ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, TRỰC TIẾP PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI – Tin tức, đọc báo, sự kiện
21/10/2015 |2888
Nghị định 108/2012/NĐ-CP ngày 25/12/2012 của Chính phủ quy định Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ; cung cấp luận cứ khoa học cho công tác quản lý khoa học, công nghệ và xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao theo quy định của pháp luật và thực hiện nhiệm vụ là trung tâm khoa học và công nghệ hàng đầu của đất nước. Hiện nay, Viện Hàn lâm có hơn 4000 cán bộ, viên chức, trong đó có 2419 là biên chế, gần 200 là Giáo sư và Phó Giáo sư, hơn 700 Tiến sỹ khoa học và Tiến sỹ, 846 Thạc sỹ,… làm việc trong 33 Viện nghiên cứu chuyên ngành và 01 Học viện sau đại học. Đảng bộ Viện Hàn lâm có gần 1200 đảng viên sinh hoạt trong 50 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc.
Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là Đảng ủy sự nghiệp Trung ương trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, lãnh đạo toàn diện việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng, xây dựng đơn vị và công tác quần chúng của Viện Hàn lâm; tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương những chủ trương, nội dung công tác quan trọng của đơn vị theo sự phân công, phân cấp quản lý; lãnh đạo các tổ chức đảng trực thuộc phát huy vai trò hạt nhân chính trị; lãnh đạo cán bộ, đảng viên chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng chính quyền và các đoàn thể trong cơ quan, đơn vị. Trong nhiệm kỳ qua, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích có ý nghĩa, mà ở mỗi thành tích đó có thể thấy dấu ấn rõ ràng về vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và của lực lượng cán bộ chủ chốt là đảng viên.
Với sự cố gắng nỗ lực của toàn Đảng bộ, nhiệm kỳ qua Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, góp phần đưa nhanh chủ trương, đường lối, chính sách phát triển khoa học công nghệ của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Trong các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, bên cạnh truyền thống nghiên cứu khoa học cơ bản, điều tra cơ bản và đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, tạo được uy tín khoa học trong khu vực và quốc tế, Đảng uỷ Viện Hàn lâm đã nhận thức sâu sắc ý nghĩa và sự cần thiết của các nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho sản xuất phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và góp phần đảm bảo an ninh – quốc phòng; từ đó đã chú trọng và chủ động công tác lãnh đạo toàn Đảng bộ, động viên các cán bộ khoa học công nghệ chủ chốt, các tập thể khoa học công nghệ triển khai mạnh mẽ các hoạt động liên quan, cụ thể:
Thứ nhất, đẩy mạnh các nghiên cứu phát triển công nghệ, hợp tác ứng dụng, chuyển giao công nghệ ở các bộ, ngành, địa phương.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối cơ quan Trung ương, Đảng ủy và Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã quan tâm chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu, các cơ quan chức năng chú trọng, thúc đẩy công tác nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm gắn kết giữa khoa học công nghệ với sản xuất, đời sống, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Hằng năm, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam triển khai thực hiện hàng trăm nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo các khối chính sau đây: (1) các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao trực tiếp, (2) các đề tài nghiên cứu, các dự án sản xuất thử nghiệm cấp Nhà nước, các dự án hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ theo Nghị định thư cấp Nhà nước, các dự án điều tra cơ bản, các nhiệm vụ bảo vệ môi trường, các chương trình mục tiêu quốc gia như Nước sạch – Vệ sinh môi trường nông thôn, Biển Đông – Hải đảo; (3) các đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp Viện Hàn lâm. Với thế mạnh có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ hoạt động trong các hướng công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, điện tử và cơ điện tử, công nghệ hoá học, công nghệ tách chiết các chất có hoạt tính sinh học từ thiên nhiên,… Viện Hàn lâm đã triển khai ứng dụng công nghệ đạt kết quả cao, ví dụ như:
+ Theo hướng Công nghệ sinh học, y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: (i) Công nghệ tạo giống lợn rừng Tây Nguyên; (ii) Công nghệ thụ tinh nhân tạo cho sinh sản chó Berger nghiệp vụ chất lượng cao phục vụ công tác an ninh – quốc phòng; (iii) Công nghệ sản xuất thực phẩm chức năng Fucoidan từ rong nâu Việt Nam với công dụng nâng cao khả năng miễn dịch và hỗ trợ điều trị các bệnh ung thư, Curmanano là nguyên liệu để sản xuất CumarGold của Việt Nam, công nghệ tinh chế phytosterol đậu tương dùng làm thực phẩm chức năng cao cấp An mạch vương có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu,…
+ Theo hướng công nghệ vật liệu: (i) Công nghệ sản xuất sắt xốp/thép từ bùn đỏ bã thải của quá trình sản xuất alumin, dây chuyền công nghệ chế biến 200 tấn/mẻ đã được ký Hợp đồng chuyển giao cho sản xuất công nghiệp; (ii) Công nghệ sản xuất hợp kim chịu mài mòn sử dụng trong sản xuất thân bơm, đã ký Hợp đồng chuyển giao cho công nghiệp; (iii) Công nghệ chế biến quặng đồng-sulfua thành đồng sạch và đồng-sulphát; (iv) Công nghệ chế biến sericite cho ứng dụng trong ngành gốm sứ cao cấp; (v) Dịch vụ đánh giá hư hỏng vật liệu và tư vấn bảo trì trang thiết bị công nghiệp, giúp cho phòng tránh những sự cố công nghiệp nguy hiểm. Một ví dụ sống động về sự thành công của doanh nghiệp có tiền thân được thành lập từ Viện Khoa học Việt Nam và người lãnh đạo tài ba vốn là cán bộ khoa học (vật lý) là DOJI, doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam hiện nay.
+ Công nghệ chế tạo thiết bị chuyên dụng: (i) Công nghệ chế tạo phổ kế huỳnh quang tia X; (ii) Công nghệ chiếu sáng hiệu suất cao sử dụng LED; (iii) Máy lọc máu trong điều trị thận tại Việt Nam, (iv) thiết bị khử trùng y tế; (v) Công nghệ chế tạo các module laser diode công suất và thiết bị dùng trong điều trị bỏng, bệnh viêm khớp và viêm nhiễm.
+ Trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng: (i) các thiết bị laze quang học dùng trong vũ khí, khí tài trên cạn và dưới nước; (ii) hợp kim cứng tỉ trọng cao để chế tạo đạn xuyên tăng; (iii) vật liệu và công nghệ bảo vệ chống ăn mòn tích cực cho các tàu chiến, cầu cảng,… là những công nghệ thay thế nhập khẩu, được ứng dụng ngay, giúp cho chủ động và tiết kiệm rất nhiều ngân sách.
+ Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: (i) thiết bị, vật liệu mới được nghiên cứu ứng dụng trong các lò đốt rác, hệ thống xử lý nước thải y tế, thiết bị sản xuất nước hoạt hóa trong xử lý môi trường; (ii) chế phẩm xử lý môi trường sau khai thác khoáng sản có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình phân huỷ chất thải hữu cơ; (iii) thiết bị và vật liệu trong xử lý nước bị nhiễm asen,…
+ Trong lĩnh vực nông nghiệp: triển khai mạnh mẽ những ứng dụng và chuyển giao công nghệ phân bón nhả chậm, polyme giữ nước; đang phối hợp với Công ty CP bóng đèn phích nước Rạng Đông triển khai nghiên cứu hệ thống chiếu sáng bằng đèn LED công suất cao phục vụ đánh bắt hải sản nhằm tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất khai thác nguồn lợi từ biển.
Các công nghệ của Viện Hàn lâm được đảm bảo bằng các Bằng phát minh sáng chế, bằng đội ngũ chuyên gia giỏi chuyên môn, nhiệt tình và luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ.
Kết quả triển khai các chuyển giao công nghệ cho thực tế sản xuất còn được thể hiện bằng giá trị thực hiện các hợp đồng kinh tế – kỹ thuật hằng năm của Viện Hàn lâm, khoảng gần 200 tỷ đồng.
Đối với những nhiệm vụ ứng dụng quan trọng, quy mô lớn, Viện Hàn lâm đã chủ động đặt hàng các nhà khoa học đầu ngành đảm nhận lãnh đạo và huy động nhiều nhà khoa học trình độ cao, tích hợp nhiều lĩnh vực hoặc có tính đặc thù chỉ có thể thực hiện tại Viện Hàn lâm (các nhiệm vụ như chụp ảnh vệ tinh các vị trí trên toàn thế giới phục vụ an ninh quốc phòng, chế tạo máy bay không người lái, phổ kế gắn trên thiết bị bay; tách chiết các hoạt chất quý hiếm từ nguyên liệu của Việt Nam,..).
