Cà phê – Không thể thiếu trong đời sống của người Việt

LNV – Không biết từ bao giờ, cà phê trở thành thức uống trong cuộc sống của người Việt. Thậm chí, có nhiều người, một ngày không uống ít nhất một cốc cà phê, trong người cảm thấy bị thiếu cái gì đó, lâng lâng khó tả. Tuy nhiên, do thời tiết và văn hóa vùng miền, mà thói quen uống cà phê của mỗi người khác nhau. Chúng ta thấy rõ nhất là người Hà Nội, người Huế và Sài Gòn có cách thưởng thức cà phê vô cùng khác biệt.

Người Hà Nội uống cà phê cũng tương đối giống Huế, đó là uống cà phê uống với đường hoặc sữa đặc. Nhưng, vì thời tiết Hà Nội lạnh hơn Huế, nên họ thường ít uống đá. Có 4 cách gọi khác nhau: nâu đá (cà phê sữa đá), đen đá (cà phê đen đá), nâu (cà phê sữa không đá), đen (cà phê đen không đá). Ngoài ra, người Hà Nội còn có một loại cà phê mà không nơi nào có đó là cà phê trứng. Lấy trứng gà đánh bông lên rồi pha chế với cà phê.

Mỗi khi đến quán cà phê họ cũng có thói quen ngồi lâu cà kê dê ngỗng. Hà Nội cũng là thành phố lớn, nên không thể có không gian trong lành và yên tĩnh như ở Huế. Thế nên, người Hà Nội vẫn phởn phơ, thong dong uống cà phê không phân biệt là ngồi ở cái quán sang trọng hay quán tềnh toàng. Nhưng, người Hà Nội không siêng uống cà phê như người Huế. Họ không có thói quen uống cà phê sáng, chỉ trừ những người có thời gian rảnh rỗi. Người Hà Thành thường đi quán cà phê vào buổi tối. Họ uống cà phê trong cốc thủy tinh nhỏ hoặc cốc sứ. Lượng cà phê pha vào mỗi cốc nhiều hơn ở Huế một chút và cũng loãng hơn. Cà phê đá thì thường được uống với đá cục to. Khu cà phê nổi tiếng nhất Hà Nội vẫn là Hàng Hành. 04 quán cà phê lâu đời nổi danh nhất của Thủ đô là: Nhân, Đinh, Giảng, Lâm.

Cafe với Hà Nội không chỉ là một món đồ uống đơn thuần, mà nó đã trở thành một nét văn hóa trong đời sống: một thứ đồ uống “gốc Tây” được Việt hóa theo cách rất riêng. Cafe xóa nhòa hoàn toàn ranh giới giàu nghèo và khoảng cách sang hèn, bởi ai cũng có thể tự thưởng cho mình một ly cafe thơm lừng sau những giờ lao động mệt nhọc.
 

Khác với người Huế và Hà Nội, các uống cà phê của người Sài Gòn hết sức hào sảng. Người Sài Gòn coi cà phê không chỉ là thức uống để ngồi nhâm nhi, thưởng thức mà còn để giải khát. Thế nên, khi vào Sài Gòn mùa hè, bạn sẽ thỉnh thoảng thấy ai đó đang đi, vội tạt vào một quầy hoặc quán nước ven đường, mua một ly hoặc bịch cà phê, tu một hơi xong rồi đi, như thể uống nước giải khát.

Người Sài Gòn pha chế cà phê cũng khác với các nơi khác như cho nhiều đá, nhiều sữa nhưng ít cà phê. Ly cà phê Sài Gòn trông chẳng khác gì ly coca cola, cả về màu sắc lẫn trọng lượng cũng như công dụng. Vào quán cà phê, nếu bạn kêu một ly và phê sữa hoặc cà phê đá, họ sẽ đưa ra một ly to đùng gồm đủ tất cả thành phần. Và việc bạn làm là chỉ cần uống, không phải động tay động chân gì nữa.

Nếu một người Hà Nội và Huế lần đầu vào Sài Gòn thì chuyện đi uống cà phê có lẽ hết sức ngỡ ngàng và “sốc”.

Người Sài Gòn còn uống cà phê cho đá bào và uống bằng ống hút, trong khi người Huế và Hà Nội lấy đá to để uống cà phê, đá nhỏ chỉ uống nước trà. Người Sài gòn uống cà phê cũng rất ngọt, gần như át hết vị đắng của cà phê. Chưa nói, cà phê của họ pha đã vốn rất loãng. Hầu hết người Hà Nội và Huế không quen uống một ly cà phê Sài Gòn pha sẵn.  Bởi nó vừa nhiều, vị nhạt mà lại quá ngọt. Còn người Sài Gòn cũng không thể uống cà phê kiểu Hà Nội hay Huế, bởi nó quá đậm và phải “uống chậm”.

Vào Sài Gòn, nếu thấy ai đó ngồi lâu ở quán, thì người đó có thể là dân nhập cư. Còn người Sài Gòn đến quán cà phê để ăn trưa, bàn công việc, uống vội cà phê sáng để đi làm…xong việc là dậy đi, ít khi cà kê. Một điều đặc biệt nữa ở Sài Gòn là quán cà phê càng sang trọng thì cà phê càng dở và ngược lại. Chẳng hiểu tại sao! Vào Sài Gòn, muốn uống cốc cà phê đúng điệu theo kiểu Trung hoặc Bắc, bạn phải biết cách gọi: cho anh/chị một cà phê (ít sữa) pha phin.
 

Vào quán cà phê  ở Hà Nội và Huế thì khách hàng phải kêu khản cổ, nhân viên mới cho thêm nước nhưng tại Sài Gòn: nước, trà đá uống thoải mái, khi nào chán thì thôi. Ở Hà Nội, ngồi quán cà phê lâu có thể bị buổi; Huế và Sài Gòn thì không như vậy.

Yêu một người cũng giống yêu 1 hương vị cà phê. Nhưng cả tình yêu và cà phê, đều nên cần thời gian để trải nghiệm lắng đọng, để có thể cảm nhận thẩm thấu, giao thoa và hiểu sâu về nhau, để dung hòa các khác biệt để sự mới lạ có thể chạm vào và thậm chí trở thành một phần không thể thiếu của bản ngã.

Cảm xúc khi yêu một người cũng chẳng khác nhiều hơn khi được nếm 1 tách cà phê ngon. Ban đầu mang đắng, mới lạ, nhưng càng lâu, chất đắng thành ngọt, chất lạ thành quen, nét ban sơ trở thành gần gũi, nét mới lạ trở thành sự thân quen để rồi không thể thiếu, không thể tách rời nhau.

Và lúc đã yêu say đắm rồi, người ta thường chung thủy, trung thành đến tuyệt đối với lựa chọn của mình. “Khó có thể quay lưng lại với tình yêu cũng như khó từ bỏ 1 hương vị cà phê đã gắn bó quen thuộc”.

“Tình yêu cũng giống cà phê vậy, uống nhanh thì dễ say, dễ mệt. Nhưng thưởng thức chầm chậm thì dễ thấm, dễ thăng hoa”. Có lẽ vậy, mà các buổi hẹn đầu tiên của đôi lứa chẳng thể nào tách rời vài tách cà phê. Từ xưa đến nay vẫn luôn là thế…

Cà phê trong mắt người yêu thức uống này cũng có vị trí tương tự. Nếu hết vị cà phê phù hợp, người ta thà không uống chứ không thỏa hiệp bằng 1 mẫu khác mà bản thân mình không yêu. Một khi “nghiện” thì không thể gác lại người ta có thể chạy xe 1 vòng thành phố chỉ để được chạm đầu lưỡi hương vị cà phê phù hợp ở một quán quen. Một khi đã yêu người ta có thể bất chấp cả tính mạng hay từ bỏ bất cứ thứ gì để có được. Đấy chính là sức mạnh của tình yêu. Người khao khát tìm về với hương vị cà phê đã trót yêu từ ngày đầu thưởng thức. Hay là trước những cám dỗ xa hoa đẹp dẽ của cuộc đời vẫn quay về nơi cũ – nơi có người ấy vẫn chờ. “Mối tình đầu bao giờ cũng vô cùng khó phai, và mùi vị cà phê “quen” cũng khó có thể thay 

Cà phê vợt ở hẻm Phan Đình Phùng, Q.Phú Nhuận, TP HCM: Điều đặc biệt quán bán tất cả các ngày trong năm, nơi đây còn ghi dấu ấn khi cà phê được pha chế bằng vợt thiếc thay vì phin như cách pha thông thường. Cà phê được cho vào vợt thiếc, rót một ít nước sôi vào ngâm, khi có khách gọi thì người bán sẽ châm thêm nước luôn sôi sùng sục ở lò bên cạnh, kéo vợt, chắt cà phê cốt đậm đặc, thêm sữa hoặc đường, thêm đá.

Hương vị của những ly cà phê này cũng đặc biệt như cách chế biến của nó vậy, thơm lựng, đậm đà dư sức để bạn ngồi hóng mát trong con hẻm nhỏ yên bình giữa Sài Gòn tấp nập hàng giờ liền. Không chỉ vậy, bạn chắc chắn cũng sẽ mê mẩn khi quan sát những động tác kéo vợt, pha cà phê vô cùng nhanh nhẹn, điêu luyện và sự cởi mở của chủ quán. Đó là lý do mà quán cà phê cóc với thâm niên gần 60 năm này thực sự là điểm hẹn thân thiết của nhiều người.

Cà phê Giảng: Sẽ thật thiếu sót nếu ta liệt kê tên những quán cà phê lâu đời nhất Hà Nội mà thiếu đi cà phê Giảng trong số đó. Người sáng lập ra quán là cụ Nguyễn Văn Giảng, từng là nhân viên pha chế ở khách sạn Metrophole thời Pháp thuộc. Món cà phê trứng lừng danh nơi đây đã được cụ cải biến từ chính thức uống capuchino khi còn làm ở Metrophole lúc bấy giờ. Vị cà phê đậm đà hòa quyện cùng vị thơm ngậy của lòng đỏ trứng gà, thêm chút hương kem ngọt ngào. Ở Giảng, nếu không uống được cafe, vì sợ vị đắng, các bạn hoàn toàn có thể nhâm nhi một ly ca cao trứng thơm phức và ngọt vô cùng. Cacao đặc sánh, lẫn trong lớp trứng bông tơi, cũng như điểm xuyết chút tình đượm giữa sương khói trắng mong manh.
 

Cà phê muối Huế: Nếu Sài Gòn có cà phê sữa đá, Hà Nội có cà phê trứng được mệnh danh “cappuccino của Việt Nam”, người Huế luôn ánh lên tự hào nói về cà phê muối – đặc sản cà phê đất cố đô. Đến Huế mà chưa uống cà phê muối thì chưa khó có thể khám phá văn hóa cà phê của đất cố đô.

Cà phê Huế vốn đã thơm nồng, ngây ngất vị đắng trên đầu lưỡi, nay lại thêm lớp sữa tươi lên men béo bùi, chút muối tinh mằn mặn,… nguyên liệu tưởng chừng cơ bản, ấy vậy mà tất cả tạo nên hương vị đặc trưng của ly cà phê muối trứ danh.Một chút muối góp phần làm tiết chế vị đắng gắt của cà phê và tôn vinh vị ngọt thơm của sữa hẳn là một sáng tạo hương vị tinh tế của người pha chế. Cà phê muối đòi hỏi sự khéo léo trong pha chế: Tỉ lệ các nguyên liệu phải được tính toán chuẩn xác, không quá ngọt béo, cũng không quá mặn nồng, giữ được vị cà phê đặc trưng.

