Detail
Các thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại ngày nay đã làm rút ngắn tuổi thọ của công nghệ,
khiến nhu cầu đổi mới công nghệ ngày càng tăng. Trong lĩnh vực công nghệ phát
triển nhanh, chu trình sống của công nghệ rất ngắn, những người đi sau muốn có công
nghệ đã xuất hiện trên thị trường thường thông qua chuyển giao thay vì bắt đầu
từ nghiên cứu.
Không có quốc gia nào trên thế giới có
đủ mọi nguồn lực để làm ra tất cả các công nghệ cần thiết một cách kinh tế, do
đó cần cân nhắc giữa mua và làm. Hơn nữa, sự phát triển không đồng đều giữa các
quốc gia trên thế giới về công nghệ, nhiều nước không có khả năng tạo ra công
nghệ mình cần, buộc phải mua công nghệ.
Việt Nam là một quốc gia có điểm xuất
phát thấp về khoa học và công nghệ và
đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, việc nhập công nghệ từ các nước
phát triển để tận dụng ưu thế của nước đi sau, tiếp cận ngay được những công
nghệ tiên tiến để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
là tất yếu. Vì vậy, có thể nói rằng: ‘một trong những mục tiêu quan trọng
của thu hút ĐTNN là chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI’.
Chuyển
giao công nghệ (CGCN) được coi như một tất yếu khách quan và là quy luật phát
triển của nền kinh tế thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ, hoạt động CGCN ngày càng trở lên phong phú và đa dạng hơn.
1.
Một số khái niệm chung về
chuyển giao công nghệ
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về. Theo quan niệm của nhiều quốc gia và
tổ chức quốc tế: CGCN là chuyển giao và nhận công nghệ qua biên giới. Điều đó
có nghĩa công nghệ được chuyển và nhận thông qua con đường thương mại quốc tế,
qua các dự án đầu tư nước ngoài hoặc qua chuyển và nhận tự giác hay không tự
giác (học tập, hội thảo khoa học, tình báo kinh tế, công nghiệp,…).
Theo Luật CGCN, năm 2006: “CGCN là
chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ
bên có quyền CGCN sang bên nhận công nghệ. CGCN có thể tại Việt Nam, từ nước
ngoài vào Việt Nam hoặc từ Việt Nam ra nước ngoài”
Đối tượng công nghệ được chuyển giao có
thể là một phần hoặc toàn bộ công nghệ, bao gồm: ‘Các bí quyết kỹ thuật;
Kiến thức kỹ thuật về công nghệ được chuyển giao dưới dạng phương án công nghệ,
quy trình công nghệ, giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ,
sơ đồ kỹ thuật, chương trình máy tính, thông tin dữ liệu về công nghệ chuyển
giao; Giải pháp hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ. Đối tượng công nghệ được
chuyển giao có thể gắn hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp’.
Các cấp độ và phạm vi CGCN
– Trao kiến thức: Việc chuyển
giao chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt, hướng dẫn, huấn luyện, tư vấn các kiến
thức về công nghệ được chuyển giao.
–
Chìa khóa trao tay: Bên CGCN chỉ cam kết CGCN vận hành được cho bên nhận chuyển
giao sử dụng. Cấp độ này có thể gây rủi ro cho bên nhận CGCN, bởi vì rất có thể
công nghệ được chuyển giao chỉ vận hành được khi có mặt bên chuyển giao, sau
khi chìa khóa đã trao tay rồi thì công nghệ đó lại không vận hành được.
– Sản phẩm trao tay: Bên CGCN cam kết CGCN vận hành được
cho bên nhận chuyển giao sử dụng và đảm bảo rằng có loạt sản phẩm được sản xuất
bằng cách áp dụng công nghệ đó, cấp độ chuyển giao này có ít rủi ro cho bên nhận
chuyển giao hơn so với cấp độ chìa khóa trao tay.
– Thị trường trao tay: Bên CGCN cam kết
CGCN vận hành được cho bên nhận chuyển giao sử dụng và đảm bảo rằng có loạt sản
phẩm hàng hóa được sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ đó, đồng thời đảm bảo
có thị trường tiêu thụ sản phẩm đó, cấp độ chuyển giao này ít có rủi ro cho bên
nhận chuyển giao. Trách nhiệm của bên chuyển giao như vừa nêu đã hạn chế khả
năng CGCN cho thêm một/những chủ thể khác ngoài chủ thể nhận CGCN ghi trong hợp
đồng chuyển giao, nhưng sẽ không có thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa do áp
dụng công nghệ được chuyển giao, nếu bên nhận chuyển giao thực hiện các hành vi
như đã phân tích ở trên
Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công
nghệ do các bên thỏa thuận, bao gồm:
– Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;
– Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền
sử dụng công nghệ cho bên thứ ba;
– Lĩnh vực sử dụng công nghệ;
– Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin
cải tiến công nghệ;
– Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do
công nghệ được chuyển giao tạo ra.
– Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển
giao tạo ra.
2. Tác động của chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI
2.1. Vai trò của CGCN qua FDI
– Đối với tất
cả các nước đang phát triển, FDI là nguồn lực quan trọng để phát triển khả năng
công nghệ. Vai trò này được thể hiện ở hai khía cạnh chính là chuyển giao công
nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và nghiên cứu, cải tiến phát triển công nghệ thích nghi, phù hợp với điều kiện thực tế,
tăng khả năng công nghệ. Đây là mục tiêu quan trọng mà nước tiếp nhận FDI mong
đợi từ các nhà ĐTNN.
– Các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp FDI tạo
ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu,
ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó, sẽ gián tiếp tăng cường năng lực nghiên
cứu, phát triển công nghệ (R&D) của địa phương.
– Mặt khác,
trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài được chuyển giao, các nhà đầu
tư trong nước có cơ hội nghiên cứu, phát triển công nghệ thông qua việc học được
cách thiết kế, chế tạo, tiếp thu được công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù
hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành những công nghệ của
mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với phát
triển công nghệ ở nước chủ nhà.
2.2. Một số vấn đề lưu ý trong chuyển giao công nghệ qua FDI
– Bên cạnh những tác động tích cực, chuyển giao công nghệ qua đầu
tư nước ngoài cũng đặt ra nhiều vấn đề cho nước chủ nhà, trong đó nổi bật là: công nghệ cũ, công nghệ không phù hợp với điều
kiện của các nước đang phát triển, gây ô nhiễm môi trường, hiện tượng chuyển
giá lách thuế,…
– Công nghệ cũ thường giá rẻ, sử dụng nhiều lao động và dễ sử dụng. Mặt
khác, các công nghệ này lại kém sức cạnh tranh, năng suất thấp và gây ô nhiễm
môi trường. Rất nhiều công nghệ chuyển giao vào các nước đang phát triển qua FDI
là không phù hợp. Bởi vì, các công nghệ này được sản xuất ở các nước phát triển,
với các đặc điểm: tiết kiệm lao động, nhiều vốn, yêu cầu trình độ tay nghề cao,
sử dụng nguồn nguyên liệu được chuẩn hoá…, trong khi các nước đang phát triển
lại không đáp ứng được các yêu cầu này. Hơn nữa, sự khác biệt về điều kiện khí
hậu là yếu tố làm hao mòn nhanh chóng thiết
bị công nghệ và khó sử dụng ở nước tiếp
nhận công nghệ. Ngoài ra, khả năng hạn chế về cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và
phụ tùng thay thế ở các nước đang phát triển cũng là những khó khăn trong tiếp
nhận công nghệ nước ngoài. Các đặc điểm này đã làm giảm hiệu quả sử dụng công
nghệ.
– Cũng từ đặc điểm các nhà ĐTNN đến
từ các nước phát triển, do yêu cầu chặt chẽ trong các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
ở các nước phát triển, các họ đã chuyển nhiều công nghệ gây ô nhiễm môi trường
cao sang khai thác ở các nước đang phát triển. Mặt khác, các dự án FDI chủ yếu
trong các lĩnh vực công nghiệp sản xuất hoặc khai thác tài nguyên. Vì thế mặc
dù các chủ dự án FDI và các cơ quan hữu trách của nước chủ nhà tăng cường các
biện pháp bảo vệ môi trường nhưng cũng không loại bỏ được tình trạng ô nhiễm môi
trường nước chủ nhà. Đây là vấn đề khá phổ biến ở các nước đang phát triển.
– Giá cả công nghệ cao hơn giá thực tế là hiện tượng phổ biến trong các
hợp đồng chuyển giao công nghệ vào các nước đang phát triển. Do các nước này bị
hạn chế về vốn, trình độ hiểu biết, kinh nghiệm đàm phán, … nên các nhà ĐTNN thường
tính giá công nghệ cao hơn giá thị trường.
– Các dự án FDI lớn thường được thực hiện chủ yếu bởi các công
ty xuyên quốc gia (TNCs). Đây là nguồn lực luôn được các nước đang phát triển
quan tâm và có nhiều ưu đãi ưu tiên thu hút đầu tư.
– Tuy nhiên, các TNCs rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới,
có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật
hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ
của các công ty nước chủ nhà. Mặc dù, lý do mà các TNCs thường đưa ra, không CGCN
mới là do nước chủ nhà còn chưa đáp ứng được các yêu cầu sử dụng công nghệ của
các TNCs.
– Bên cạnh chuyển giao các công nghệ sẵn có, các TNCs cũng đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển (R&D) tại nước chủ nhà. Tuy nhiên, phần lớn các hoạt
động R&D của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù
hợp với điều kiện sử dụng của địa phương.
3. Đánh giá
chung về chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
thời gian qua.
Thời gian qua FDI đã góp
phần thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, từng bước nâng cao năng lực sản
xuất của một số ngành trong nước. Thông qua FDI, trình độ công nghệ sản xuất
trong nước đã được nâng cao một cách rõ rệt so với thời kỳ trước đây. Một số
ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến với trình độ hiện đại của thế giới
như: bưu chính – viễn thông, dầu khí, xây dựng, cầu đường…
Đồng thời, nhiều doanh nghiệp trong nước đã đổi mới hoặc nâng cấp
các trang thiết bị đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền kinh tế.
Cũng từ việc thu hút được nhiều công nghệ mới, tiên tiến mà Việt Nam đã sản xuất
ra được nhiều sản phẩm mới mà trước đây trong nước chưa có. Việc chuyển giao
công nghệ từ nước ngoài thông qua FDI đã hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu
nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực: dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng mới,
hàng điện tử gia dụng, phương tiện giao thông…
Các doanh nghiệp FDI đã tạo
ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, với hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài như
các sản phẩm điện tử, cơ khí, chế tạo…
Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua đã diễn ra ngày càng đa dạng và phong phú. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta nhất là trong các lĩnh vực dầu khí, điện tử, viễn thông, ôtô xe máy… Nhiều ngành nghề, sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ hiện đại, chất lượng tạo tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng kể năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả.
Đi liền với chuyển giao công nghệ là quá trình tiếp
nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới và đào tạo được đội ngũ lao động
có trình độ cao, có khả năng sử dụng được các công nghệ hiện đại. Ngoài ra,
chuyển giao công nghệ còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, năng
lực công nghệ trong nước được nâng cao.
Những thành tựu đạt được nêu trên đã khẳng định chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước đối với thu hút FDI, cũng như chính sách khuyến khích, thu
hút công nghệ của nước ngoài để đổi mới công nghệ, góp phần nâng cao năng lực
công nghệ quốc gia.
4
. Một số vấn đề tồn tại trong CGCN qua các dự án FDI
Tuy
nhiên, CGCN qua các dự án FDI vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, chưa đáp ứng yêu
cầu của quá trình phát triển kinh tế, giá trị gia tăng không cao, lợi nhuận thu
về ít. Tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế còn yếu kém do
hầu hết các công nghệ sử dụng trong FDI là các công nghệ đã và đang được sử
dụng phổ biến ở bản quốc.
Việc
tiếp thu học hỏi công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý của cán bộ Việt Nam
trong quá trình hợp tác với nước ngoài chưa đạt được kết quả đáng kể. Đặc biệt
là việc tiếp thu, khai thác ứng dụng công nghệ hầu như chỉ được trong phạm vi
của các dự án FDI, việc đầu tư R&D thực hiện rất hạn chế, nhiều dự án chỉ
cam kết khi thẩm định hồ sơ xin cấp Giấy chứng hận đầu tư, nhưng khi triển khai
thì không thực hiện đúng như cam kết.
Tuy hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI đã có đóng
góp tích cực đối với đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực công
nghệ của các doanh nghiệp, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và
nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế. Hoạt động
chuyển giao công nghệ vẫn còn có một số tồn tại cần sớm khắc phục như: Định hướng
thu hút công nghệ cao, công nghệ khuyến khích đầu tư chưa đạt mục tiêu đặt ra;
mặc dù công nghệ đưa vào qua kênh này hầu hết có trình độ bằng hoặc cao hơn
công nghệ sẵn có ở Việt Nam một chút, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc
trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực.
Những công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI thường là công
nghệ được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư, mà thường không phải theo nhu cầu
đổi mới công nghệ do phía Việt Nam chủ động đưa ra. Công nghệ
thích hợp là công nghệ cho phép người sử dụng nó khai thác tối đa những lợi thế
so sánh của nền kinh tế trong nước và đưa lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao,
phù hợp với khả năng và trình độ phát triển của quốc gia trong từng thời kỳ nhất
định. Đối với một dự án cụ thể, khi lựa chọn công nghệ thích hợp buộc các nhà đầu
tư phải cân nhắc đến tình hình lao động cho dự
án, tình hình thị trường (nhu cầu, cung ứng và cạnh tranh) của dự án, khả năng
về vốn của các chủ đầu tư và các nguồn cung ứng đầu vào sẵn có…
Hiện
nay công tác lựa chọn công nghệ của Việt Nam còn rất yếu kém. Các doanh nghiệp
thực hiện chuyển giao công nghệ do nhu cầu của thị trường chứ không phải do chủ
động kế hoạch. Hơn nữa, những công nghệ được chuyển giao phần lớn là do phía nước
ngoài tự giới thiệu chứ không phải tự các doanh nghiệp của ta tìm kiếm hoặc tự
nghiên cứu, thiết kế. Do vậy các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam trong thời
gian qua còn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
Nếu
không chủ động hơn trong việc lựa chọn công nghệ thì chúng ta không thể có được
những công nghệ đem lại lợi ích cao và đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước.
Ngoài ra, hoạt động R&D
(nghiên cứu và triển khai) ở các doanh nghiệp FDI mới chỉ ở những công nghệ nhỏ,
đơn giản hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Nhìn chung, việc khai thác, học hỏi công nghệ thông qua FDI chưa đạt được kết
quả như mong muốn.
Kết luận:
Việt Nam đã xác định thu hút FDI vào lĩnh vực công nghệ cao là ưu
tiên hàng đầu trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, theo chiến lược đầu tư theo
chiều sâu, công nghệ hiện đại, tiên tiến với năng suất và chuỗi giá trị gia
tăng cao. Do vậy, để khắc phục được những tồn tại cũng như thực hiện được mục
tiêu hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, cần tập trung vào các giải pháp như:
Hoàn
thiện môi trường đầu tư nhằm khuyến khích doanh nghiệp FDI đầu tư vào khoa học
công nghệ. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến đầu tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với
môi trường và phát triển bền vững.
Khuyến khích nghiên cứu phát triển, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật trong
quá trình sử dụng công nghệ. Hỗ trợ thành lập các tổ chức R&D trong doanh
nghiệp.
Chủ
động lựa chọn những công nghệ phù hợp. Mặt khác, các
doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị điều kiện để có thể tiếp nhận và phát huy việc
nâng cao trình độ công nghệ khi tiếp cận với dự án FDI…
Đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo nhân lực kỹ
thuật công nghệ cao, đào tạo nhân lực cho
nghiên cứu và phát triển công nghệ cao.