi bị trừng phạt và để có thời gian sửa chữa trước khi bị phát hiện. Giới quản lý DNNN cũng có động cơ vận động chính sách, thậm chí “lái” để Nhà nước ban hành các chính sách có lợi cho họ. Những bộ máy quản trị DNNN kiêm thêm nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành thì quyền lực ảnh hưởng đến chính sách của họ càng lớn. Chính vì thế, DNNN thường được hưởng nhiều ưu ái do chính sách đã chịu ảnh hưởng của giới quản lý DNNN. Ngoài ra, DNNN còn được Nhà nước giao độc quyền hoạt động trong một số lĩnh vực nên họ càng có điều kiện bưng bít thông tin và gây ảnh hưởng đến chính sách nhiều hơn.
Các DNNN sau cổ phần hóa được chuyển về SCIC, nhưng vẫn chịu sự quản lý của bộ và chính quyền địa phương trong khâu bổ nhiệm cán bộ và giao nhiệm vụ. SCIC, dù mới quản lý hơn 800 doanh nghiệp, nhưng đã lộ rõ là không đủ năng lực đóng vai trò tổ chức kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp do không đủ cán bộ, không có năng lực hoạch định chiến lược công nghệ và kinh doanh cho từng doanh nghiệp, trong khi đó lại áp đặt cho doanh nghiệp cơ chế quản lý và báo cáo một cách hình thức không cần thiết.
Tựu trung, DNNN không chịu sự kiểm soát đáng có của chủ sở hữu, trong khi lại phải gánh nhiều nhiệm vụ phi kinh doanh do Nhà nước giao mà không có cơ chế đền bù lợi ích chính đáng. Trong điều kiện các DNNN chưa minh bạch thông tin, Kiểm toán Nhà nước chưa có quyền độc lập đủ mức trong kiểm soát hoạt động của DNNN, Thanh tra Chính phủ không chịu trách nhiệm kiểm soát DNNN với tư cách chủ sở hữu (chỉ thanh tra theo luật, theo chế độ chính sách) thì đương nhiên giới quản lý DNNN sẽ tự tung, tự tác trong hoạt động của mình. Minh chứng rõ ràng là nhiều tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước đã sao nhãng nhiệm vụ chính, chạy theo lợi nhuận đơn thuần (lấy cớ quyền tự chủ kinh doanh, nâng cao hiệu quả cá biệt, lấy lợi nhuận ở ngành kinh doanh phụ bù đắp cho ngành kinh doanh chính), dẫn đến thua lỗ, thất thoát rất lớn trong kinh doanh, nhất là kinh doanh ngoài ngành, mà không bị phát hiện trong nhiều năm. Thậm chí có những dự án lộ diện nhãn tiền giữa thanh thiên bạch nhật, như các ụ tầu, các nhà máy bỏ không,… nhưng không có cơ quan nào vào cuộc thanh tra xử lý nếu không có báo cáo thua lỗ hoặc cố ý làm sai chính sách nghiêm trọng. Chỉ khi nào “ung nhọt” không thể che giấu được nữa (như trường hợp của Vinashin và Vinalines) thì các “ông chủ” là nhân dân mới được biết tài sản của mình được sử dụng lãng phí như thế nào. Như vậy, trách nhiệm kiểm soát, quyết định của cơ quan chủ sở hữu không được thực thi hiệu quả là nguyên nhân khiến DNNN có cơ hội cố ý làm sai. Hơn nữa, nhiều cơ chế, chính sách quản lý DNNN, hoặc quá lạc hậu, hoặc không đầy đủ đã cản trở DNNN muốn làm ăn đúng đắn và tạo cơ hội cho DNNN làm ăn không đúng đắn mà không bị trừng phạt. Nguyên nhân này có thể khắc phục được không? Hoàn toàn có thể khắc phục được, khi chúng ta nghiên cứu kinh nghiệm của Teamasek của Xin-ga-po, Hãng Dầu khí quốc gia của Ma-lai-xi-a. Vấn đề là cần kiên quyết rà soát và xây dựng cơ chế kiểm soát, cơ chế trách nhiệm, cơ chế xử phạt rõ ràng của các cơ quan và cá nhân kinh doanh vốn nhà nước đi đôi với việc thu hẹp đầu tư nhà nước vào những lĩnh vực mà DNNN có ưu thế hơn doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, ở tầm quản lý vi mô DNNN cũng có quá nhiều khiếm khuyết. Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hầu như chưa có cải thiện gì đáng kể so với DNNN 100% vốn nhà nước. Mô hình công ty cổ phần phân thành 2 dạng: nếu cổ phần nhà nước chiếm tỷ trọng tuyệt đối thì giới quản lý doanh nghiệp do Nhà nước chi phối và về cơ bản hoạt động như cũ, cổ đông người lao động ít có cơ hội tham gia quản lý doanh nghiệp. Số công ty cổ phần mà vốn nhà nước không chi phối thì bị tư nhân thao túng và hoạt động khá lộn xộn, vốn nhà nước tại các công ty này do một DNNN khác quản lý, hoặc do SCIC quản lý một cách kém hiệu quả. Nói cách khác, quản lý vi mô trong các DNNN hoàn toàn trông đợi vào đạo đức và tài năng của các cá nhân được cơ quan nhà nước bổ nhiệm và giao quyền quản lý DNNN.
Do thiếu cán bộ nên SCIC đã bổ nhiệm rất nhiều cá nhân không có năng lực quản lý làm đại diện phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần khiến sự hiện diện của đại diện sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp bị vô hiệu hóa. Hơn nữa, do cơ chế một cán bộ của SCIC hoặc của tổng công ty nhà nước đảm nhiệm vai trò đại diện sở hữu nhà nước tại nhiều công ty cổ phần, nên vừa không có thời gian tham gia quản lý đúng trách nhiệm của mình, vừa tham gia đường dây phân phối lại lợi ích của các công ty cổ phần (hưởng nhiều khoản lương do các công ty cổ phần trả cho vị trí đại diện sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp), nên hiệu lực quản lý thấp (thậm chí bị công ty cổ phần vô hiệu hóa vai trò quản lý vì nhận lương của họ). Thời gian gần đây, nhiều cán bộ quản lý DNNN có biểu hiện giàu lên một cách khó hiểu, trong khi mức sinh lợi của DNNN được đánh giá khá thấp; nhiều DNNN thua lỗ, nhưng cán bộ quản trị doanh nghiệp vẫn giàu có. Hiện tượng này khiến người dân không hài lòng. Có thể khắc phục hiện trạng này bằng cách đổi mới cơ chế quản lý và trả lương của Nhà nước đối với cá nhân đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Trong cơ chế mới, cá nhân đại diện phần vốn tại doanh nghiệp sẽ được cơ quan chủ quản trả lương trích từ phần lợi nhuận doanh nghiệp đó đem về cho ngân sách nhà nước tương xứng với trách nhiệm mà Nhà nước giao cho cá nhân đó trong việc bảo toàn, phát triển vốn nhà nước đi đôi với hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao. Các nhân viên quản lý khác sẽ được thuê theo hợp đồng do cá nhân đại diện phần vốn nhà nước chủ trì hội đồng quản trị quyết định (nếu là công ty cổ phần Nhà nước chi phối) hoặc tham gia hội đồng quản trị, tham gia quyết định (nếu là công ty cổ phần Nhà nước không chi phối). Muốn vậy, phải có luật chế định các quyền và nghĩa vụ của cá nhân đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp để ràng buộc hành vi của họ trong những khuôn khổ có lợi cho quốc kế, dân sinh; hạn chế, phòng ngừa hành vi lợi dụng vốn nhà nước làm lợi cho cá nhân và nhóm có quyền chi phối doanh nghiệp. Hơn nữa, cần tăng cường quyền lực của cơ quan kiểm toán và cơ quan chống tham nhũng độc lập với cơ quan quản lý cá nhân đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp để tạo cơ chế kiểm soát chéo nhằm hạn chế sự lạm quyền vì tư lợi.
Thứ ba, nhiều DNNN sử dụng độc quyền nhà nước và tiêu xài nguồn tài chính nhà nước khá lớn, trong khi đó chất lượng và thái độ phục vụ nhân dân không đưa lại sự hài lòng đáng kể, thậm chí các cơ quan nhà nước còn đưa ra các nhận định khác nhau về một DNNN khiến người dân bán tín, bán nghi. Nguyên nhân của tình trạng này là thiếu một chế tài buộc DNNN phải minh bạch thông tin với tư cách không những là công ty cổ phần đại chúng, mà còn là doanh nghiệp công, tức doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của xã hội. Có thể thiết kế mức độ minh bạch thông tin một cách hợp lý nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa duy trì quyền kiểm soát của Nhà nước và xã hội đối với DNNN với bảo mật trong kinh doanh. Theo chúng tôi, trước hết, cần cung cấp thông tin minh bạch cho các đối tượng sau đây: Cơ quan quản lý và kinh doanh vốn nhà nước, tùy theo cơ chế phân cấp nhận và xử lý thông tin, trong đó nhấn mạnh cung cấp thông tin cho Quốc hội, cơ quan quản lý hành chính, các tổ chức xã hội, báo chí truyền thông. Cần mở rộng quyền độc lập của Kiểm toán Nhà nước trong việc ra quyết định kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán cho Quốc hội và báo chí. Tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của Quốc hội đối với các DNNN trọng điểm, sử dụng nhiều vốn nhà nước. Cần trao quyền độc lập của cơ quan phòng, chống tham nhũng trong điều tra các DNNN có liên quan đến tham ô, tham nhũng tài sản của Nhà nước.
Một vấn đề cần nhận thức rõ là mô hình DNNN thích hợp với kinh tế thị trường hiện nay có là đại diện đích thực cho quan hệ sản xuất XHCN mà nước ta muốn xây dựng không? Đến Đại hội XI, quan hệ sản xuất được định hướng xây dựng là quan hệ sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển hết tiềm năng của chúng. Chính vì vậy, cần xử lý vấn đề DNNN trên lập trường hiệu quả. Dù có mang tính XHCN đến đâu mà DNNN không hoạt động hiệu quả thì sứ mệnh của nó sẽ bị phủ nhận. Vì thế, cần phân định rõ việc chúng ta sử dụng DNNN vì mục đích gì. Trước hết, DNNN cần tồn tại ở những lĩnh vực cần thiết cho xã hội nhưng không hấp dẫn tư nhân. Xử lý tính không hấp dẫn của lĩnh vực đó, theo chúng tôi, cũng nên đa dạng hóa phương thức thực hiện, như lập DNNN, tài trợ cho doanh nghiệp tư nhân để chúng cung cấp sản phẩm, dịch vụ Nhà nước muốn cung ứng,… Song cần tính toán kỹ lưỡng chi phí xã hội và lợi ích xã hội của đầu tư nhà nước vào các lĩnh vực này. Nói cách khác, quy mô đầu tư nhà nước vào lĩnh vực này phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của Nhà nước cũng như thứ tự ưu tiên của những lĩnh vực đó. Hình thức đầu tư nên đa dạng, như đầu tư trực tiếp, hỗ trợ tín dụng hoặc tài chính cho tư nhân sản xuất, hỗ trợ giá khi khuyến khích tư nhân cung ứng,… Mức độ thua lỗ của các DNNN hoạt động ở lĩnh vực này cần được lên kế hoạch để giám sát.
