Chợ Tết qua thơ
Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam may mắn còn lại dáng nét trong thơ Đoàn Văn Cừ, như chứng tích của cả một thời xưa:
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo nhau
(Chợ tết)
Đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông
Người lố nhố chèo lên làn nước lạnh
Bọn đô vật trước đình thi sức mạnh
Mình cởi trần gân cốt nổi như lươn
Tiếng reo hò khuyến khích dậy từng cơn
(Đám hội)
Một cụ già râu tóc trắng như bông
Mặc áo đỏ cầm hương đi trước đám
Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm
Quần nâu hồng chống gậy bước theo nhau
Hàng ô đen thong thả tiến lên sau
(Đám cưới mùa xuân)
Chợ – tranh dân gian Hàng Trống của nghệ nhân Lê Đình Nghiên.
Những hình ảnh thật đầy màu sắc và sống động. Nó dường như muốn tự phân biệt với số lớn thơ của nhiều tác giả trong phong trào Thơ mới, nhìn chung là hướng ra đời sống thị thành, và hướng con người đi vào và đào sâu vào một cái Tôi riêng. Còn Đoàn Văn Cừ cùng với những người thuộc xu hướng như ông là Anh Thơ, Bàng Bá Lân, và nhất là Nguyễn Bính, lại muốn con người trở về, hoặc ở lại với nông thôn, với làng quê, trong những vui buồn xen kẽ, và cả trong cái vui chung nơi đời sống cộng đồng. Hướng về cội nguồn, về cái chung của số đông, của sinh hoạt nhân quần, lẽ tự nhiên là có cái ồn vui, và cả sự ấm áp:
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc
Cả những gam màu trong thơ tết của Đoàn Văn Cừ cũng là những gam màu nóng:
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà sống mào thâm như cục tiết
…
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Chợ là thế. Và chợ tết càng thế. Đông hơn thường. Và vui hơn thường, nhiều màu sắc hơn thường. Nhân quần trong thơ về chợ tết của Đoàn Văn Cừ vẫn là một nhân quần trong sự mưu sinh, trong sự vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày.
Nhưng đây là phiên chợ tết, phiên chợ cuối năm, phiên chợ của kết thúc và mở đầu cho một năm, nên lại có gương mặt rạng rỡ, và mang theo niềm vui, sự thong dong, sự thụ hưởng, sự ngắm nhìn… Cái đó chỉ có trong phiên chợ tết. Đón nhận được thần sắc đó, ý vị đó, Đoàn Văn Cừ đã chuyển được nó vào bức tranh chợ tết chỉ diễn ra có một lần trong năm. Và với những phiên chợ tết trong thơ Đoàn Văn Cừ, bức tranh quê Việt Nam trong lâu dài và thay đổi của lịch sử bỗng trở nên vĩnh viễn.
Hoài Thanh qua Thi nhân Việt Nam có nói đến “đồng quê” như là “nơi nương náu cuối cùng của dĩ vãng”, trong lời bình thơ Đoàn Văn Cừ. Dĩ vãng và vẻ đẹp của dĩ vãng chỉ có nơi đồng quê ư? Xem ra là đúng. Sinh hoạt phố xá thành thị của ta đã hình thành từ đầu thế kỷ trước khiến cho người “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính vừa ngậm ngùi, vừa âu lo đến thảng thốt:
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Thế giới thành thị đó đang đổi thay rất nhanh, rất gấp và cực kỳ gấp vào cuối thế kỷ trước đến đầu thế kỷ này. Đổi thay hàng ngày và thậm chí hàng giờ. Nó lấn dần nông thôn, và khoảng vài chục năm nay, nó làm thay đổi sắc diện nông thôn, đến mức xem ra đã hết hẳn những phiên chợ tết kiểu Đoàn Văn Cừ. Nhưng may mắn thay, còn đó những bài thơ về những “bức tranh quê” cùng “hội xuân” và “chợ tết”…
Hoài Thanh lưu ý đến cái sống động, cái hoạt động, cái “dồi dào mà rực rỡ” sắc màu trong thơ Đoàn Văn Cừ. Đó quả là nét riêng làm nên thơ ông.
Không chỉ riêng chợ tết mà còn lan sang cả các đám cưới và hội xuân, vào cữ giêng – hai:
Người đi xem nhiều bọn đã ra về
Trên đường vắng lá đề rơi lác đác
Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc
Không khí thời đại vẫn là cái không ai, không nhà thơ nào, kể cả Đoàn Văn Cừ thoát được. Nó là nỗi sầu lớn của thời thế, nằm trong cảnh ngộ chung dân tộc. Và là sản phẩm của con người khi đi sâu vào cái Tôi riêng, trong cảnh ngộ chung ấy.
Chân dung Đoàn Văn Cừ dường như phải được đặt trên nền cảnh nông thôn Việt Nam thuần hậu, ít thay đổi, mới thật là phù hợp. Dẫu vậy trong tâm tưởng của nhiều thế hệ bạn đọc chúng ta vẫn “sống” với bao thiết tha, luyến nhớ những hội xuân và chợ tết qua bảng màu rực rỡ mà trong trẻo của Đoàn Văn Cừ?
Nhà văn Thạch Lam tuy là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng ông sáng tác theo khuynh hướng riêng. Ông dành tấm lòng ưu ái xót thương cho những người bình dân trong xã hội. Làm nên thế giới nhân vật của Thạch Lam là những thị dân nghèo đói cơ cực, sống vất vả, mang số phận hẩm hiu, buồn tẻ. Nổi bật là truyện ngắn Hai đứa trẻ đậm đà màu sắc hiện thực qua sự mô tả quang cảnh buổi chợ tàn của một chợ nghèo hiu hắt nơi phố huyện nhỏ. Thạch Lam không chỉ mô tả đời sống vật chất khốn khó của các nhân vật. Ông chú trọng nhiều hơn đến thế giới nội tâm, đến những trạng thái tâm lý tinh vi của hai chị em. Ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh này đã len sâu vào tâm hồn ta, khơi gợi trong ta bao cảm giác mơ hồ, bao tình cảm lặng thầm, tinh tế.
Bạn đọc nhiều thế hệ đã từng thích thú với tác phẩm Buổi chợ trung du của Ngô Tất Tố. Tác phẩm đã phản ánh một cách đậm nét và sâu sắc không khí và tinh thần lạc quan của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Qua một phiên chợ đã làm bật lên những điều có ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Và đặc biệt qua những truyện ký ghi chép của nhà văn Tô Hoài như phiên chợ trâu bò; Chợ, kẻ chợ;… trong tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội, những câu chuyện hết sức thú vị về lịch sử các ngôi chợ đã được khắc họa một cách chi tiết, sinh động. Chúng ta được biết tên gọi Hà Nội ngoài những tên gọi mĩ miều như Thăng Long, Đông Quan, Đông Đô còn có một tên gọi khác dân gian rất giản dị là Kẻ Chợ. Ông còn cho biết thêm: “Quý thế cho nên, khi có thêm một chợ mới người ta không dùng chữ hoa mỹ như khai trương, khánh thành, mà gọi thân thương là ngày mở chợ, cưới chợ… Các cụ già quanh hồ Tây còn kể cho con cháu nghe mãi về những trò vui trong ngày cưới chợ Bưởi”.