Chính sách pháp luật theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020

Thuế thu nhập doanh nghiệp là sắc thuế có vai trò và vị trí quan trọng trong hệ thống thuế của Việt Nam. Việc thực hiện chính sách thuế TNDN của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm qua đã góp phần quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho ngân sách nhà nước và cũng như trong việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế TNDN hiện hành cũng đã phát sinh một số điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu để rà soát, sửa đổi cho phù hợp, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đồng thời, xử lý được các yêu cầu đang đặt ra và đảm bảo phù hợp xu hướng cải cách chính sách thuế TNDN trên thế giới. Vậy nên, Nhà nước đã có những Chính sách pháp luật theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 cụ thể để việc triển khai luật trên được hiệu quả hơn.

1. Chính sách pháp luật theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020

Thực hiện quy định tại khoản 2, Điều 80 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc vừa có văn bản về việc công bố 8 Nghị quyết được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 9. Trong đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 116/2020/QH14 về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác.

Nghị quyết số 116/2020/QH14 áp dụng đối với người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm: Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã; đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.

Nghị quyết nêu rõ: Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với trường hợp doanh nghiệp có tổng doanh thu năm 2020 không quá 200 tỷ đồng. Doanh nghiệp căn cứ quy định trên để tự xác định số thuế được giảm khi tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quý và quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020.

Nghị quyết này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký và áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2020.

Nghị quyết số 116/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2020.

luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2020

luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2020

Cụ thể:

1. Về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH15 quy định: “1. Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với trường hợp người nộp thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có doanh thu năm 2021 không quá 200 tỷ đồng và doanh thu năm 2021 giảm so với doanh thu năm 2019.”.
Khoản 1 Điều 1 Nghị định 92/2021/NĐ-CP quy định về đối tượng được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo Điều 1 Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 gồm:
“1. Đối tượng áp dụng
Việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại Điều này áp dụng đối với người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15, bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.
b) Tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã.
c) Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.
d) Tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam có hoạt động sản xuất kinh doanh có thu nhập.”
2. Về hỗ trợ nhóm đối tượng hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh
– Ngày 01/06/2021, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, trong đó đã sửa đổi nội dung xử lý ngừng/tạm ngừng kinh doanh theo quy định cũ theo hướng hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh ngừng/tạm ngừng kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không phải nộp thông báo ngừng/tạm ngừng kinh doanh đến cơ quan thuế mà cơ quan thuế sẽ căn cứ văn bản yêu cầu ngừng/tạm ngừng của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh giảm số thuế phải nộp theo thời gian thực tế yêu cầu ngừng/ tạm ngừng kinh doanh.
– Đối với chính sách hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí trong thời gian ngắn hạn: Ngày 19/04/2021 Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2021/NĐ-CP gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất, theo đó hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được gia hạn số thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân phát sinh phải nộp năm 2021 đến ngày 31/12/2021. Chính sách này góp phần hỗ trợ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vượt qua khó khăn trong thời điểm covid-19, giúp giảm tải các áp lực về nghĩa vụ tài chính và giúp dồn nguồn lực để phục hồi, duy trì sản xuất. Trong quá trình triển khai, chính sách này hỗ trợ rất tốt cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và không phát sinh bất cập, tồn tại nào.
Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 và Nghị định số 92/2021/NĐ-CP quy định miễn thuế thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế khác phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV năm 2021 đối với hộ, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các địa bàn cấp huyện chịu tác động của dịch COVID-19 trong năm 2021 do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Không áp dụng việc miễn thuế đối với các khoản thu nhập, doanh thu từ cung cấp sản phẩm và dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện tử, phim số, ảnh số, nhạc số; quảng cáo số. Trong ngắn hạn, chính sách này đã góp phần hỗ trợ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh phục hồi, duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh.
– Đối với hỗ trợ về thủ tục hành chính thuế, các trường hợp cơ quan thuế ra thông báo nộp tiền thì cơ quan thuế sẽ chủ động xử lý miễn thuế cho các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng theo quy định; đối với các trường hợp Cơ quan thuế không phải ra thông báo nộp tiền thì hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tự  xác định số thuế phải nộp sau khi miễn thuế để khai trên Tờ khai thuế, đồng thời lập bản xác định số thuế được miễn theo Mẫu số 01-1/PL-cá nhân kinh doanh Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 92/2021/NĐ-CP để nộp kèm theo Tờ khai thuế.
3. Về giảm thuế giá trị gia tăng
Luật Thuế giá trị gia tăng quy định 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Ngoài mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, Luật quy định 14 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng mức thuế suất 5%. Các hàng hóa, dịch vụ còn lại áp dụng thuế suất 10%. Luật Thuế giá trị gia tăng không có quy định về miễn, giảm thuế.
Để hỗ trợ doanh nghiệp bị tác động bởi dịch Covid-19, khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 quy định:
“3. Giảm thuế giá trị gia tăng kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với các hàng hóa, dịch vụ sau đây: (i) Dịch vụ vận tải (vận tải đường sắt, vận tải đường thủy, vận tải hàng không, vận tải đường bộ khác); dịch vụ lưu trú; dịch vụ ăn uống; dịch vụ của các đại lý du lịch, kinh doanh tua du lịch và các dịch vụ hỗ trợ, liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du lịch; (ii) Sản phẩm và dịch vụ xuất bản; dịch vụ điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và xuất bản âm nhạc; tác phẩm nghệ thuật và dịch vụ sáng tác, nghệ thuật, giải trí; dịch vụ của thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác; dịch vụ thể thao, vui chơi và giải trí. Hàng hóa, dịch vụ trong nhóm (ii) không bao gồm phần mềm xuất bản và các hàng hóa, dịch vụ sản xuất, kinh doanh theo hình thức trực tuyến.”
Tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 đối với đối tượng được hưởng mức giảm thuế GTGT:
“1. Giảm thuế giá trị gia tăng kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với hàng hóa, dịch vụ, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải (vận tải đường sắt, vận tải đường thủy, vận tải hàng không, vận tải đường bộ khác); dịch vụ lưu trú; dịch vụ ăn uống; dịch vụ của các đại lý du lịch, kinh doanh tua du lịch và các dịch vụ hỗ trợ, liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du lịch.
b) Sản phẩm và dịch vụ xuất bản; dịch vụ điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và xuất bản âm nhạc; tác phẩm nghệ thuật và dịch vụ sáng tác, nghệ thuật, giải trí; dịch vụ của thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các hoạt động văn hóa khác; dịch vụ thể thao, vui chơi và giải trí.
c) Chi tiết hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế quy định tại điểm a và điểm b khoản này thực hiện theo Phụ lục 1 Danh mục hàng hóa, dịch vụ được giảm mức thuế giá trị gia tăng ban hành kèm theo Nghị định này, trong đó hàng hóa, dịch vụ quy định tại điểm b khoản này không bao gồm phần mềm xuất bản và các hàng hóa, dịch vụ sản xuất kinh doanh theo hình thức trực tuyến.
d) Trường hợp hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản này thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng thì thực hiện theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng.”
d) Về đề xuất miễn tiền chậm nộp phát sinh của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất để hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức giảm bớt khó khăn về tài chính, tập trung nguồn lực khắc phục những ảnh hưởng của dịch bệnh”
4. Về đề xuất miễn tiền chậm nộp phát sinh của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất để hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức giảm bớt khó khăn về tài chính, tập trung nguồn lực khắc phục những ảnh hưởng của dịch bệnh
Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 và Nghị định số 92/2021/NĐ-CP đã quy định miễn tiền chậm nộp. Cụ thể:
Tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 quy định miễn tiền chậm nộp:
“1. Miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 của các khoản nợ tiền thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với người nộp thuế là doanh nghiệp, tổ chức (bao gồm cả đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh) phát sinh lỗ trong kỳ tính thuế năm 2020”.
5. Ngoài ra, một số chính sách tiếp tục được thực hiện từ năm 2020 nhằm hướng tới việc hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp xuất nhập khẩu và hàng không (Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ điều chỉnh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Nghị quyết 1148/2020/UBTVQH14 ngày 21/12/2020 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giảm 30% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay trong cả năm 2021). Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư quy định cắt giảm một số khoản phí, lệ phí trong cả năm 2021 nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 (Thông tư số 112/2020/TT-BTC ngày 29/12/2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 đến ngày 30/6/2021; Thông tư số 47/2021/TT-BTC ngày 24/6/2021 có hiệu lực từ ngày 01/07/2021 đến ngày 31/12/2021; Thông tư 12/2021/TT-BTC ngày 08/02/2021 có hiệu lực từ ngày 08/02/2021 đến hết ngày 31/12/2021; Thông tư số 40/2021/TT-BTC ngày 01/06/2021 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh…)./.

