Cà phê công nghệ số 8: Công nghệ vi sinh vật hữu hiệu trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ – Tạp chí tự động hóa ngày nay | Automation today
Theo số liệu thống kê, tổng diện tích đất tự nhiên của Việt Nam là 33 triệu ha. Trong đó có tới 9,34 triệu ha đất bị hoang hóa, 7,85 triệu ha chịu tác động mạnh do sa mạc hóa gây ra. Chất lượng đất của Việt Nam đang bị thoái hóa trên 4 mặt: thoái hóa hóa tính; thoái hóa lý tính; thoái hóa sinh học; ô nhiễm môi trường đất. Một trong các lý do khiến đất thoái hóa là việc sử dụng nhiều thuốc sâu, thuốc hóa học làm cho vi sinh vật tốt chết gây đất đai cằn cỗi. Điều này ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
• Cà phê công nghệ số 7: đưa công nghệ điện hóa – siêu âm kết hợp vào xử lý nước nuôi tôm
Tại phiên Cà phê Công nghệ số 8 với hai chủ đề chính về vi sinh vật hiện hữu tiên tiến và vi sinh vật bản địa, các diễn giả đã trình bày về nông nghiệp hữu cơ, công nghệ vi sinh vật,…để có cái nhìn tổng quan và việc ứng dụng thực tiễn vào nền nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
GS.TS.NGND Nguyễn Quang Thạch- Viện nghiên cứu và phát triển sinh học nông nghiệp Tiên Tiến đã giới thiệu về vi sinh vật hiện hữu tiên tiến, tại sao phải làm nông nghiệp hữu cơ và trình bày những lý giải về sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Ông cho biết, Việt Nam chúng ta trong những năm qua đã đạt nhiều thành tựu lớn cho nông nghiệp, tuy nhiên nông nghiệp thâm canh sử dụng vô cơ, thuốc hóa học làm mất cân bằng sinh thái, môi trường ô nhiễm, sản phẩm nhiễm độc, vì vậy chúng ta phải thay đổi theo hướng: “thuận thiên” sử dụng giải pháp hữu cơ làm thay đổi cân bằng vi sinh vật hữu hiệu, vi sinh vật gây hại.
Theo đó, nông nghiệp hữu cơ là hệ thống đồng bộ hướng tới thực hiện các quá trình với kết quả bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, nhân đạo với động vật và công bằng xã hội. Hoặc theo định nghĩa của Liên Hợp quốc là hệ thống canh tác và chăn nuôi tự nhiên, không sử dụng hóa chất phân bón và thuốc trừ sâu, giúp giảm thiểu ô nhiễm, bảo đảm sức khỏe cho con người và vật nuôi.
Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam giai đoạn 2020-2030 có 59/63 thành phố triển khai; năm 2021 diện tích đất nông nghiệp hữu cơ đạt 174 ngàn ha, tăng 47% so 2016, đứng thứ 9/10 nước có diện tích đất nông nghiệp hữu cơ lớn nhất châu Á. Mục tiêu của chúng ta đến năm 2030 diện tích đất nông nghiệp sản xuất hữu cơ đạt 2,5-3 tổng diện tích đất nông nghiệp, giá trị sản phẩm trên 1 ha đất hữu cơ cao gấp 1,5-1,8 lần so sản xuất phi hữu cơ.
Cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ là sử dụng công nghệ vi sinh
GS Nguyễn Quang Thạch đưa ra một ví dụ: Trong nuôi bò phun EM vào thức ăn, bò sẽ không bị bệnh đường ruột, phân không hôi, mang lại sữa chất lượng cao…. Vậy EM là gì, tác dụng của EM như nào GS Thạch cho biết: EM là tập hợp của 80 loài sinh vật thuộc 10 chi khác nhau với 5 nhóm vi sinh vật chủ yếu: Vi khuẩn Lactic; vi khuẩn Bacillus; vi khuẩn quang hợp; nấm men; nấm sợi.
Dựa trên nguyên tắc hoạt động và phối chế của chế phẩm EM, nhiều cơ quan ở Việt Nam đã nghiên cứu và sản xuất ra EM của Việt Nam như: EMUNI của trường Đại học Khoa học tự nhiên, EMINA của Viện Sinh học Nông nghiệp, trường đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Chế phẩm EMINA là chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu chủ yếu gồm: Vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn Bacillus, vi khuẩn Bacillus và nấm men Saccharonmyces. Có tác dụng tăng cường đa dạng vi sinh vật đất, bổ sung các vi sinh vật có ích vào môi trường tự nhiên, giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường do các vi sinh vật có hại gây ra, cải thiện chất lượng và tăng cường hiệu quả của việc sử dụng chất hữu cơ của cây trồng, tăng khả năng chuyển hóa thức ăn, kích thích tốc độ phát triển của vật nuôi.
Ứng dụng vi sinh vật bản địa trong canh tác nông nghiệp hữu cơ
PGS.TS Trần Thị Hạnh – Giám đốc trung tâm nghiên cứu chuyển giao và dịch vụ công nghệ sinh học hữu cơ, Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam trình bày các ứng dụng cũng như giá trị của vi sinh vật bản địa mang lại cho nền nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
PGS Hạnh nêu lên định nghĩa vi sinh vật bản là những vi sinh tồn tại trong môi trường tự nhiên thích nghi tốt với điều kiện với môi trường nới chúng ở và phân hủy nhanh các chất hữu cơ.
Bà cũng đưa ra 7 lý do nên sử dụng vi sinh vật bản địa để sản xuất chế phẩm sinh học: Một là, các chủng vi sinh vật hữu ích bản đại là chủng gốc, bắt bẫy từ môi trường tự nhiên; Hai là, các chế phẩm từ chủng gốc bản địa phù hợp với điều kiện sinh thái của địa phương; Ba là, nguyên liệu sản xuất các chế phẩm vi sinh vật sẵn có tại các địa phương, phù hợp cho canh tác hữu cơ; Bốn là, sản xuất chế phẩm có thể thực hiện được ở mọi nơi địa bàn, cơ sở hạ tầng đơn giản; Năm là, không yêu cầu nhà xưởng, phòng thí nghiệm hay máy móc thiết bị hiện đại; Sáu là, có thể sử dụng nguồn lao động nông nhàn của địa phương; Bảy là, chất lượng và giá cả thành phẩm có khả năng cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Với những ưu điểm đó, vi sinh vật bản địa được ứng dụng vào nông nghiệp như: khử mùi hôi cho chuồng trại giúp chuồng hết mùi hôi ngay sau khi phun dung dịch VOH2; nuôi lợn, gà bằng đệm lót sinh học sẽ giúp khử mùi hôi, giúp vật nuôi không tiêu chảy, không sử dụng bất kỳ kháng sinh nào…; ủ thức ăn bằng VOH5; xử lý nước ao nuôi cá bằng VOH6; điều trị bệnh tiêu chảy lợn bằng VOH10…
Những giá trị của vi sinh vật mang lại cho nền nông nghiêp hữu cơ giá trị lớn, tuy nhiên PGS.TS Trần Thị Hạnh cũng cho biết để triển khai cho nền nông nghiệp hữu cơ nước nhà còn gặp nhiều khó khăn thách thức như: rào cản pháp lý bởi các tiêu chuẩn, quy chuẩn; yếu tố chủ quan như hạn chế về nguồn nhân lực, thương hiệu; yếu tố khách quan bởi sự cạnh tranh sản phẩm ngoại, hiểu biết về sinh vật bản địa còn hạn chế, tâm lý thiên đồ ngoại của người dân,….
Đỗ Phương