Một số ví dụ nêu trên cho thấy giá trị của khoa học công nghệ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và an ninh – quốc phòng, là minh chứng sinh động cho tư tưởng lãnh đạo của Đảng bộ Viện Hàn lâm “gắn khoa học và công nghệ với sản xuất và đời sống” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ và các chương trình hành động của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Trong nhiệm kỳ qua, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với nhiều ngành và địa phương trong cả nước. Năm 2015, Viện đã mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với 40 tỉnh, thành phố và nhiều đơn vị khác. Các đề tài nghiên cứu được xây dựng trên những yêu cầu cụ thể, thực tế của các bộ, ngành, địa phương và được thực hiện bởi các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học của Viện Hàn lâm. Từ việc xây dựng các đề tài hợp tác với địa phương, các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ đã được ứng dụng trực tiếp vào phát triển kinh tế – xã hội của các ngành, địa phương; nhiều kết quả khoa học công nghệ đã được các địa phương đánh giá cao và được trưng bày giới thiệu tại các hội chợ Công nghệ toàn quốc hoặc được chuyển giao ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống thông qua các dự án sản xuất thử – thử nghiệm và các hợp đồng kinh tế, dịch vụ khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, Viện đã tham gia nhiều Techmart Quốc gia; Techmart vùng và Techmart chuyên ngành. Thông qua các hoạt động này, nhiều kết quả khoa học công nghệ của Viện Hàn lâm đã được chuyển giao thông qua các hợp đồng ký kết tại các Techmart.
Thứ hai, tích cực chuyển giao các công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam.
Bên cạnh việc lãnh đạo đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển công nghệ nội sinh, Đảng uỷ và Lãnh đạo Viện Hàn lâm cũng đã chủ động đề xuất thực hiện một số nhiệm vụ lớn có yếu tố quốc tế. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Đảng ủy luôn quan tâm coi trọng công tác hợp tác quốc tế, coi đây là yếu tố không thể thiếu nhằm thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ, bắt kịp với trình độ khoa học công nghệ của khu vực và thế giới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời gian qua, công tác hợp tác quốc tế của Viện đã có nhiều chuyển biến tích cực, hỗ trợ thu hút được nhiều nguồn viện trợ từ nước ngoài, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, mở rộng quy mô, đối tác, nội dung và hình thức hợp tác. Tham luận này trình bày một số ví dụ về phát triển công nghệ vũ trụ, vệ tinh ở Viện Hàn lâm.
Thực hiện “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 137/2006/QĐ-TT ngày 14/6/2006. Hàng loạt dự án về khoa học công nghệ được tiếp nhận như: (i) hợp tác với Nhật Bản để xây dựng Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc; (ii) hợp tác với Ý để xây dựng Đài thiên văn Hòn Chồng, Nha Trang; (iii) hợp tác với Pháp để phóng vệ tinh VnREDSat-1 nhằm xây dựng hệ thống vệ tinh và trạm mặt đất của Viện Hàn lâm. Các hoạt động về khoa học công nghệ vũ trụ đã tạo nền tảng quan trọng cho các ứng dụng của công nghệ vũ trụ tại Việt Nam, phục vụ đắc lực cho các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, dự báo thời tiết, giám sát tài nguyên môi trường và các hoạt động quản lý của Nhà nước, công tác an ninh – quốc phòng của đất nước. Cùng với sự hình thành nền khoa học công nghệ vũ trụ, chúng ta đào tạo được đội ngũ cán bộ về công nghệ vệ tinh, thiết bị bay,… phục vụ cho việc phát triển công nghệ vũ trụ, vệ tinh và các lĩnh vực liên quan của Việt Nam.
Thứ ba, triển khai các chương trình khoa học công nghệ, Dự án, Đề tài trọng điểm cấp Nhà nước.
Trong thời gian qua, Đảng uỷ Viện Hàn lâm đã chủ động chỉ đạo xây dựng một số Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm và Dự án cấp Nhà nước, cụ thể: (i) Chương trình Tây Nguyên 3 (2012-2015) nhằm phục vụ phát triển bền vững kinh tế – xã hội khu vực Tây Nguyên. Các đề tài thuộc Chương trình đã giải quyết những vấn đề thiết thực liên quan tới đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, tới thổ nhưỡng khí hậu đặc thù và tương tác, ảnh hưởng của Tây Nguyên tới các vùng xung quanh; (ii) Chương trình Khoa học công nghệ vũ trụ (2013-2015) với các đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho các ứng dụng của công nghệ vũ trụ tại Việt Nam, phát triển một số công nghệ và thiết bị phục vụ các ứng dụng đa dạng trên cơ sở công nghệ vũ trụ. Trong mấy năm triển khai thực hiện, hai Chương trình trên đã thu được nhiều kết quả khoa học công nghệ có giá trị, được Nhà nước đánh giá cao và có chủ trương tiếp tục thực hiện.