Trong các lĩnh vực sinh lời, Nhà nước cần xác định rõ, DNNN nào cần duy trì thuần túy mang tính đầu tư sinh lời của Nhà nước (loại này cần được thuê quản lý chặt chẽ như doanh nghiệp tư nhân và có thể linh hoạt điều chỉnh theo nhu cầu tài chính của Nhà nước trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác theo nguyên tắc thị trường). Cần lựa chọn thí điểm ở quy mô nhỏ một số DNNN nhằm tìm kiếm mô hình kinh doanh vốn nhà nước một cách hiệu quả. Về mặt lý thuyết, có thể quản lý DNNN theo cơ chế như doanh nghiệp tư nhân với điều kiện giám sát chặt chẽ nhân viên quản lý được thuê. Tuy nhiên, cần tìm kiếm hình thức tham gia hiệu quả của người lao động, tổ chức chính trị – xã hội vào quản lý DNNN cũng như tìm phương thức giám sát quản lý vi mô DNNN một cách hiệu quả. Ở đây, vấn đề thu hút, đào tạo, bảo vệ, đãi ngộ và giám sát các cán bộ tài năng quản lý vốn nhà nước một cách hiệu quả có vai trò vô cùng quan trọng.
Một vấn đề nữa, DNNN có cần nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế để bảo đảm vị thế kiểm soát nền kinh tế của Nhà nước XHCN không? Theo chúng tôi, DNNN nắm các vị trí then chốt trong nền kinh tế là một yêu cầu thực tiễn sống còn. Nếu Nhà nước XHCN không nắm được các vị trí then chốt trong nền kinh tế thì trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh tất yếu sẽ phân hóa giàu nghèo và tập trung của cải vào một thiểu số tư hữu (điều này lịch sử đã chứng minh) và họ sẽ gây áp lực kinh tế buộc Nhà nước phải bảo vệ lợi ích của họ. Khi đó, Nhà nước XHCN không thể có thực quyền để thực thi các mục tiêu mang tính XHCN. Vì thế, Nhà nước ta phải giữ được các “huyết mạch” của nền kinh tế. Nói cách khác, giữ vị trí then chốt là điều kiện cần, nỗ lực tìm kiếm mô hình để DNNN hoạt động có hiệu quả là điều kiện đủ để không chệch hướng XHCN.
Vấn đề nữa là, về bản chất DNNN có thể hoạt động hiệu quả không? Chúng tôi cho là có. Thứ nhất, về mặt thực tiễn, đã có nhiều mô hình DNNN ở các nước lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa cũng như lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa hoạt động hiệu quả. Thứ hai, trên phương diện lý thuyết, nếu có cơ chế ủy quyền đầy đủ đi đôi với chế độ giám sát hiệu quả thì về cơ bản mô hình quản lý vi mô DNNN không khác doanh nghiệp tư nhân. Vậy có nhiều doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả thì DNNN cũng có thể hoạt động hiệu quả. Vấn đề là cần thiết kế lại cơ chế ủy quyền, cơ chế hợp đồng trách nhiệm, cơ chế giám sát và chế độ cán bộ hợp lý. Bổ sung cho cơ chế này là chế độ minh bạch thông tin. Khi người lao động và cán bộ quản lý có cơ chế hoạt động hợp lý, được cổ vũ bằng sự ủng hộ của nhân dân, không có lý gì DNNN lại hoạt động không hiệu quả. Ở đây cần chú ý các biện pháp phòng ngừa lòng tham và gian dối của con người, trong đó có lòng tham và gian dối của cán bộ quản lý DNNN.
Như vậy, tái cấu trúc DNNN cần được nhìn nhận một cách toàn diện, từ những nguyên tắc XHCN đến các khía cạnh thực tế, lấy lợi ích chung của đất nước, hiệu quả của DNNN làm tiêu chí phán xét nên làm gì và không nên làm gì. Tái cấu trúc cần chú ý tình hình thực tế của từng DNNN, từng ngành cụ thể để có biện pháp xử lý tình huống đúng đắn. Hết sức tránh cách làm hình thức, rập khuôn theo kiểu hành chính của những đợt cải cách, đổi mới trước đây. Không thể giải quyết các vấn đề của tất cả các DNNN trong một lần và bằng một giải pháp giống nhau./.