Đối Tượng Nghiên Cứu Của Triết Học Là Gì? Mác – Lênin
Đối tượng nghiên cứu của triết học là phần rất quan trọng hay xuất hiện trong các bài kiểm tra và đề thi cuối học kỳ. Nếu không nắm rõ thì rất khó đạt được điểm cao và qua môn. Vậy đối tượng nghiên cứu của triết học là gì? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn ở bên dưới đây nhé!
Đối tượng nghiên cứu của triết học
Đối tượng nghiên cứu của triết học sẽ thay đổi trong từng chu trình lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử, điều kiện kinh tế – xã hội, sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng khác nhau nên đối tượng nghiên cứu của triết học cũng có những nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, vẫn xoay quanh các vấn đề về mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan ở bên ngoài, giữa tư duy và sự tồn tại.
Đối tượng nghiên cứu của triết học chính là việc tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật; nghiên cứu ra những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ đó đưa ra định hướng đúng đắn cho các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Ngay từ khi mới ra đời
Từ khi mới ra đời thì triết học đã được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao hàm trong nó một tri thức về tất cả các lĩnh vực không có một đối tượng riêng. Quan điểm này chính là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh ra quan niệm cho rằng: Triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc biệt là triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Vào thời kỳ này, triết học đã đạt được rất nhiều thành tựu rực rỡ. Sự ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển tư tưởng triết học ở Tây Âu.
Thời kỳ trung cổ
Ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội đã bao trùm mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội thì triết học dần trở thành nô lệ của thần học. Nền triết học tự nhiên dần được thay thế bằng nền triết học kinh viện. Lúc này triết học phát triển rất chậm chạp, ì ạch trong môi trường chật hẹp của đêm trường thời trung cổ.
Vào thế kỷ XV, XVI
Sự phát triển mạnh mẽ của giới khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo ra một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng nền triết học. Để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt là sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập.
Sự phát triển của xã hội được thúc đẩy bởi sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bởi những phát hiện lớn về địa lý, thiên văn cùng những thành tựu nổi bật khác của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển mạnh mẽ của triết học.
Thế kỷ XVII – XVIII
Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của ngành khoa học thực nghiệm đã phát triển mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Nó đã đạt tới một đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật ở thế kỷ XVII – XVIII tại các nước Anh, Hà Lan, Pháp, với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, Điđrô, T.Hốpxơ (Anh), Xpinôda (Hà Lan), Henvêtiuýt (Pháp), …
V.I.Lênin đặc biệt đánh giá rất cao công lao của các nhà duy vật của Pháp thời kỳ này. Đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác.
“Trong suốt cả lịch sử hiện đại của Châu Âu, nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở Pháp đã diễn ra cuộc quyết chiến để chống lại tất cả những thứ rác rưởi của thời trung cổ, chống lại chế độ phong kiến trong các thiết chế và tư tưởng. Chỉ có chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất giải quyết triệt để; trung thành với tất cả các học thuyết của khoa học tự nhiên; thù địch với mê tín, với thói đạo đức giả; …”.
Mặt khác, tư duy triết học cũng đã được phát triển ở trong các học thuyết triết học duy tâm. Đỉnh cao nhất phải kể đến là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc nhất của triết học cổ điển Đức.
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng đã từng bước làm phá sản tham vọng của triết học khi muốn đóng vai trò là “khoa học của các khoa học”. Triết học Hêghen chính là học thuyết triết học cuối cùng mang trong mình tham vọng đó.
Hêghen tự coi triết học của mình là một hệ thống phổ biến nhất của sự nhận thức. Trong đó, những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt xích phải phụ thuộc vào triết học.
Đầu thế kỷ XIX
Hoàn cảnh kinh tế – xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của giới khoa học vào đầu thế kỷ thứ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để các quan niệm “khoa học của các khoa học”. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác chính là tiếp tục giải quyết các mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt. Từ đó có thể nghiên cứu ra những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự khác nhau giữa đối tượng nghiên cứu của triết học với các môn khoa học khác
Đối tượng nghiên cứu của Triết học: Nghiên cứu về các vấn đề chung nhất, phổ biến nhất của thế giới quan; là hệ thống các quan điểm lý luận chung về thế giới quan và vị trí của con người ở trong thế giới đó.
Ví dụ về đối tượng nghiên cứu của triết học: Triết học nghiên cứu về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; giữa sự tồn tại xã hội và ý thức xã hội; nghiên cứu các quy luật chung nhất về vận động, sự phát triển của sự vật và hiện tượng.
Đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học khác: Mỗi môn khoa học khác nhau sẽ có đối tượng nghiên cứu khác nhau. Chúng sẽ đi sâu vào nghiên cứu một bộ phận hay một lĩnh vực riêng biệt.
Ví dụ đối tượng nghiên cứu của hóa học: Nghiên cứu về cấu tạo, tính chất và sự biến đổi của các chất. Của sử học là nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của con người. Đối tượng của môn toán là những con số, hoán vị, phân vùng, tập hợp, hàm số và ma trận.
Bên trên là những thông tin chúng tôi chia sẻ cho các bạn về đối tượng nghiên cứu của triết học là gì? Hy vọng bài viết sẽ mang đến những kiến thức bổ ích giúp các bạn nắm vững để đặt được điểm cao trong kỳ thi học kỳ.
||Bài viết liên quan khác: