Cuộc sống người Việt tại Đức

Nếu như người Do Thái trước đây phải lưu lạc vì không có Tổ Quốc thì người Việt Nam ngày hôm nay, chua xót thay, vẫn có Tổ Quốc nhưng lại tìm mọi cách để ra đi, đánh đổi tất cả hòng mong có một cuộc sống đầy đủ hơn cả về vật chất lẫn tinh thần cho mình và cho các thế hệ sau.

Người Việt ở Đức

Con đường ra đi của họ và
cuộc sống của những người lao động và người tị nạn Việt Nam trên
đất khách có trăm ngàn nỗi cay đắng, không thiếu những giọt nước
mắt, máu và nhiều khi cả cái chết nữa.

Tại Đức, số người Việt
Nam hiện đang sinh sống tại đây có thể tạm chia làm 3 lớp người khác
nhau. Lớp người thứ nhất là những thuyền nhân, ra đi bằng con đường
vượt biên sau năm 1975.

Lớp người này cho đến nay
có khoảng 40 ngàn người, hầu hết định cư ở Tây Đức cũ, nhìn chung
có đời sống ổn định và con cái của họ đa số học hành giỏi, tương
đối thành đạt do được sinh ra và lớn lên ở Đức.

Thế hệ thứ hai này được
chính phủ Đức đánh giá là một ví dụ tốt đẹp cho sự hội nhập với
xã hội, văn hoá Đức hơn cả cộng đồng Ba Lan hay Thổ Nhĩ Kỳ.

Con đường ra đi của họ và
cuộc sống của những người lao động và người tị nạn Việt Nam trên
đất khách có trăm ngàn nỗi cay đắng, không thiếu những giọt nước
mắt, máu và nhiều khi cả cái chết nữa.

Lớp người thứ hai là
những người từ phía Bắc và Trung Việt Nam đi lao động xuất khẩu tại
Đông Đức từ thời Đông Đức còn là một nước xã hội chủ nghĩa, tức
là từ những năm 60 cho đến trước những năm 90.

Trước năm 1990 lớp người
này lên đến khoảng 60 ngàn người. Từ sau khi Đông Đức sụp đổ, các
nhà máy giải thể và cơ cấu kinh tế chuyển đổi, các nhà máy mới
lại chỉ nhận người Đức hoặc biết tiếng Đức, có trình độ văn hoá
tương đối nên những người công nhân Việt Nam này không còn làm việc
trong các nhà máy như trước nữa, họ trở về lại Việt Nam hoặc chạy
sang Tây Đức và các nước khác.

Số người ở lại còn
khoảng 20 ngàn người chuyển sang kinh doanh, buôn bán lẻ các mặt hàng
như quần áo, thực phẩm, mở nhà hàng ăn uống, làm dịch vụ các loại
cho người Việt Nam. Ở Berlin hiện nay có khu chợ Đồng Xuân của người
Việt rất lớn, bán đủ các loại mặt hàng từ quần áo, giày dép túi
xách…đa số là hàng của Trung Quốc, mẫu mã, chất lượng và giá cả
dành cho người bình dân.

Cho đến nay thì những
người thuộc lớp thứ hai cũng đã có giấy tờ và cuộc sống ổn định,
nhìn chung số người trí thức hoặc hội nhập tốt vào xã hội Đức rât
ít, hầu hết là buôn bán nhỏ, sống loanh quanh trong cộng đồng với
nhau, rất chăm chỉ kiếm tiền và cũng như lớp người thứ nhất, họ dồn
tất cả tiền bạc vào việc đầu tư cho tương lai của con cái.

Lớp người thứ ba là
những người qua Đức từ sau năm 1990, ra đi bằng đủ mọi con đường khác
nhau nhưng đa số cho đến nay vẫn chưa có giấy tờ hợp pháp. Số người
này cũng đã lên đến khoảng 40 ngàn người. Vì không có giấy tờ, không
được phép đi làm chính thức nên cuộc sống nhiểu bất ổn, một số bị
trục xuất về nước.

Những người còn trụ lại
phải tìm mọi cách để hợp pháp hoá giấy tờ và vì cuộc sống bấp
bênh nên tỷ lệ tội phạm trong lớp người thứ ba khá cao. Trước năm 2000
chủ yếu là tội buôn lậu thuốc lá và sau này là tội đưa người trái
phép từ Việt Nam sang.

Vào những năm 94, 95 ở khu
vực Đông Đức xảy ra nhiều vụ án người Việt giết nhau vì tranh giành
mối thuốc, tranh giành khu vực…có vụ cả 9 người bị giết cùng lúc. Số
người phải vào tù giai đoạn nhiều nhất lên đến khoảng 200 người, còn
hiện nay có khoảng 150 người đang phải thụ án. Chính lớp người này
đã gây ra cái nhìn không thiện cảm của người Đức, làm ảnh hưởng đến
cả cộng đồng người Việt ở Đức.

Chị Nguyễn Los Hoài Thu
sống tại Đông Berlin là một người phụ nữ Việt Nam khá là đặc biệt.
Được sự cho phép và hỗ trợ của chính phủ Đức tại Berlin, chị mở
một “Tổ chức
tư vấn và đào tạo cho phụ nữ Việt Nam” gọi tắt là vinaphunu. Tổ chức
này đã tồn tại được 19 năm nay.

Văn Phòng “Tổ chức tư vấn và đào tạo cho phụ nữ Việt Nam” gọi tắt là vinaphunu
Văn Phòng “Tổ chức tư vấn và đào tạo cho phụ nữ Việt Nam” gọi tắt là vinaphunu
Photo by Nhật Hiên,RFA

Tại đây có khá nhiều sinh
hoạt dành cho phụ nữ Việt Nam, họ có thể đến xin tư vấn về luật
pháp, giấy tờ, sức khoẻ, công ăn việc làm cũng như tư vấn về tâm lý,
gia đình…

Có những lớp dạy tiếng
Đức dành cho người mới bắt đầu và nâng cao hơn, lớp học nữ công gia
chánh, có tủ sách tiếng Việt khoảng 5000 cuốn đủ loại từ truyện
kiếm hiệp Trung Hoa cho đến văn học cổ điển Việt Nam và nước ngoài, các
loại báo, tạp chí, DVD phim ca nhạc, phim truyện…, có những buổi sinh
hoạt ngoài trời dành cho các bà mẹ và những đứa trẻ con của họ.

Đến với ngôi nhà này,
những người phụ nữ Việt Nam sống tha hương có cảm giác như đang sống
giữa nhà mình tại Việt Nam, có thể ngồi uống ly nước vối, ăn những
món ăn thuần Việt và kể chuyện, tâm tình với nhau về hoàn cảnh,
cuộc sống gia đình của mình.

Nhiều vấn đề

Nhiều năm gắn bó với
người Việt Nam tại Đức nói chung và người phụ nữ Việt Nam tại Đức
nói riêng, đồng thời là một trong rất ít người Việt từng đi phiên dịch cho
những phạm nhân trong tù từ 15 năm qua, chị Hoài Thu biết khá nhiều số
phận cay đắng. Rất nhiều người trong số họ phải trải qua những bi
kịch khác nhau trong cuộc sống tha hương trên xứ người, kể cả vào tù
vì các tội buôn lậu, đưa người trái phép sang Đức như đã kể ở trên.

Trên những bức tường trong
ngôi nhà còn có cả những bức thư tâm tình của những phạm nhân gửi cho
chị Hoài Thu. Vì tất cả những nỗ lực này, chị đã từng nhận được
giải thưởng người phụ nữ của thành phố Berlin do chính quyền Đức tại
thành phố này trao tặng.

Cuộc sống vất vả, bi
kịch cũng nhiều nhưng theo chị, không thấy ai tâm thần cả. Điều đó chứng tỏ ý
chí, sức sống, khả năng sống để tồn tại, vươn lên của người Việt thật là mạnh mẽ. 

Nhận xét về cộng đồng người
Việt tại Đức, theo chị Hoài Thu: “Thế hệ thứ nhất chủ yếu là hy sinh tất cả thân
mình để nuôi nấng con cái. Thế hệ thứ hai đỡ hơn nhiều nhưng vẫn mang rất nhiều
thói quen tập tục của thế hệ trước để lại mặc dù sinh ra và lớn lên ở đây”.

Cuộc sống vất vả, bi kịch
cũng nhiều nhưng theo chị, không thấy ai tâm thần cả. Điều đó chứng tỏ ý chí, sức
sống, khả năng sống để tồn tại, vươn lên của người Việt thật là mạnh mẽ.

Nhưng“tâm thần chủ yếu lại là thế hệ thứ hai. Họ đứng
ở giữa không biết họ về đâu. Đứng ở giữa hai nền văn hóa mà cái nào cũng lơ lửng.
Bi kịch của sự mâu thuẫn giữa hai thế hệ bao giờ cũng có nhưng lại kèm sự mâu
thuẫn giữa hai nền văn hóa.

Bố mẹ không tiếp cận được với con cái nếu con cái
sinh ra lớn lên ở đây. Họ không hội nhập được, họ không hề biết bất cứ một chuyện
gì xảy ra ở đây nhưng con cái của họ cũng không tiếp cận được với họ bởi vì nó
không cảm được những gì bố mẹ nó cảm. Đó là bi kịch cực lớn”.

Khi được hỏi về những bi kịch
chung nhất đối với người phụ nữ Việt Nam tại xứ người mà cụ thể là tại Đức, chị
Hoài Thu cho biết: “Bi kịch chung nhất là những chịu đựng về mặt gia đình. Chồng Việt hay
chồng Đức cũng vậy thôi. Có nhiều phụ nữ khi sang đây tuổi cũng trung trung rồi,
toàn bộ sức lực dành cho ở nhà, chồng con.

Còn với người chồng, xa nhau một thời gian như vậy
cộng với định kiến là vợ ở đây cũng bồ bịch, nên có những người phụ nữ cuối đời
mất trắng toàn bộ. Con cái thì theo bố, theo gia đình ông bà nội rủa xả lại mẹ
mặc dù họ vẫn tiêu tiền của người đàn bà ấy gửi về, cái đê tiện nhất là chỗ đấy…

Làm sao họ còn đủ nghị lực để làm lại cuộc đời? Họ
mất luôn cả ý chí, họ mất luôn cả niềm vui sống, mất tất cả. Họ sống đây vật vờ,
sống như không còn sống”.

 Một vị linh mục
không muốn nêu tên, là người Đức nhưng nói tiếng Việt rất tốt và
nhiều năm nay gắn bó với cộng đồng Thiên chúa giáo người Việt, từ khi
ông làm việc với người tị nạn Việt Nam tại các trại tị nạn ở châu Á, cho đến
sau này, với cộng đồng người Việt ở Đức. Ông là một trong những người hiểu khá
rõ về cuộc sống, tâm tư của người lao động và người tị nạn Việt Nam tại đây.

Đứng ở giữa hai nền văn hóa mà cái nào cũng lơ
lửng. Bi kịch của sự mâu thuẫn giữa hai thế hệ bao giờ cũng có nhưng lại kèm sự
mâu thuẫn giữa hai nền văn hóa. 

Chị Hoài Thu

Theo ông, cộng đồng Việt nhìn
chung là một cộng đồng lương thiện, chăm chỉ, chịu khó làm ăn. Chỉ có lớp người
Việt mới qua và chưa có giấy tờ định cư vĩnh viễn, chưa có cuộc sống ổn định là
có nhiều vấn đề nảy sinh, nhiều bi kịch do hoàn cảnh sống bấp bênh và khả năng
hội nhập kém.

Ông đã từng được nghe kể hoặc
chứng kiến biết bao số phận buồn khác nhau, những bi kịch do gia đình không hợp,
không hiểu được nhau; hoặc có những người phụ nữ sống một mình bị lợi dụng, sau
đó sinh con, phải tìm một người Đức hoặc người nước ngoài sống tại Đức trả tiền
để người đó chịu  nhận con trên mặt giấy tờ và có cớ ở lại Đức; có người
phạm pháp bị tù; có những người trốn sang Anh bất hợp pháp bị bắt…

Trong đó có trường hợp một
người phụ nữ trên đường vượt rừng để trốn sang Anh, chiếc xe chở chị cùng với
những người Việt Nam khác bị xe của cảnh sát Anh đuổi sát đã chạy quá nhanh và
bị tai nạn, 6 người trên xe bị chết, còn lại chị và một người khác bị thương nặng.
Chị bị hôn mê một thời gian dài nhưng sau đó lại tỉnh lại và sống sót như một
điều kỳ diệu…

Vị linh mục kể với chúng tôi
đã có một đài truyền hình Mỹ sang liên hệ dự tính năm tới sẽ làm một bộ phim
tài liệu về người phụ nữ may mắn được trở về với cuộc sống này.

Và còn nữa, biết bao số phận
buồn, không may khác của người Việt Nam trên bước đường đi tìm một cuộc sống tốt
hơn, thoải mái hơn cho mình và cho người thân, chẳng thua gì những bi kịch, rủi
may mà những người đồng bào của họ đã trải qua, hơn 30 năm trước khi vượt biển
ra đi tìm tự do.