Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ

Thơ bốn chữ và thơ năm chữ là những thể thơ phổ biến và đặc sắc nhất. Trong bài viết dưới đây là những mẫu đoạn văn ghi lại cảm xúc về những bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ hay nhất.

1. Dàn ý đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ: 

Mở đoạn: 

– Giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận – Nghị luận về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ (Tên bài thơ, tác giả, năm sáng tác).

Thân đoạn: Nghị luận về bài thơ:

– Nội dung của bài thơ.

– Đặc sắc nghệ thuật.

– Ý nghĩa của bài thơ.

Kết đoạn: Cảm nhận bản thân.

2. Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ hay nhất: 

Đoạn 1: 

Trong nền văn học  Việt Nam hiện đại, đã có rất nhiều bài thơ viết về Bác Hồ kính yêu, nhưng hơn cả bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của tác giả Minh Huệ đã làm nhiều người đọc xúc động không thôi. Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ thật thánh thiện và cao đẹp. Bác suốt đời  lo cho đất nước, cho nhân dân và cho những người chiến sĩ. Bác  không quản ngại gian khổ, khó khăn để trực tiếp lãnh đạo chiến dịch. Bác đã thức trắng đêm, suy nghĩ, trăn trở về cuộc vận động giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bác thao thức vì thương những người lính còn phải đi trong khói lửa chiến tranh, vì đồng bào phải ngủ trong rừng mưa lạnh. Hình ảnh của Bác – người cha của lực lượng quân đội Việt Nam – thật gần gũi và thân thương biết bao. Bác coi từng chiến sĩ như  con  mình: Bác nhóm lửa sưởi ấm, Bác ôn tồn đắp chăn cho từng người. Bác thắp lên ngọn lửa yêu thương trong trái tim mình để truyền hơi ấm cho đồng bào.  Bác Hồ quan tâm, chia sẻ với từng người lính một cách dịu dàng, tình cảm như tình yêu của người cha dành cho  con  mình. Tình cảm giữa Bác và những người lính khiến nhiều người xúc động. Sự quan tâm, chăm sóc của Bác khiến những người lính  tự hào, sung sướng, như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh để tiến lên phía trước. Chắc hẳn mỗi người lính đều cảm thấy Bác Hồ  vĩ đại, tình  Bác thật bao la và sâu nặng. Bác quan tâm đến người khác nhiều hơn bản thân mình. Tình yêu thương, tấm lòng bao la vì dân của Bác  đã tạo nên hình ảnh một vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân.

Đoạn 2: 

Mẹ là đề tài muôn thuở trong thơ ca. Thu nhận từ chủ đề ấy, Đỗ Trung Lai đã thể hiện thành công nỗi buồn đau của cậu bé khi nhìn thấy hình ảnh người mẹ ngày một xác xơ, lưng còng, rũ xuống và mái đầu bạc phơ bơ vơ. Hình ảnh này được thể hiện rất rõ  qua những câu thơ:

 “Một miếng cau khô

Khô gầy như mẹ

Con nâng trên tay

Không cầm được lệ”.

Cau khô là miếng  chuyển từ màu xanh sang nâu và không còn ăn được, không còn cảm giác ngon . Tác giả so sánh mẹ với hình ảnh héo hon, khô khốc. Nhìn miếng cau khô, tác giả nghĩ đến người mẹ già, kiệt quệ mà nước mắt “không cầm được lệ”. Và hình ảnh so sánh độc đáo này đã gây sức truyền cảm lớn trong lòng mỗi người đọc, hình ảnh người mẹ của tác giả làm em liên tưởng đến người mẹ thân yêu của mình cũng ngày một già đi nên em càng thêm trân trọng bài thơ này. Bài thơ ngắn gọn với biện pháp so sánh riêng đã thể hiện được cách diễn đạt dịu dàng, tình cảm và tình yêu thương  sâu sắc của nhà thơ đối với mẹ.

3. Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ ngắn nhất: 

Đoạn 1: 

“Sang thu” là bài thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh ghi lại vẻ đẹp của sự chuyển mùa của thiên nhiên. Mùa thu đến với hương ổi thơm  trong không khí. Trong hai khổ thơ đầu, tác giả miêu tả về những đổi thay do mùa thu mang lại qua đó bày tỏ cảm xúc của mình về vẻ đẹp của thiên nhiên trước sự. Cuối bài thơ, tác giả ngẫm nghĩ về bài học mà thiên nhiên từ đó dạy cho chúng ta những ý nghĩa về cuộc sống con người. Những biến cố xảy đến với con người trong cuộc đời cũng giống như sự đổi thay của cảnh sắc thiên nhiên. “Hàng cây đứng tuổi” trong bài thơ tượng trưng cho những con người  đã sống và đã đi qua tuổi trẻ của mình. Khi mọi người già đi, họ trở nên ổn định hơn và học cách đối phó với những tình huống khó khăn. Bài thơ này  để lại ấn tượng cho người đọc bởi những nét tả cảnh đẹp thiên nhiên lúc chuyển mùa.

Đoạn 2: 

Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận là một bài thơ đã mang lại cho tôi  nhiều cảm xúc. Nhân vật chính của bài thơ – “chim chiền chiện” – được nhà thơ miêu tả rất chân thực và sống động. Cánh chim vươn trời, tiếng hót óng ánh như  sương mai, ngòi bút tài tình của tác giả  kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật ngụ ngôn và ẩn dụ thay đổi cảm quan. Nhờ tài năng của người nghệ sĩ, tiếng hót của loài chim  không chỉ được cảm nhận bằng thính giác mà còn bằng thị giác – đầy rực rỡ, như ánh nắng chiếu rọi những giọt sương còn đọng lại trên cành cây. Những câu thơ tạo cảm giác chú chim chiền chiện đang nói với mọi người. Những chú chim làm tốt nhiệm vụ của mình, mang lại niềm vui cho thế giới, những chú chim bay lượn trên bầu trời xanh dường như không bao giờ mệt mỏi. Qua những dòng thơ trong sáng, đẹp đẽ, nhà thơ đã gửi gắm đến  người đọc một thông điệp ý nghĩa rằng con người phải có sự hòa hợp, có tình cảm với thiên nhiên thì mới cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời nhắc nhở phải biết trân trọng, yêu  thiên nhiên như chính bản thân mình.

4. Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ được điểm cao nhất: 

Đoạn 1: 

Đến với bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên, người đọc vô cùng cảm phục trước những cảm xúc, suy nghĩ mà tác giả mang lại. Hình tượng ông đồ  rất nổi tiếng trong xã hội phong kiến ​​xưa, họ là những người có học thức, tài giỏi được mọi người kính trọng. Ngày xưa, mỗi khi Tết đến xuân về, ông thường đổ giấy mực đỏ ra đường cho chữ, viết thơ, câu đối. Ngòi bút tài hoa của nhà văn đã miêu tả rất tài tình và tinh tế  tài thư pháp của ông: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay”. Người xưa rất yêu thích những chữ viết tay của ông đồ, thường  mua về treo trong nhà đối với những người muốn cầu chúc một năm mới an lành. Nhưng theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, ông lão vẫn ngồi đó, nhưng không ai quan tâm đến ông đồ nữa, không  ai để ý và muốn mua những câu đối chúc mừng mỗi khi tết đến xuân về đến. Những đồ vật quen thuộc như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” được tác giả nhân cách hóa để gợi lên nỗi buồn riêng của người nghệ sĩ khi không còn quen thuộc với mọi người . Câu hỏi cuối bài thơ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ” không phải là câu nghi vấn để hỏi mà có giá trị xót thương cho thân phận  người xưa trước sự mai một của những giá trị truyền thống, một truyền thống lâu đời. Có thể nói, nếu không phải nhờ khả năng kết hợp các biện pháp tu từ tài tình, bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên đã không đánh thức hoài niệm về quá khứ,  tiếc thương về  truyền thống trong lòng người đọc. Truyền thống đang dần bị lãng quên trong mỗi con người  Việt.

Đoạn 2: 

Trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh hiện lên rõ nét và đầy đủ những hình ảnh về làng biển thân yêu của nhà thơ, từ “những cánh buồm căng lên như mảnh hồn làng” đến những ngư dân phương “cả người đượm hương vị của phương xa”. Nhà thơ đưa ta đến một thế giới thân thiết mà ta chỉ thấy lờ mờ, một thế giới của những cảm giác mà ta lặng lẽ thể hiện. Có lẽ nhà thơ đã viết “Quê hương” bằng cả trái tim yêu quê hương, đất nước, yêu những con người bất hạnh, bằng những kỉ niệm thân thương nhất của chính bản thân mình. Với ca từ giản dị mà gợi cảm, hình ảnh thơ bay bổng, lãng mạn đã làm nổi lên hình ảnh quê hương nơi đây đang sống, tươi đẹp và thật trong lành.

5. Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ chọn lọc nhất: 

Trong bài thơ “Đồng dao mùa xuân” của Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh những người bộ đội cụ Hồ đã mang đến cho em bao cảm xúc. Mở đầu bài thơ, hình ảnh người lính lên núi xanh trong những năm  kháng chiến khói lửa của dân tộc gây cho em ấn tượng sâu sắc. Tuy nhiên, anh đã hy sinh nơi chiến trường, nhưng không thể chờ đợi ngày đất nước hòa bình: “Một ngày hòa bình/ Anh không về nữa”. Đoạn thơ chỉ có hai dòng nhưng gợi bao nỗi xót xa trước sự thật phũ phàng của chiến tranh: người lính ra đi không bao giờ trở lại. Ngày anh đi, anh là  một thanh niên “chưa một lần yêu”, chưa từng biết  cà phê là gì. Anh vẫn thích thả diều trên những cánh đồng bát ngát của quê hương. Nhưng chiến tranh tàn khốc đã cướp đi sinh mạng  của anh: “Một lần bom nổ/ Khói đen rừng chiều/ Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo”. Câu thơ: “”Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo” khiến em cảm nhận được sự hy sinh đau thương, nhưng cái chết của anh  trở thành ngọn lửa bất diệt, soi sáng ý chí, tinh thần của những người đồng đội đã vực dậy họ. Đi theo để chiến đấu. Dù anh đã ra đi nhưng những ký ức về “Ba lô con cóc/ Tấm áo màu xanh/ Làn da sốt rét/ Cái cười hiền lành” vẫn khắc sâu trong ký ức đồng đội của anh. Ngày đất nước toàn thắng, biết bao  người  trở về với gia đình, quê hương. Chỉ có anh  gửi người trai trẻ đầy nhiệt huyết của mình vào thăm thẳm Trường Sơn trong dáng ngồi lặng lẽ “dưới cội mai vàng”, dưới “màu hoa đại ngàn” mắt sáng như “suối biếc”, vai  đầy dáng núi. Bao nhiêu thanh xuân đã qua, đã đến lúc nhớ nhung. So sánh từ ngữ tinh tế,  vần chân,  ngắt nhịp 2/2, biện pháp nghệ thuật “Mắt như suối biếc” nhà thơ đã đặt hình bóng người lính trong trái tim mỗi người Việt Nam. Những người lính sống mãi trong tình yêu thương, sự  biết ơn và kính trọng của nhân dân, bởi họ đã tạo nên mùa xuân cho đất nước và nhân dân.