Các nhân tố tác động đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn hậu WTO.
Bên cạnh việc trở thành thành viên của các tổ chức trong khu vực và trên thế giới (ASEAN, WTO…), Việt Nam đã và đang đàm phán tham gia vào rất nhiều các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Các FTA mà Việt Nam đã và đang là thành viên như: ASEAN – Nhật Bản, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Ấn Độ, ASEAN – Úc – New Zealand, Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Chi lê .. Các FTA mà Việt Nam đang tham gia đàm phán có tính mở rộng và có tính song phương cao hơn so với các Hiệp định trên, như: Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định Việt Nam – Liên minh Châu Âu, Hiệp định Việt Nam – khối thương mại tự do châu Âu EFTA, Hiệp định Việt Nam – Hàn Quốc, Hiệp định Việt Nam – Liên minh Thuế quan. Trong số 5 FTA mà Việt Nam đang đàm phán thì có 3 nước được coi là đối tác chiến lược và có tác động lớn đối với nền kinh tế Việt Nam đó là: Hoa Kỳ, Châu Âu và Nga. Nếu Việt Nam thực hiện đầy đủ các hiệp định đã ký thì từ nay đến năm 2018, GDP của nước ta sẽ tăng ba điểm phần trăm/năm, lợi ích ròng 2,4 tỉ USD/năm ( Diễn đàn Logistics Việt Nam – VLF, Bộ Công Thương)
· Lợi thế thị trường từ việc tham gia các FTA:
+ Là thành viên của các hiệp định thương mại tự do,với các ưu đãi về cắt giảm thuế quan và về rào cản phi thuế quan, thị trường xuất khẩu của Việt Nam sẽ được mở rộng, phần lớn hàng xuất khẩu đã và sẽ được hưởng thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, thậm chí tới 0%. Đây là cơ hội mang lại lợi thế cạnh tranh lớn và triển vọng sáng sủa cho nhiều ngành hàng, đặc biệt là dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ là các ngành xuất khẩu quan trọng hiện nằm trong nhóm 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực.
+ Các FTA giúp các nước thành viên cải thiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu từ các đối tác thương mại. Ví dụ, khi tham gia TPP, Việt Nam cũng có thể có được cam kết của các thành viên không sử dụng hoặc hạn chế các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, có thể có cơ hội sử dụng các cam kết của TPP về hàng rào kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ để tránh các tranh chấp. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực tận dụng các ưu đãi về thuế quan từ việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) để đảm bảo quyền ưu đãi trong các FTA . Tỉ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi của Việt Nam cao so với các đối tác trong khu vực và luôn có xu hướng tăng lên qua các năm thực hiện với giá trị đơn hàng tăng cao. Riêng với Hàn Quốc, trên 90% hàng xuất khẩu của nước ta được hưởng ưu đãi về thuế thông qua FTA ASEAN – Hàn Quốc. Đây là một lợi thế vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt nam, khi nền kinh tế trong nước đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Việc tận dụng những ưu đãi thuế quan thông qua các FTA giữa Việt Nam và các nước, được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp tiếp tục gia tăng xuất khẩu vào nhiều thị trường, nhất là mốc thời gian hướng tới việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) cũng như hoàn thành các Hiệp định FTA đang đến gần.
+ Các FTA giúp ổn định nguồn và hạ giá đầu vào hàng nhập khẩu. Do nhập khẩu của Việt Nam thường xuyên chiếm khoảng 80% GDP nên việc ổn định và hạ giá nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đến việc ổn định, duy trì tăng trưởng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ngay trên thị trường trong nước với hàng nhập khẩu từ các nước và ở thị trường ngoài nước với hàng cùng chủng loại của các đối tác khác. Ngoài ra, các FTA là nhân tố tích cực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Các nhà đầu tư khi xem xét đầu tư vào ViệtNam đều coi khu vực thương mại tự do mà Việt Nam tham gia là lợi thế lớn để mở rộng thị trường đầu ra cho sản phẩm.
· Các bất lợi khi tham gia FTA:
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, Việt Nam đang cùng một lúc đối diện với nhiều thách thức to lớn. Đó không chỉ là hạn chế về khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ, khả năng cạnh tranh quốc gia thấp, mà còn là sự phá sản của hàng loạt doanh nghiệp trong nước chưa thấy tín hiệu dừng lại, dẫn đến là sự thu hẹp và mất thị trường trong nước cho các đối thủ nước ngoài, suy thoái tài nguyên, tác động xấu về văn hóa, an ninh.
+Trước hết là việc giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết đối với các nhóm hàng từ các nước đối tác sẽ khiến luồng hàng hóa nhập khẩu từ các nước này gia tăng nhanh chóng vào thị trường Việt nam, dẫn đến sức ép cạnh tranh nội địa ngày càng lớn. Đây chính là nguyên nhân làm cho thị phần của các nhà sản xuất trong nước sẽ bị ảnh hưởng. Đối với các doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh sẽ phải thu hẹp phạm vi sản xuất, kinh doanh và nhiều doanh nghiệp phải tuyên bố phá sản. Tiếp đến là nguồn ngân sách thu thuế từ nhập khẩu cũng bị giảm đáng kể khi Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu xuống 0% cho các nước đối tác.
+ Tiếp đến và những vấn đề liên quan tới nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá. Những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh và kỳ vọng thu được lợi ích nhiều nhất là dệt may, da giày thì những mặt hàng này đang phải đối mặt với khó khăn khi đàm phán về điều khoản xuất xứ hàng hóa. Đơn cử trường hợp khi tham gia TPP, hàng dệt may xuất khẩu từ một thành viên TPP sang thành viên khác phải sử dụng nguyên liệu và có quy trình sản xuất gần như toàn bộ thuộc “nội khối TPP” mới được hưởng ưu đãi (trừ một số ngoại lệ không đáng kể trong giai đoạn đầu). Như vậy, có nghĩa là, sản phẩm nào sử dụng nguyên liệu của các nước bên ngoài TPP không được hưởng ưu đãi. Điều này là một trở ngại rất lớn cho Việt Nam khi nước ta vẫn chủ yếu là nền kinh tế gia công xuất khẩu dựa trên nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu đầu vào (từ các nước bên ngoài TPP như Trung Quốc, Hàn Quốc) nên ưu đãi sẽ rất hạn chế.
2. Cải thiện MTKD trong nước có tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ nhất, sự thay đổi diện mạo đất nước cùng với những thành quả trong phát triển kinh tế đã tạo vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế:
Điểm lại sau gần 7 năm Việt Nam gia nhập WTO, kinh tế xã hội nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực:
+ Việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,… Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông – Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao.