Đi lễ chùa ngày Tết sao cho đúng không bị “phạm”

(PLVN) – Đi lễ chùa đầu năm đã thành một nếp đón Tết, chơi Xuân. Tuy nhiên, trong niềm vui chung, cũng không tránh khỏi những hình ảnh, hành vi chưa đẹp, những ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục hay vi phạm các quy định công cộng nơi cửa Phật. Đến với chốn thờ tự là chùa chiền trong dịp Tết thế nào cho đẹp đẽ, vui vẻ và an nhiên. Hãy cùng Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hùng Vĩ tìm hiểu và chia sẻ về vấn đề trên một cách dễ hiểu và đầy đủ nhất.

Theo Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hùng Vĩ ngày Tết đi chùa thường có 3 mục đích đó lễ bái – vãn cảnh và cúng dường.

Lễ bái là một nghi thức quan trọng của thực hành tín ngưỡng Phật giáo. Nói nôm na “lễ” là lạy, “bái” là vái. Lễ là hành vi, là cử chỉ để bày tỏ sự cung kính của người đi chùa với Phật, Bồ tát, các vị tăng ni, với chùa tháp tam bảo, các vị giám tự, tu hành và con người với con người.

Ông Nguyễn Hùng Vĩ nhấn mạnh, khi đến chùa, phải chú ý 4 thao tác lễ bái đó là thân lễ bái, tâm lễ bái, khẩu lễ bái và ý lễ bái. Thân thì phải chú ý đến phục trang, phải lành lặn đoan chính, đi đứng phải chậm rãi trang nghiêm, thi lễ phải cung kính lịch sự, dung mạo phải thanh thản hồn hậu.

Tâm thì hướng đến thanh tịnh, hướng đến sự trong sáng, thành thực, cung kính, thiêng liêng, .

Khẩu thì hài hòa nhỏ nhẹ, miệng khấn lục tự khẩn niệm là “Nam mô A di đà Phật” (Nam mô là kính lễ, kính bái, A di đà là muôn muôn năm, vô lượng thọ, Phật là Đức Phật), cả câu có nghĩa là “Kính lễ Đức Phật muôn muôn năm”. Ý lễ bái là suy nghĩ về chính những việc được mất mà mình làm để chiêm nghiệm, là hướng đến những giáo lý, những chân lý cũng như lẽ sống mà mình đã được giáo tập.

Đối với những quy định lễ bái còn yêu cầu đến từng tình huống và hành vi đảnh lễ. Đó là việc khi thí chủ gặp nhau, khi gặp các bậc trưởng thượng, các vị tăng ni, khi đứng trước ban thờ và tượng Phật, khi dâng hương cúng dường, khi nhận lộc Phật…

Phân tích về chính lễ và tà lễ, Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hùng Vĩ cho hay, những lễ hướng thiện được gọi là chính lễ, còn “ngã mạn kiêu tâm lễ” (lễ bái với cái tâm kiêu mạn), “xướng họa cầu danh lễ” (lễ bái để cầu danh) được gọi là tà lễ.

“Lễ bái đúng thì nhờ đó mà đời sau sẽ được 5 thứ công đức thù thắng (Lễ bái ngũ công đức) như, hình tướng xinh đẹp, giọng nói hay, có nhiều của báu, sinh vào nhà cao sang, sinh lên các cõi trời. Đó là đời sau, kiếp sau chứ không phải hôm nay và ngày mai, hôm nay và cả năm sau trong cõi thực sinh này” ông Nguyễn Hùng Vĩ nói.

Đến vãn cảnh là đi ngắm cảnh chùa, đi tìm hiểu một nơi di tích văn hóa lịch sử để vui thích và hiểu biết, thưởng ngoạn tự nhiên và công trình kiến trúc truyền thống.

Cúng dường là đến chùa để góp công quả cho tăng hội, giáo đoàn, những người lo việc tín ngưỡng cho chúng ta. Nó là nói nôm của “cung dưỡng”. Cung là cung cấp, dưỡng là nuôi nấng.

Theo Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hùng Vĩ, chùa viện và tăng đoàn xưa sống bằng cúng dường. Các triều đại phong kiến trước đây ngoài giúp xây chùa, còn cấp cho chùa viện ruộng để cúng cấp lễ lạt. Có ruộng trồng mía, có ruộng trồng nếp. Người dân sẽ giúp đỡ nhà chùa canh tác ruông ấy để thu hoa lợi. Đều là ruông quan điền nên rất tốt. Từ đó mà dân gian có thành ngữ “Bờ xôi – ruộng mật”.

Lúc đầu, sự cúng dường dùng để nuôi đời sống người tu hành là chính, sau cũng bao hàm sự cúng dường về tinh thần cho nên chia ra “Thân phần cúng dường” và “Tâm phần cúng dường”. Thân phần cúng dường là cung cấp thức ăn, vật dụng, quần áo, thuốc thang cho đời sống tăng ni… Tiến lên là cơ sở vật chất như đất đai, chùa tháp, tượng đồ, phòng ốc, kinh sách… Tâm cúng dường là đem tinh thần sung kính mà cúng dường cung kính, cúng dường lễ bái, cúng dường tán thán, cúng dường những sáng tạo nghệ thuật Phật giáo, độc kinh, chép kinh, truyền giáo lý, thực hành các đức hạnh v.v…đều thuộc về Tam cúng dường.

So với các ứng xử và nghi thức đi chùa hiên tại ông Hùng cho biết, về cơ bản là tốt đẹp. Tuy nhiên cũng không ít những vấn đề tiêu cực, dáng lo ngại và cần chấn chỉnh.

Có những người đến chùa với ăn mặc cẩu thả, trang phục lòe loẹt, đi đứng nói năng thiếu nghiêm trang, thi lễ thì qua quýt…đó là phạm vào “thân lễ bái”.

Cũng có người đi chùa do đua đòi hoặc lấy lệ, chỉ hướng đến cầu lợi cầu danh cho hôm nay đó là cái “tâm lễ bái” chưa tốt, vướng tam nghiệp tham sân si.

Còn có người vào chùa nói năng bạt mạng, cười đùa vô tư…là phạm vào cái “khẩu lễ bái”. Có người đi chùa cúng dường đua đòi, vàng mã hương đăng đốt mù trời cho hơn người khác là sa vào tà lễ, mong thỏa cái tâm kiêu mạn mà thôi.

Có người đi chùa mà không am hiểu ý nghĩa lịch sử, cảnh đẹp núi non, chỉ ham chụp ảnh lên phây, khoe với bạn bè thì cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của người hành hương danh lam thắng cảnh.

Thường thì các chùa cổ kính đều là những di tích văn hóa lịch sử và không phải ở đâu cũng gây nên tình trạng lộn xộn, phản cảm. Ngành văn hóa luôn luôn có những quy định kịp thời để chấn chỉnh những sai sót. Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng ra những quy định rất hợp lý cho nhà chùa và những người đi lễ hoặc vãn cảnh.

Theo nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hùng Vĩ, ngày nay ý thức của mọi người đang được nâng cao dần lên cùng sự phát triển của văn hóa xã hội. Đó là điều rất đáng ghi nhận.