Một số dự án cấp Quốc gia đã được Đảng uỷ Viện Hàn lâm chỉ đạo xây dựng, đã được triển khai thực hiện: (i) Dự án Quy hoạch tổng thể Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam. Với một cấu phần nhỏ của Dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng là Phòng Trưng bày tiến hoá sinh giới đã cho thấy sức thu hút học sinh, sinh viên tham quan, tạo hứng khởi cho giới trẻ học về khoa học công nghệ. Các cấu phần khác của Dự án đang được triển khai theo tiến độ. (ii) Quy chế báo tin động đất và cảnh báo sóng thần được triển khai thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nhằm xây dựng Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần và mạng lưới đài trạm địa chấn quốc gia, kịp thời ghi nhận và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng các trận động đất có cường độ lớn hơn 2,5 độ Richte trên lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam. (iii) Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển đến 2010, tầm nhìn đến 2020 đã phối hợp với các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ về Hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước trong điều tra khảo sát hỗn hợp về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tại khu vực Biển Đông (Dự án 19, đề án 47). Dự án đã tổng kết các loại hình tai biến tự nhiên, đề xuất các giải pháp phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai và bảo vệ chủ quyền khu vực quần đảo Trường Sa; thiết lập mạng lưới Hợp tác quốc tế với nhiều cơ quan nghiên cứu về Biển của quốc tế; xây dựng các tập bản đồ Atlas điện tử về Biển Đông; xuất bản tập bản đồ “Điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường vùng biển Việt Nam và kế cận” – là bộ tài liệu quý đối với các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các ngành như dầu khí, vận tải biển,…
Trong nhiệm kỳ qua, ngoài việc chủ trì một số Chương trình khoa học công nghệ, Dự án trọng điểm Quốc gia, Đảng uỷ và Lãnh đạo Viện Hàn lâm còn chủ trương tập trung xây dựng các nhiệm vụ lớn, trọng điểm của Viện Hàn lâm, tạo cơ sở để xây dựng các Dự án Quốc gia trong tương lai gần. Các đề tài trọng điểm này đều gắn trực tiếp với sản xuất và an ninh – quốc phòng. Hai ví dụ thuyết phục là nhiệm vụ trọng điểm về (i) Dược liệu biển và (ii) Vật liệu ứng dụng trong an ninh-quốc phòng đang được triển khai đạt kết quả rất triển vọng nhằm tạo ra những sản phẩm chủ lực, phát huy được lợi thế khoa học công nghệ đa ngành của Viện Hàn lâm.
Cuối cùng, có thể thấy những kết quả đạt được trong nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ của Viện trong những năm qua chính là hệ quả tích cực của việc lãnh đạo triển khai các chương trình hành động, kế hoạch công tác của Đảng bộ và các tổ chức đảng trực thuộc. Kết quả đạt được là sự chuyển biến tự nhiên từ nhận thức sâu sắc thành hành động thiết thực. Những kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đã có được, còn đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện,.. luôn mang dấu ấn của sự chỉ đạo sát sao theo một tư tưởng nhất quán của Đảng uỷ Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam về ý nghĩa và sự cần thiết của các nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho sản xuất phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và góp phần đảm bảo an ninh – quốc phòng. Tư tưởng lãnh đạo “Phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo động lực phát triển mới trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, phát triển và ứng dụng công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế” và sự chú trọng đặc biệt công tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ phục vụ đời sống chắc chắn sẽ có kết quả ngày càng to lớn hơn, sẽ tạo được niềm tin vững chắc hơn của xã hội đối với khoa học công nghệ; và khoa học công nghệ hy vọng sẽ nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ hơn từ các cơ quan lãnh đạo/quản lý của Đảng và Nhà nước để có thể hoạt động hiệu quả hơn, đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo an ninh-quốc phòng của đất nước./.
Còn tiếp…
Ban Biên tập