Bài, ảnh: Doãn Ngọc

Văn hóa cà phê của người Huế có thể gói gọn trong ba từ: đậm đặc, tinh tế và chậm rãi. Giống y như tính cách của con người vùng đất này. Do cuộc sống nơi đây không cần vội vã, không có nhiều khu vui chơi giải trí… nên họ có thể uống cà phê trong bất cứ thời gian nào của ngày: sáng, trưa, tối. Vào mùa hè nóng bức, các quán cà phê quanh sông Hương lúc nào cũng đầy khách.Người Hà Nội uống cà phê cũng tương đối giống Huế, đó là uống cà phê uống với đường hoặc sữa đặc. Nhưng, vì thời tiết Hà Nội lạnh hơn Huế, nên họ thường ít uống đá. Có 4 cách gọi khác nhau: nâu đá (cà phê sữa đá), đen đá (cà phê đen đá), nâu (cà phê sữa không đá), đen (cà phê đen không đá). Ngoài ra, người Hà Nội còn có một loại cà phê mà không nơi nào có đó là cà phê trứng. Lấy trứng gà đánh bông lên rồi pha chế với cà phê.Mỗi khi đến quán cà phê họ cũng có thói quen ngồi lâu cà kê dê ngỗng. Hà Nội cũng là thành phố lớn, nên không thể có không gian trong lành và yên tĩnh như ở Huế. Thế nên, người Hà Nội vẫn phởn phơ, thong dong uống cà phê không phân biệt là ngồi ở cái quán sang trọng hay quán tềnh toàng. Nhưng, người Hà Nội không siêng uống cà phê như người Huế. Họ không có thói quen uống cà phê sáng, chỉ trừ những người có thời gian rảnh rỗi. Người Hà Thành thường đi quán cà phê vào buổi tối. Họ uống cà phê trong cốc thủy tinh nhỏ hoặc cốc sứ. Lượng cà phê pha vào mỗi cốc nhiều hơn ở Huế một chút và cũng loãng hơn. Cà phê đá thì thường được uống với đá cục to. Khu cà phê nổi tiếng nhất Hà Nội vẫn là Hàng Hành. 04 quán cà phê lâu đời nổi danh nhất của Thủ đô là: Nhân, Đinh, Giảng, Lâm.Cafe với Hà Nội không chỉ là một món đồ uống đơn thuần, mà nó đã trở thành một nét văn hóa trong đời sống: một thứ đồ uống “gốc Tây” được Việt hóa theo cách rất riêng. Cafe xóa nhòa hoàn toàn ranh giới giàu nghèo và khoảng cách sang hèn, bởi ai cũng có thể tự thưởng cho mình một ly cafe thơm lừng sau những giờ lao động mệt nhọc.Khác với người Huế và Hà Nội, các uống cà phê của người Sài Gòn hết sức hào sảng. Người Sài Gòn coi cà phê không chỉ là thức uống để ngồi nhâm nhi, thưởng thức mà còn để giải khát. Thế nên, khi vào Sài Gòn mùa hè, bạn sẽ thỉnh thoảng thấy ai đó đang đi, vội tạt vào một quầy hoặc quán nước ven đường, mua một ly hoặc bịch cà phê, tu một hơi xong rồi đi, như thể uống nước giải khát.Người Sài Gòn pha chế cà phê cũng khác với các nơi khác như cho nhiều đá, nhiều sữa nhưng ít cà phê. Ly cà phê Sài Gòn trông chẳng khác gì ly coca cola, cả về màu sắc lẫn trọng lượng cũng như công dụng. Vào quán cà phê, nếu bạn kêu một ly và phê sữa hoặc cà phê đá, họ sẽ đưa ra một ly to đùng gồm đủ tất cả thành phần. Và việc bạn làm là chỉ cần uống, không phải động tay động chân gì nữa.Nếu một người Hà Nội và Huế lần đầu vào Sài Gòn thì chuyện đi uống cà phê có lẽ hết sức ngỡ ngàng và “sốc”.Người Sài Gòn còn uống cà phê cho đá bào và uống bằng ống hút, trong khi người Huế và Hà Nội lấy đá to để uống cà phê, đá nhỏ chỉ uống nước trà. Người Sài gòn uống cà phê cũng rất ngọt, gần như át hết vị đắng của cà phê. Chưa nói, cà phê của họ pha đã vốn rất loãng. Hầu hết người Hà Nội và Huế không quen uống một ly cà phê Sài Gòn pha sẵn. Bởi nó vừa nhiều, vị nhạt mà lại quá ngọt. Còn người Sài Gòn cũng không thể uống cà phê kiểu Hà Nội hay Huế, bởi nó quá đậm và phải “uống chậm”.Vào Sài Gòn, nếu thấy ai đó ngồi lâu ở quán, thì người đó có thể là dân nhập cư. Còn người Sài Gòn đến quán cà phê để ăn trưa, bàn công việc, uống vội cà phê sáng để đi làm…xong việc là dậy đi, ít khi cà kê. Một điều đặc biệt nữa ở Sài Gòn là quán cà phê càng sang trọng thì cà phê càng dở và ngược lại. Chẳng hiểu tại sao! Vào Sài Gòn, muốn uống cốc cà phê đúng điệu theo kiểu Trung hoặc Bắc, bạn phải biết cách gọi: cho anh/chị một cà phê (ít sữa) pha phin.Vào quán cà phê ở Hà Nội và Huế thì khách hàng phải kêu khản cổ, nhân viên mới cho thêm nước nhưng tại Sài Gòn: nước, trà đá uống thoải mái, khi nào chán thì thôi. Ở Hà Nội, ngồi quán cà phê lâu có thể bị buổi; Huế và Sài Gòn thì không như vậy.Yêu một người cũng giống yêu 1 hương vị cà phê. Nhưng cả tình yêu và cà phê, đều nên cần thời gian để trải nghiệm lắng đọng, để có thể cảm nhận thẩm thấu, giao thoa và hiểu sâu về nhau, để dung hòa các khác biệt để sự mới lạ có thể chạm vào và thậm chí trở thành một phần không thể thiếu của bản ngã.Cảm xúc khi yêu một người cũng chẳng khác nhiều hơn khi được nếm 1 tách cà phê ngon. Ban đầu mang đắng, mới lạ, nhưng càng lâu, chất đắng thành ngọt, chất lạ thành quen, nét ban sơ trở thành gần gũi, nét mới lạ trở thành sự thân quen để rồi không thể thiếu, không thể tách rời nhau.Và lúc đã yêu say đắm rồi, người ta thường chung thủy, trung thành đến tuyệt đối với lựa chọn của mình. “Khó có thể quay lưng lại với tình yêu cũng như khó từ bỏ 1 hương vị cà phê đã gắn bó quen thuộc”.“Tình yêu cũng giống cà phê vậy, uống nhanh thì dễ say, dễ mệt. Nhưng thưởng thức chầm chậm thì dễ thấm, dễ thăng hoa”. Có lẽ vậy, mà các buổi hẹn đầu tiên của đôi lứa chẳng thể nào tách rời vài tách cà phê. Từ xưa đến nay vẫn luôn là thế…Cà phê trong mắt người yêu thức uống này cũng có vị trí tương tự. Nếu hết vị cà phê phù hợp, người ta thà không uống chứ không thỏa hiệp bằng 1 mẫu khác mà bản thân mình không yêu. Một khi “nghiện” thì không thể gác lại người ta có thể chạy xe 1 vòng thành phố chỉ để được chạm đầu lưỡi hương vị cà phê phù hợp ở một quán quen. Một khi đã yêu người ta có thể bất chấp cả tính mạng hay từ bỏ bất cứ thứ gì để có được. Đấy chính là sức mạnh của tình yêu. Người khao khát tìm về với hương vị cà phê đã trót yêu từ ngày đầu thưởng thức. Hay là trước những cám dỗ xa hoa đẹp dẽ của cuộc đời vẫn quay về nơi cũ – nơi có người ấy vẫn chờ. “Mối tình đầu bao giờ cũng vô cùng khó phai, và mùi vị cà phê “quen” cũng khó có thể thay: Điều đặc biệt quán bán tất cả các ngày trong năm, nơi đây còn ghi dấu ấn khi cà phê được pha chế bằng vợt thiếc thay vì phin như cách pha thông thường. Cà phê được cho vào vợt thiếc, rót một ít nước sôi vào ngâm, khi có khách gọi thì người bán sẽ châm thêm nước luôn sôi sùng sục ở lò bên cạnh, kéo vợt, chắt cà phê cốt đậm đặc, thêm sữa hoặc đường, thêm đá.Hương vị của những ly cà phê này cũng đặc biệt như cách chế biến của nó vậy, thơm lựng, đậm đà dư sức để bạn ngồi hóng mát trong con hẻm nhỏ yên bình giữa Sài Gòn tấp nập hàng giờ liền. Không chỉ vậy, bạn chắc chắn cũng sẽ mê mẩn khi quan sát những động tác kéo vợt, pha cà phê vô cùng nhanh nhẹn, điêu luyện và sự cởi mở của chủ quán. Đó là lý do mà quán cà phê cóc với thâm niên gần 60 năm này thực sự là điểm hẹn thân thiết của nhiều người.: Sẽ thật thiếu sót nếu ta liệt kê tên những quán cà phê lâu đời nhất Hà Nội mà thiếu đi cà phê Giảng trong số đó. Người sáng lập ra quán là cụ Nguyễn Văn Giảng, từng là nhân viên pha chế ở khách sạn Metrophole thời Pháp thuộc. Món cà phê trứng lừng danh nơi đây đã được cụ cải biến từ chính thức uống capuchino khi còn làm ở Metrophole lúc bấy giờ. Vị cà phê đậm đà hòa quyện cùng vị thơm ngậy của lòng đỏ trứng gà, thêm chút hương kem ngọt ngào. Ở Giảng, nếu không uống được cafe, vì sợ vị đắng, các bạn hoàn toàn có thể nhâm nhi một ly ca cao trứng thơm phức và ngọt vô cùng. Cacao đặc sánh, lẫn trong lớp trứng bông tơi, cũng như điểm xuyết chút tình đượm giữa sương khói trắng mong manh.: Nếu Sài Gòn có cà phê sữa đá, Hà Nội có cà phê trứng được mệnh danh “cappuccino của Việt Nam”, người Huế luôn ánh lên tự hào nói về cà phê muối – đặc sản cà phê đất cố đô. Đến Huế mà chưa uống cà phê muối thì chưa khó có thể khám phá văn hóa cà phê của đất cố đô.Cà phê Huế vốn đã thơm nồng, ngây ngất vị đắng trên đầu lưỡi, nay lại thêm lớp sữa tươi lên men béo bùi, chút muối tinh mằn mặn,… nguyên liệu tưởng chừng cơ bản, ấy vậy mà tất cả tạo nên hương vị đặc trưng của ly cà phê muối trứ danh.Một chút muối góp phần làm tiết chế vị đắng gắt của cà phê và tôn vinh vị ngọt thơm của sữa hẳn là một sáng tạo hương vị tinh tế của người pha chế. Cà phê muối đòi hỏi sự khéo léo trong pha chế: Tỉ lệ các nguyên liệu phải được tính toán chuẩn xác, không quá ngọt béo, cũng không quá mặn nồng, giữ được vị cà phê đặc trưng.