2. Kết quả thực hiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp

Hầu hết các quốc gia đều đánh thuế đối với cả thu nhập và tiêu dùng. Trong khi thuế tiêu dùng là loại thuế chủ yếu đánh vào việc tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, được áp dụng tại thời điểm giao dịch hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì thuế thu nhập thường đánh vào thu nhập ròng trong một kỳ tính thuế. Trong hệ thống thuế thu nhập thì thuế TNDN là loại thuế đánh vào thu nhập tính thuế của các doanh nghiệp, thường được xác định dựa theo chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế và số chi phí được phép khấu trừ theo quy định. Ở hầu hết các nước, thuế TNDN là loại thuế được thu theo tỷ lệ cố định, không thu theo biểu thuế suất lũy tiến như thuế thu nhập cá nhân (thuế suất tăng theo mức thu nhập chịu thuế).

Ở Việt Nam, Luật Thuế TNDN đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay cho Luật Thuế lợi tức trước đó. Hiện nay, chính sách thuế TNDN của Việt Nam được thực hiện theo Luật Thuế TNDN số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 và các luật sửa đổi, bổ sung Luật này. Trong 10 năm qua, Luật Thuế TNDN số 14/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào các năm năm 2013, 2014 và 2020.

Giảm Thuế TNDN Năm 2021 - Tư Vấn DNL

luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2020

Quá trình cải cách chính sách thuế TNDN ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay nhìn chung đã được thực hiện theo định hướng, mục tiêu xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, từng bước tiếp cận với xu hướng cải cách chính sách thuế TNDN trên thế giới. Điểm nổi bật trong tiến trình cải cách chính sách thuế TNDN của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là đảm bảo duy trì một sắc thuế TNDN không có sự đối xử phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; thực hiện giảm nghĩa vụ thuế cho mọi loại hình doanh nghiệp thông qua việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông; từng bước mở rộng cơ sở thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện giảm mức thuế suất phổ thông thuế TNDN từ 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014, riêng doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa được áp dụng mức thuế suất 20% ngay từ ngày 01/7/2013. Từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông tiếp tục được giảm xuống 20%, áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp.

Việc quy định các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN theo nguyên tắc loại trừ cho phép doanh nghiệp được trừ các khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện quy định (như kèm theo hóa đơn, chứng từ, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với giao dịch trên ngưỡng quy định…); đồng thời, việc bỏ quy định khống chế khoản chi phí liên quan đến quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới… đã góp phần hỗ trợ cho các doanh nghiệp giảm chi phí thuế TNDN và giảm chi phí tuân thủ, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đã có bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện các chính sách liên quan đến việc phòng, chống các hành vi chuyển giá, trong đó, đã ban hành các quy định về khống chế chi phí lãi vay đối với giao dịch liên kết.

Về phương diện động viên nguồn lực cho NSNN, thu từ thuế TNDN đóng vai trò ngày càng quan trọng cơ cấu thu NSNN của Việt Nam. Tỷ trọng thu từ thuế TNDN (không kể thu thuế TNDN từ dầu thô) trong tổng thu NSNN mặc dù giảm vào những thời điểm thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông vào năm 2014 và 2016, tuy nhiên, sau đó đã có xu hướng tăng trở lại từ năm 2017 (Hình 2). Đến năm 2020, quy mô thu NSNN từ thuế TNDN (không tính thuế TNDN từ dầu thô) chiếm khoảng 16,2% tổng thu NSNN, tương đương 3,9% GDP. Mặc dù mức thuế suất phổ thông thuế TNDN được giảm mạnh từ 25% xuống 20% nhưng quy mô thu NSNN từ thuế TNDN (không tính thuế TNDN từ dầu thô) so với tổng thu NSNN và so với GDP cơ bản không có sự biến động quá lớn trong giai đoạn 2011- 2020 (Hình 1 và Hình 2). Nguyên nhân một phần là do tác động tích cực của việc thực hiện các biện pháp về mở rộng cơ sở thuế và tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế, cũng như sự phát triển của sản xuất – kinh doanh trong nước.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đã thực hiện chuyển đối tượng hưởng ưu đãi thuế TNDN theo diện đầu tư mới từ pháp nhân (doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư) sang ưu đãi thuế theo dự án đầu tư mới của doanh nghiệp, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các chính sách ưu đãi về thuế TNDN. Ngoài ra, trong quá trình sửa đổi chính sách thuế TNDN cũng đã thực hiện rà soát, điều chỉnh phạm vi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn được ưu đãi thuế; bổ sung ưu đãi thuế TNDN đối với một số đối tượng cần khuyến khích như dự án đầu tư có quy mô lớn, sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các dự án thuộc diện được hỗ trợ đầu tư đặc biệt; bổ sung quy định miễn, giảm thuế đối với dự án đầu tư mở rộng nếu đáp ứng một số tiêu chí theo quy định. Việc áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế TNDN cùng với các biện pháp cải cách có liên quan khác đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đưa Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với nguồn vốn FDI (Trương Bá Tuấn, 2017).

Ngoài ra, chính sách thuế TNDN của Việt Nam cũng đã được sử dụng một cách linh hoạt dưới giác độ là một công cụ kinh tế vĩ mô để hỗ trợ cho nền kinh tế trong những giai đoạn khó khăn, tăng trưởng kinh tế chậm. Cụ thể, tại những thời điểm khó khăn của nền kinh tế, một số chính sách về giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế TNDN cho một số nhóm đối tượng cũng đã được ban hành để hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn những năm đầu của thập niên 2010 khi nền kinh tế phải ứng phó với các tác động bất lợi của tình hình kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước và trong 3 năm gần đây là trước các ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19.

3. Một số vấn đề đặt ra đối với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, do sự biến động nhanh của kinh tế – chính trị thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, chính sách thuế TNDN hiện hành đã phát sinh một số hạn chế, bất cập cần được nhận diện để nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp, qua đó, để một mặt tiếp tục củng cố vai trò của sắc thuế trong hệ thống thuế, mặt khác đảm bảo tính minh bạch và đồng bộ của hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển. Trong đó, các quy định cần được rà soát liên quan chủ yếu đến các khoản thu nhập được miễn thuế, thu nhập chịu thuế; các nguyên tắc xác định các khoản chi phí được trừ và không được trừ và các quy định về ưu đãi thuế TNDN.

Bên cạnh đó, chưa có chính sách ưu đãi thuế TNDN (thuế suất, phương pháp tính thuế) nhằm hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển hay thúc đẩy các hộ kinh doanh chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Ở Việt Nam, các DNNVV hiện nay đang chịu sự điều chỉnh của các chính sách thuế TNDN tương tự như các doanh nghiệp có quy mô lớn. Trong khi đó, mặc dù không có sự phân biệt về chính sách nhưng trên thực tế so với các doanh nghiệp có quy mô lớn, các DNNVV đang gặp nhiều khó khăn, rào cản hơn trong việc tiếp cận với các chính sách ưu đãi thuế TNDN hiện có.

Ngoài ra, theo đánh giá của nhiều nghiên cứu, tác động của chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với việc phân bổ nguồn lực và thu hút đầu tư có chọn lọc vào các lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam còn chưa cao, nên cần được rà soát lại cho phù hợp để hạn chế việc làm xói mòn cơ sở thuế không cần thiết. Chính sách ưu đãi thuế nói chung, ưu đãi về thuế TNDN nói riêng đã được xây dựng và áp dụng trong hơn 30 năm qua nhưng hiện đang có ít sự quan tâm đến việc xem xét, đánh giá “chi phí” của việc thực hiện các chính sách này trong mối tương quan với lợi ích dự kiến thu được từ các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi. Khi yếu tố “chi phí” của việc áp dụng chính sách ưu đãi thuế không được chú trọng sẽ tạo ra những dư địa và động cơ yêu cầu tiếp tục mở rộng các chính sách này của các bộ, ngành, địa phương. Kéo theo là mức độ dàn trải trong áp dụng ưu đãi thuế có xu hướng ngày càng gia tăng, dẫn đến chi phí của việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế cao.

Bên cạnh đó, ưu đãi thuế vẫn được coi như là một nhân tố cốt lõi chi phối đến quyết định của nhà đầu tư trong khi các yêu cầu khác, ví dụ, thông qua việc loại bỏ các rào cản thị trường và cắt giảm các khoản chi phí kinh doanh “gián tiếp” cũng có vai trò rất quan trọng chi phối đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Hiện nay, do không bị ràng buộc bởi các trách nhiệm cụ thể hay phải gánh chịu các “chi phí gián tiếp” từ việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế nên một số bộ, ngành và địa phương đã đưa ra các yêu cầu mới về ưu đãi thuế trong quá trình sửa đổi các chính sách có liên quan, trong đó có chính sách ưu đãi về thuế TNDN. Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và địa bàn là căn cứ quan trọng trong việc xây dựng các chính sách ưu đãi thuế nói chung, ưu đãi thuế TNDN nói riêng nhưng vẫn còn tư duy mong muốn phát triển dàn đều các ngành, lĩnh vực. Thực tế này đã dẫn đến việc rà soát, hợp lý hóa các chính sách ưu đãi thuế gặp phải nhiều khó khăn, thậm chí có xu hướng mở rộng.

Cùng với đó, pháp luật về thuế TNDN hiện nay cũng bộc lộ một số “khoảng trống” trong việc điều chỉnh các vấn đề thuế mới phát sinh trong quá trình tăng cường hợp tác quốc tế về thuế, xử lý các vấn đề thuế quốc tế. Trong thời gian qua, đã có nhiều sáng kiến thuế quốc tế được khởi xướng, trong đó đáng chú ý là Dự án Chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS) nhằm chống lại các hành vi trốn và tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia trong việc lợi dụng các khoảng trống và những hạn chế của chính sách thuế và của công tác quản lý thuế để chuyển lợi nhuận sang những quốc gia hay vùng lãnh thổ có mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn. Trong đó, đáng chú ý là tăng các khoản chi phí hợp lệ được khấu trừ thuế nhằm làm giảm cơ sở tính thuế, hoặc chuyển phần lợi nhuận đáng ra phải chịu thuế ở quốc gia này sang một quốc gia khác có thuế suất thấp hơn; hoặc sử dụng các hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, các mô hình kinh doanh mới, các hoạt động thương mại điện tử nhằm né tránh các biện pháp quản lý thuế truyền thống. Theo ước tính của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD, 2015), mỗi năm các hành vi BEPS gây thất thoát khoảng từ 100 – 240 tỷ USD tiền thuế của các nước, tương ứng khoảng 4 – 10% tổng thu từ thuế TNDN toàn cầu. Việt Nam là quốc gia có độ mở cao, vai trò của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong nền kinh tế tương đối lớn. Theo đó, cần có những giải pháp phù hợp để ứng phó với các hành vi BEPS, cũng như sự phát triển ngày càng tăng của các hoạt động thương mại điện tử và các mô hình kinh tế mới.

Cùng với đó, ngày 08/10/2021, 136 quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên Diễn đàn BEPS đã đưa ra bản Tuyên bố về “Giải pháp Hai trụ cột” nhằm giải quyết những vấn đề thuế phát sinh trong thời đại của nền kinh tế kỹ thuật số. Trong “Giải pháp Hai trụ cột”, Trụ cột 1 sẽ phân bổ lại quyền đánh thuế cho những quốc gia có người tiêu dùng và thị trường; Trụ cột 2 tập trung vào việc đề xuất một mức thuế suất tối thiểu toàn cầu là 15% (GMT), qua đó hướng đến mục tiêu giảm hoặc triệt tiêu động lực chuyển lợi nhuận sang những nơi có thuế suất thuế TNDN thấp. Trong khuôn khổ GMT, trường hợp các công ty đa quốc gia chịu thuế suất thấp hơn mức tối thiểu đối với khoản thu nhập phát sinh ở một quốc gia nào đó, quốc gia cư trú của công ty đó có thể yêu cầu công ty đó nộp thuế bổ sung để bằng mức thuế tối thiểu. Theo đó, trường hợp công ty đa quốc gia có công ty thành viên thực hiện hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác mà được áp dụng mức ưu đãi thuế TNDN ở mức cao dẫn đến số thuế phải nộp thấp thì số tiền thuế mà công ty phải nộp thêm tại quốc gia cư trú càng nhiều.

Thực hiện Trụ cột 2 kỳ vọng sẽ tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho tất cả các nước, giải quyết vấn đề thất thu thuế toàn cầu từ các hành vi chuyển lợi nhuận, đồng thời gián tiếp hạn chế “cuộc đua xuống đáy” trong giảm thuế suất thuế TNDN của các quốc gia để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã phê duyệt và đồng ý tham gia Trụ cột 2 như một biện pháp để ngăn chặn tình trạng xói mòn cơ sở thuế. Theo đó, Việt Nam cũng cần chủ động có các giải pháp để tham gia hiệu quả Trụ cột 2, nhất là đối với việc sửa đổi các quy định liên quan đến ưu đãi thuế TNDN để một mặt không làm xói mòn cơ sở thuế, mặt khác vẫn đạt được các mục tiêu trong thu hút nguồn vốn FDI, tránh tình trạng đưa ra các “ưu đãi dư thừa”, không có tác dụng trên thực tế.

4. Dự báo bối cảnh kinh tế – xã hội và định hướng hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam

Ảnh hưởng kéo dài của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế trong nước và các diễn biến bất lợi của tình hình chính trị thế giới đang tiềm ẩn các nguy cơ làm xói mòn cơ sở thuế, ảnh hưởng đến việc duy trì tỷ lệ động viên cho NSNN trong những năm tới. Cùng với đó, diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 và ảnh hưởng của sự tăng giá nhiều loại hàng hóa đối với việc thực hiện các mục tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến lộ trình thực hiện cải cách chính sách thuế để củng cố nguồn thu cho NSNN của Việt Nam. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia, cũng như thực tiễn thực hiện cải cách thuế ở Việt Nam từ khi thực hiện cải cách, mở cửa đến nay đã cho thấy, sẽ rất khó để đưa ra các biện pháp cải cách chính sách thuế một cách tổng thể, hiệu quả để mở rộng cơ sở thuế khi nền kinh tế phải đối mặt với nhiều rủi ro, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và nền kinh tế tăng trưởng thấp. Trong khi đó, nhu cầu chi NSNN, đặc biệt là chi cho con người, cho đảm bảo an sinh xã hội của Việt Nam dự báo ngày càng tăng, sẽ tiếp tục tạo nên các áp lực cho việc cân đối nguồn lực, đòi hỏi phải củng cố nguồn lực cho NSNN theo hướng bền vững thông qua các biện pháp cải cách thuế phù hợp.

Toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu, rộng và được mở rộng ra nhiều lĩnh vực, cùng với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin đã làm thay đổi mạnh mẽ các hoạt động kinh doanh truyền thống và đang đặt các cơ quan quản lý vào những tình huống chưa có tiền lệ, đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả. Quá trình phân công lao động toàn cầu và sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu những năm gần đây đã có nhiều tác động đến cấu trúc tổ chức và hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia, tạo điều kiện cho các hoạt động chuyển giá và chuyển lợi nhuận xuyên biên giới. Sự xuất hiện và hiện diện với quy mô ngày càng lớn của các mô hình kinh doanh mới cũng đang tiềm ẩn các nguy cơ “chèn lấn” các hoạt động kinh doanh truyền thống, dẫn đến rủi ro làm xói mòn cơ sở thuế trong nước. Đây là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi Việt Nam cần có những ứng phó trong cải cách chính sách thuế TNDN một cách phù hợp, qua đó đảm bảo sự bền vững của thu NSNN.

Phương hướng phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 được Đại hội Đại biểu lần thứ XIII của Đảng thông qua đã đề ra nhiều định hướng quan trọng cho việc cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 5 năm và 10 năm tới, đó là: “Sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế và áp dụng mức thuế suất hợp lý, hướng tới một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, bảo đảm huy động hợp lý các nguồn lực cho NSNN, đồng thời góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế”. Cùng với đó, Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm 2021 – 2025 cũng đã đề ra định hướng: “Khẩn trương sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách thu để cơ cấu lại nguồn thu ngân sách, thúc đẩy tăng thu hợp lý kết hợp nuôi dưỡng nguồn thu bền vững. Đẩy mạnh các biện pháp khai thác dư địa thu, chống thất thu, giảm nợ đọng thuế, mở rộng cơ sở thuế”.

Trong hệ thống thuế của Việt Nam, thuế TNDN có vai trò và vị trí rất quan trọng. Đây là sắc thuế đang tạo ra số thu NSNN có quy mô đứng thứ hai trong hệ thống thuế, chỉ sau thuế giá trị gia tăng. Để khắc phục được những hạn chế của chính sách thuế TNDN hiện hành, cũng như nhằm chủ động ứng phó với các thách thức mới đang đặt ra, một số định hướng cải cách chính sách thuế TNDN thời gian tới như sau:

(i) Tiếp tục duy trì mức thuế suất thuế TNDN phổ thông ở mức 20% như hiện hành. Với mức thuế suất thuế TNDN phổ thông là 20% cùng với các chính sách ưu đãi ở mức cao trong thu hút đầu tư1, chính sách thuế TNDN hiện hành của Việt Nam đã đảm bảo khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực (Hình 3). Trước bối cảnh quốc tế hiện nay, nhất là việc thực hiện Trụ cột 2 nêu trên và với yêu cầu về cơ cấu lại nguồn thu NSNN thì không nên đặt ra vấn đề tiếp tục điều chỉnh mức thuế suất phổ thông TNDN như đã thực hiện giai đoạn vừa qua mà cần tập trung nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế TNDN để tiếp tục phát huy hiệu quả vai trò của sắc thuế này trong hệ thống thuế. Việc đặt vấn đề giảm hơn nữa mức thuế suất thuế TNDN trên diện rộng sẽ có những ảnh hưởng lớn đến quy mô thu NSNN từ sắc thuế này, ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN, đặc biệt là trong bối cảnh một số nguồn thu như thu từ giao quyền sử dụng đất, thuế nhập khẩu, từ thoái vốn và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp có vốn nhà nước sẽ tiếp tục giảm trong những năm tới.

Trên đây là toàn bộ nội dung về Chính sách pháp luật theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 mà chúng tôi muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Trong quá trình tìm hiểu vấn đề, nếu có bất kỳ thắc mắc nào hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ tốt nhất, chúng tôi có các dịch vụ hỗ trợ mà bạn cần. ACC đồng hành pháp lý cùng bạn.

 

Đánh giá post

✅ Dịch vụ thành lập công ty
⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc

✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh
⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình

✅ Dịch vụ ly hôn
⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn

✅ Dịch vụ kế toán
⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật

✅ Dịch vụ kiểm toán
⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác

✅ Dịch vụ làm hộ chiếu
⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin