CƠ SỞ SINH THÁI HỌC CỦA SỨC KHOẺ VÀ BỆNH TẬT

Nội Dung Chính

CƠ SỞ SINH THÁI HỌC CỦA SỨC KHOẺ VÀ BỆNH TẬT

CON NGƯỜI VÀ HỆ SINH THÁI

Thế nào là một hệ sinh thái?

Hệ sinh thái là một quần xã động vật, thực vật và vi sinh vật sống, tác động qua lại với nhau và với môi trường xung quanh. Hệ sinh thái bao gồm cả thành phần lý học và hoá học như đất, nước và các chất dinh dưỡng cung cấp cho các sinh vật sống trong nó. Những sinh vật này có thể là những động vật, thực vật bậc cao, với cấu trúc cơ thể phức tạp nhưng cũng có thể là các vi sinh vật nhỏ bé. Hệ sinh thái bao gồm những mối tác động qua lại giữa các sinh vật sống trong một sinh cảnh nhất định và con người là một phần của hệ sinh thái. Sức khoẻ và sự phồn thịnh của xã hội loài người phụ thuộc vào những lợi ích mà hệ sinh thái mang lại.

Con người đã được hưởng rất nhiều sản phẩm của các hệ sinh thái tự nhiên như thức ăn, động – thực vật làm cảnh, gỗ để xây dựng và làm nhiên liệu, cùng vô vàn các loài động vật, thực vật rất có giá trị trong công tác phòng và chữa bệnh. Những sản phẩm này chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, gần đây người ta mới nhận thấy rằng các hệ sinh thái tự nhiên còn đóng nhiều vai trò hết sức quan trọng khác cho sự tồn tại và phát triển của con người. Một số vai trò quan trọng có thể được kể đến là khả năng làm sạch không khí và nước, giải độc và phân giải các loại rác thải, điều hoà khí hậu, tăng sự màu mỡ cho đất, kiểm soát hầu hết các động – thực vật có hại cho nông nghiệp, tạo ra và duy trì đa dạng sinh học cung cấp giống cho nông nghiệp, nguyên vật liệu cho công nghiệp, dược liệu v.v. Những lợi ích này tương đương hàng nghìn tỷ đô la mỗi năm, tuy nhiên hầu như không được quy thành tiền để có thể thức tỉnh nhận thức con người nhằm thay đổi các hành vi làm tổn hại tới hệ sinh thái . 

Các hoạt động của con người và những tác động lên hệ sinh thái

Các hệ sinh thái tự nhiên tham gia vào rất nhiều quá trình khác nhau và có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới con người và các sinh vật khác. Những hoạt động của con người trong môi trường đã, đang và sẽ làm thay đổi rất nhiều quá trình tự nhiên này theo một chiều hướng bất lợi cho sức khoẻ và sự phồn thịnh của chính xã hội loài người. Bảng 3.1 tóm tắt một số quá trình tự nhiên và những tác động của con người lên những quá trình này.

Bảng 3.1. Những ảnh hưởng của con người lên một số quá trình diễn ra trong hệ sinh thái

Các quá trình của hệ sinh thái

Tác động của con người

Quá trình tạo đất

Các hoạt động trong nông nghiệp đã tăng sự tiếp xúc của lớp đất bề mặt với mưa nắng, cùng với việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật và kích thích sinh trưởng đã làm giảm đáng kể lớp đất bề mặt màu mỡ

Kiểm soát chu trình nước

Việc chặt phá rừng bừa bãi và các hoạt động khác của con người  đã gây ra lụt lội, lũ quét hay hạn hán ở nhiều nơi

Phân giải các loại rác thải

Nước thải, rác thải không qua xử lý và nước thải chảy từ đồng ruộng, trang trại chăn nuôi làm tăng ô nhiễm nước

Dòng năng lượng

Một số ngành công nghiệp và nhà máy hạt nhân đã làm tăng nhiệt độ của bầu khí quyển bao quanh trái đất. Các hoạt động đốt cháy nhiên liệu hoá thạch sẽ phát thải ra các khí nhà kính và có thể dần dần làm tăng nhiệt độ trái đất (hiệu ứng nhà kính)

Chu trình tự nhiên của các chất dinh dưỡng

Việc sử dụng các nguyên liệu không phân huỷ được và các hoạt động chôn lấp rác đã ngăn cản quá trình hoàn trả lại môi trường nhiều nguyên liệu hữu ích

Con người là một phần của hệ sinh thái trên trái đất. Những hoạt động của con người có thể có lợi hay có hại đối với sự cân bằng của hệ sinh thái. Việc phá hoại nơi sinh sống của các loài động – thực vật do các hoạt động vô tình hay cố ý của con người, đều đe dọa đến sự cân bằng của các hệ sinh thái trên trái đất. Nếu những tác động này không được giải quyết thì sự ổn định của nhiều hệ sinh thái sẽ bị phá vỡ mà không có khả năng phục hồi. Con người có thể ảnh hưởng lên hệ sinh thái theo nhiều khía cạnh khác nhau (bảng 3.2).

Bảng 3.2. Những tác động tiêu cực mà con người gây ra cho các hệ sinh thái

Hoạt động của con người

ảnh hưởng lên hệ sinh thái

Gia tăng dân số

Gia tăng dân số dẫn đến gia tăng tốc độ tiêu thụ nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo và không tái tạo trên trái đất

Tiêu thụ ồ ạt

Nền công nghiệp những nước phát triển tiêu thụ nhiều tài nguyên trên đầu người hơn những nước nghèo và chậm phát triển

Các kỹ thuật tiên tiến

Sản xuất ra và ứng dụng vô vàn các kỹ thuật hiện đại mà không hiểu rõ những tác động tiềm tàng mà nó sẽ gây ra cho môi trường sinh thái

Chặt phá rừng

Làm mất đi một diện tích rất lớn rừng nhiệt đới và các sản phẩm của đa dạng sinh học trong các khu rừng này

Làm gia tăng ô nhiễm môi trường

Ô nhiễm đất, nước, không khí và phóng xạ đã có nhiều

ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh thái

Gây ra những thay đổi trong khí quyển

Bao gồm sự gia tăng của các khí nhà kính mà chủ yếu là hậu quả của quá trình đốt cháy các loại nhiên liệu hoá thạch và sự suy giảm ozon ở tầng bình lưu 

Gia tăng dân số tác động trực tiếp tới  quá trình đô thị hoá và sự lan tràn bệnh dịch. Trong một nghìn năm qua, dân số thế giới đã gia tăng với một tốc độ chóng mặt. Bảng 3.3 đưa ra số liệu ước lượng về dân số trên thế giới vào một số năm cụ thể từ năm 1000 đến năm 2050.

Bảng 3.3. Dân số thế giới ước tính vào một số thời điểm nhất định

Dân số thế giới vào một số thời điểm

1000

5 triệu

1650

500 triệu

1850

1 tỷ

1950

2, 5 tỷ

2000

6 tỷ

2050

8-12 tỷ (ước tính)

Nguồn: Sir McCartney P.(2002). Global Environmental Change: Human Impacts …in this ever-changing world in which we live in.

Gia tăng dân số làm tăng tốc độ đô thị hoá, người dân ở nông thôn di cư ra thành phố để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân cũng như cho tương lai của thế hệ con cháu. Trước những năm 1950, dân số sống ở đô thị trên thế giới chỉ chiếm khoảng dưới 30%, nhưng đến năm 2050 thì con số này ước tính sẽ tăng lên tới hơn 60%. Vào năm 2000, trên thế giới có khoảng 20 thành phố với số dân vượt quá 10 triệu người (McCartney, 2002). Điều kiện sống đông đúc chật hẹp, vệ sinh môi trường kém do quá trình đô thị hoá xảy ra mạnh mẽ ở nhiều nơi tạo điều kiện cho các bệnh truyền nhiễm phát triển và lây lan. Một số bệnh dịch phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển làm nhiều người mắc và chết là các bệnh tiêu chảy, lao phổi, sốt rét và tả. Ngoài ra còn có nhiều bệnh mới nảy sinh hay các bệnh cũ quay trở lại do sự thay đổi các hệ sinh thái. Điều này chứng tỏ mối tương quan chặt chẽ giữa gia tăng dân số, thay đổi môi trường sinh thái và sức khoẻ con người.

Các hoạt động của con người trong thời gian qua đã có những ảnh hưởng tiêu cực tới trạng thái cân bằng của nhiều hệ sinh thái. Mối đe dọa trước mắt là sự phá hoại những nơi sinh sống tự nhiên của sinh vật cũng như sự xâm nhập của các loài lạ xảy ra sau khi sinh cảnh bị tàn phá. Đối với hệ sinh thái biển thì việc đánh bắt cá và các loài hải sản tràn lan là một mối đe dọa lớn tới sự cân bằng và phồn thịnh của các hệ sinh thái ở đây. Một trong những tác động lớn nhất mà con người gây ra cho hệ sinh thái đó là làm mất đa dạng sinh học tự nhiên. Theo ước tính của Lawton và May (1995), cứ mỗi giờ qua đi trên thế giới sẽ có một loài bị tuyệt chủng nhưng đáng tiếc là trong quá trình tiến hoá phải mất tới 10.000 năm hoặc thậm chí lâu hơn mới sinh ra được một loài mới. Các mối đe dọa khác tới hệ sinh thái bao gồm sự thay đổi chu trình carbon, nitơ và các chất hoá học khác trên trái đất do tác động của quá trình đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch, sử dụng phân bón chứa nitơ trong sản xuất nông nghiệp với một lượng lớn v.v. Tuy nhiên, một trong những ảnh hưởng lớn nhất do các hoạt động của con người gây ra và thường được bàn tới trong những năm gần đây, đó là sự thay đổi khí hậu trên toàn cầu. Tác động này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các hệ sinh thái cũng như tới sức khoẻ của con người.

Hậu quả của thay đổi khí hậu và biến đổi hệ sinh thái

Theo nhiều nhà khoa học, sự thay đổi khí hậu mà nguyên nhân là do chính các hoạt động của con người gây ra – đặc biệt là sự ấm lên trên toàn cầu (global warming) do sự gia tăng nồng độ khí carbon dioxyd và các khí nhà kính khác trong khí quyển đã gây ra những tác động tiêu cực lên sức khoẻ của cộng đồng. Các nhà khí tượng học dự đoán rằng, do sự tích tụ của các khí nhà kính mà khí hậu toàn cầu sẽ thay đổi với một tốc độ nhanh hơn rất nhiều trong khoảng thời gian kể từ 10.000 năm trở lại đây. Trong thế kỷ qua, nhiệt độ trung bình trên bề mặt trái đất tăng khoảng 0,30C đến 0,60C. Theo Sidney và Raso (1998), các mô hình dự báo khí hậu toàn cầu được thực hiện trên máy vi tính hiện đại đã tiên đoán rằng: nếu nồng độ các khí nhà kính vẫn tiếp tục tăng như dự đoán thì đến năm 2100 nhiệt độ trung bình trên trái đất sẽ tăng lên từ 10C đến 3,50C. Nhiệt độ tăng lên sẽ thay đổi hệ sinh thái và ảnh hưởng tới sức khoẻ con người như thế nào? Liệu chúng ta có thể dự đoán được một cách chính xác các hậu quả của sự thay đổi khí hậu lên cuộc sống để từ đó có những hành động hay chương trình bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng? Cho tới nay, có rất nhiều người trong số chúng ta còn chưa hiểu được những tác hại mà việc thay đổi khí hậu có thể gây ra cho sức khoẻ con người. Mối liên hệ sẽ trở nên rõ ràng hơn một khi chúng ta nhận ra rằng sức khoẻ con người và sự phồn thịnh của xã hội phụ thuộc vào sự phồn thịnh của các hệ sinh thái tự nhiên trên trái đất, đồng thời những thay đổi trong mô hình khí hậu và những ảnh hưởng lên hệ sinh thái sẽ là nguy cơ cho sức khoẻ con người. Các nhà khoa học dự đoán rằng khí hậu thay đổi sẽ có nhiều tác động mà hầu hết là tiêu cực tới sức khoẻ cộng đồng. Xem hộp 3.1 về tác động của En Ni-nô lên sức khoẻ cộng đồng. Một số tác động tiêu cực của khí hậu thay đổi và mất cân bằng sinh thái lên xã hội chúng ta sẽ được trình bày trong hộp 3.1.

Hộp 3.1.  En ni-nô và sức khỏe cộng đồng

ở nhiều vùng trên thế giới, trong thời gian xẩy ra En Ni-nô thì các bệnh truyền qua véc-tơ và các bệnh truyền qua nước tăng lên rõ rệt. Lũ lụt sinh ra những vũng chứa nước ngọt tạo điều kiện cho muỗi sinh sôi nảy nở. Đợt En Ni-nô xảy ra vào năm 1997-1998 được xem là mạnh nhất trong thế kỷ 20 đã gây hậu quả ở nhiều nơi trên thế giới. Hạn hán nặng và cháy rừng xảy ra ở nhiều nước thuộc châu á, các nước vùng Địa Trung Hải, vùng Amazon, các khu rừng nhiệt đới ở Mexico, Trung Mỹ và các bang California, Florida ở Mỹ; ngứa mắt dị ứng, các bệnh đường hô hấp và tim mạch tăng vọt ở những vùng này. Hạn hán và lũ lụt xảy ra ở nhiều vùng nhiệt đới làm dịch tả lan tràn.

Sóng nhiệt làm hàng ngàn người ở ấn Độ và hàng trăm người ở châu Âu và Mỹ bị tử vong. ở Trung Quốc và Băngladesh thì lũ lụt xảy ra với sức tàn phá ghê gớm. ở vùng mỏm của châu Phi, trận đại hồng thuỷ xảy ra gây lụt lội vào cuối năm 1997 làm gia tăng bệnh dịch tả, sốt rét và sốt Thung lũng Rift (Rift Valley fever) làm nhiều người và gia súc bị chết. ở châu Mỹ La Tinh, lụt lội xảy ra dọc theo biển Đại Tây Dương và vùng phía nam Brazin đã liên quan với sự bùng nổ bệnh tả và các bệnh truyền qua véc-tơ, còn ở nhiều vùng ở phía Nam nước Mỹ thì đã xảy ra các vụ dịch hantavirus do chuột truyền. Đây là bệnh mới nảy sinh và xuất hiện lần đầu tiên ở nước Mỹ, là một quốc gia có nền y tế công cộng phát triển vào bậc nhất trên thế giới. 

En Ni-nô hay còn gọi là giao động nam là một chu trình khí hậu tự nhiên. Tuy nhiên, sự hấp thụ nhiệt của đại dương do nhiệt độ trái đất tăng lên có thể làm đảo lộn chu kỳ tự nhiên của En Ni-nô và làm cho chúng xảy ra thường xuyên hơn và dữ dội hơn. 

Trong thời gian xảy ra En Ni-nô, những thay đổi của thuỷ triều và gió ở vùng đông Thái Bình Dương sẽ làm thay đổi gió xoáy và các mô hình khí hậu trên toàn cầu. 

Hạn hán bất thường xảy ra ở nhiều nơi, còn nhiều vùng khác thì lại phải đối mặt với các trận hồng thuỷ và bão lụt dữ dội. Cuối mỗi đợt En Ni-nô thường xảy ra một giai đoạn khác của chu trình, gọi là La Ni-na – sự kiện trái ngược với En Ni-nô. 

ở ấn Độ, Mexico, và Đông Nam nước Mỹ đã phải chịu cảnh hạn hán khốc liệt trong giai đoạn 1997-1998 do tác động của En Ni-nô, sau đó lại xảy ra các trận lụt lớn vào tháng 8, tháng 9 năm 1998 do ảnh hưởng của La Ni-na. 

Theo số liệu thống kê của Trung tâm Dữ liệu Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia Hoa Kỳ thì trong suốt thế kỷ qua các thảm họa của thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, bão và cháy đã gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng trên thế giới cả về người và của.

Ảnh hưởng tới năng suất của mùa màng

Khí hậu thay đổi có thể gây tác động tới năng suất của một số mùa màng ở nhiều nơi. Bất cứ thay đổi bất lợi nào trên diện rộng về công tác sản xuất, cung ứng và phân phối các sản phẩm nông nghiệp – đặc biệt là ở những nước đang phát triển cũng có thể gây ra tác động nghiêm trọng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng và hộ bị đói cũng có khả năng tăng lên. Trái đất nóng lên gây nhiều hậu quả trên toàn cầu và một trong số những tác động đáng chú ý là sự gia tăng mực nước biển do băng ở hai cực tan ra và sự nở của nước biển do nhiệt độ. Các nhà thuỷ văn học dự đoán rằng, đến năm 2100 thì mực nước biển trung bình trên toàn cầu sẽ tăng lên từ 0, 2 đến 1, 0 mét và sẽ tiếp tục gia tăng hơn nữa trong những thế kỷ tới. Mực nước biển gia tăng có thể làm tràn ngập các khu vực trước đây là khu dân cư đông đúc hay làm ngập mặn các vùng đất canh tác vốn dĩ rất hạn hẹp ở một số quốc gia. Đặc biệt, Bangladesh và một số quốc đảo khác là những nước rất dễ bị tổn thương. Hơn nữa, lụt lội ở những cộng đồng dân cư sống vùng ven biển sẽ làm cho nhiều gia đình bị mất nhà cửa và buộc phải  dời đến sống ở những vùng đông đúc, chật hẹp nơi họ rất dễ bị mắc các bệnh lao, bạch hầu và các bệnh tiêu chảy. Mặt khác, như chúng ta đã biết, ước tính khoảng 99% các loài động thực vật có hại cho nông nghiệp có thể bị kiểm soát bởi các kẻ thù trong tự nhiên như chim, rắn, nhện, ong, nấm, các bệnh do virus và nhiều sinh vật khác. Những tác nhân kiểm soát sinh học tự nhiên này đã giúp cho nông dân tiết kiệm được hàng tỷ đô la mỗi năm bằng cách bảo vệ mùa màng khỏi bị thất thoát và giảm nhu cầu sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật (Naylor và Ehrlich, 1997). Khí hậu thay đổi, hệ sinh thái tự nhiên bị mất cân bằng làm cho quá trình kiểm soát sinh học tự nhiên bị ảnh hưởng và điều này sẽ trực tiếp làm giảm năng suất trong sản xuất nông nghiệp và gián tiếp tác động lên nền kinh tế và sức khoẻ của cộng đồng. 

Nhiệt độ quá cao và hậu quả sức khoẻ

Do sự tăng nhiệt độ, càng ngày chúng ta càng thấy nhiều trường hợp bị căng thẳng do nhiệt độ, nhiều trường hợp có thể dẫn tới tử vong, đặc biệt là ở người già, trẻ em và đối tượng có thu nhập thấp. Sự nhạy cảm của các nhóm đối tượng này có thể do nhiều yếu tố vật lý và xã hội khác nhau quyết định, bao gồm:  việc họ phải sống trong điều kiện môi trường không thoáng mát, không có hệ thống thông gió hay điều hoà nhiệt độ. Những bệnh nhân bị các bệnh tim mạch và hô hấp mạn tính là những người có nguy cơ rất cao. Chúng ta đã chứng kiến hậu quả của thời tiết quá nóng bức xảy ra ở Chicago năm 1995 làm 500 người chết chỉ trong một thời gian ngắn. Những mô hình dự báo gần đây cho rằng đến năm 2050 ở nhiều thành phố trên thế giới sẽ có thêm hàng ngàn người bị chết mỗi năm do nóng bức.

Gia tăng ô nhiễm không khí và hậu quả của nó tới sức khoẻ

Nhiệt độ tăng lên làm giảm chất lượng không khí, chủ yếu là do vấn đề tăng ô nhiễm khí carbon dioxyd, nitơ oxyd, ozon v.v.  ở những khu vực đô thị nơi môi trường bị ô nhiễm nặng. Nhiệt độ và tia tử ngoại ở tầng thấp của khí quyển tăng lên tạo điều kiện cho các phản ứng hoá học xảy ra mạnh mẽ và sản xuất ra khí ozon. Ozon là một khí phản ứng rất mạnh và có thể trực tiếp làm oxy hoá các phân tử, tạo ra các gốc tự do chứa nhiều năng lượng và có thể làm tổn thương đến tế bào. Nồng độ ozon cao trong không khí có thể làm gia tăng các trường hợp bị bệnh hô hấp và bệnh tim mạch. Người ta thấy rằng, những tác động hô hấp cấp tính do ozon gây ra có liên quan tới bệnh hen suyễn ở trẻ em. Khí hậu ấm hơn và ẩm ướt hơn ở nhiều vùng có thể làm tăng nồng độ các loại phấn hoa trong không khí và rất có khả năng sẽ có tác động tiêu cực lên những người bị rối loạn dị ứng, ví dụ những bệnh nhân bị hen suyễn hay bị sốt mùa cỏ khô (sốt mùa hè). 

Những thay đổi trong hệ sinh thái và các bệnh truyền nhiễm 

Sự kết hợp của thay đổi khí hậu, suy thoái môi trường và mất cân bằng các hệ sinh thái đã tạo điều kiện lý tưởng cho sự quay trở lại cũng như sự xuất hiện và lây lan của nhiều căn bệnh truyền nhiễm – những bệnh đã làm hơn 17 triệu người bị tử vong hàng năm trên thế giới. Hình 3.1 mô tả một số ví dụ về các bệnh mới nảy sinh và các bệnh có nguy cơ xuất hiện trở lại ở các nước trên thế giới.

Hình 3.1. Một số ví dụ về các bệnh mới xuất hiện và các bệnh có nguy cơ quay trở lại

Nguồn: Fauci. A.S. “Các bệnh mới xuất hiện và các bệnh có nguy cơ quay trở lại” – Viện Sức khoẻ Quốc gia, Bethesda, Maryland.

Khí hậu thay đổi làm thay đổi các hệ sinh thái, tỷ lệ giữa động vật săn mồi và con mồi bị mất cân bằng dẫn tới các phương thức kiểm soát sinh học tự nhiên cũng bị phá vỡ. Các loài cá nước ngọt, chim, lưỡng cư và dơi là những loài giới hạn sự phát triển của muỗi (là véc-tơ  truyền các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, sốt vàng và viêm não). Quạ, chó sói đồng cỏ và rắn giúp kiểm soát các quần thể gặm nhấm. Một số loài gặm nhấm làm lây truyền các bệnh Lyme, hantavirus, arenavirus (sốt xuất huyết), Leptospiroses và dịch hạch. Khi kẻ thù của các véc-tơ truyền bệnh bị giảm về số lượng do tác động của thay đổi khí hậu trong lúc các quần thể vector truyền bệnh lại phát triển mạnh mẽ thì các bệnh truyền qua véc-tơ sẽ có điều kiện lan tràn và chúng ta khó có thể kiểm soát được. Các nhà khoa học cho rằng khí hậu ấm và ẩm hơn đã tạo điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động của nhiều loại bệnh truyền nhiễm. Tiến sỹ Epstein trong một nghiên cứu gần đây về ” Sức khoẻ con người và sự thay đổi khí hậu” đã cảnh báo rằng ” Thay đổi khí hậu sẽ có nhiều tác động lên sức khoẻ con người và hầu hết là các tác động có hại” (Epstein, 1998).

Thay đổi mô hình bệnh tật

Trong quá khứ đã có nhiều giai đoạn bệnh tật tàn phá xã hội loài người, ví dụ như bệnh dịch hạch thời trung cổ xảy ra ở châu Âu. Vấn đề này đã xảy ra đồng thời với sự gia tăng dân số, sự đô thị hoá và môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Với sự ấm lên của toàn cầu như hiện nay cùng với sự thay đổi mạnh mẽ các hệ sinh thái đã tạo điều kiện cho các mô hình bệnh tật thay đổi trên một diện rộng. Trong nghiên cứu của Tiến sĩ Epstein, ông đã đưa ra 3 tác động chính mà sự thay đổi khí hậu có thể  gây ra cho sức khoẻ cộng đồng, đó là:

Tạo điều kiện thuận lợi cho sự bùng nổ các vụ dịch bệnh truyền nhiễm.

Tăng khả năng lây truyền các bệnh truyền qua véc-tơ  và làm hàng triệu người bị phơi nhiễm với các bệnh mới nảy sinh cũng như phơi nhiễm với nhiều nguy cơ sức khoẻ khác nhau.

Cản trở sự kiểm soát bệnh dịch trong tương lai.

Ngoài ra, một trong những nhân tố không kém phần quan trọng trong việc làm lây lan các bệnh mới nảy sinh, góp phần thay đổi mô hình bệnh tật trên thế giới đó là việc đi lại, thông thương giữa các quốc gia bằng ô tô, tàu cao tốc hay máy bay. Thời xa xưa, phương tiện vận tải chủ yếu giữa các nước là tàu biển hay xe thô sơ, vì vậy thời gian đi sang một vùng khác hay một nước khác là khá lâu. Các vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm có thể bị chết trên đường đi và làm hạn chế sự lây lan bệnh tật giữa các vùng. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc đi lại giữa các nước bằng máy bay thuận tiện và nhanh hơn nhiều. Theo Alleyne (1998), năm 1995 có hơn 1 triệu người sử dụng máy bay mỗi ngày. Mặc dù đem lại nhiều lợi ích cho con người nhưng điều này cũng góp phần làm lây lan bệnh tật. Ngoài các bệnh truyền nhiễm thì ngày nay ở nhiều nước mà nhất là ở những nước phát triển đang phải đương đầu với các bệnh không truyền nhiễm nhưng có tỷ lệ tử vong cao như ung thư, tiểu đường, tim mạch, béo phì v.v…

MÔ HÌNH BỆNH TẬT Ở VIỆT NAM THEO CÁC VÙNG SINH THÁI

Đặc điểm chung của nước ta là đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ và đồng bằng chỉ chiếm 1/4 lãnh thổ. Khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phía Bắc có 4 mùa, phía Nam có 2 mùa, nhiệt độ trung bình năm cao 21-260C, độ ẩm cao. Do ảnh hưởng của gió mùa, địa hình phức tạp nên khí hậu của nước ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi khác, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao. Do đặc tính ấy làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội như lề lối sinh hoạt: ăn, mặc, ở và bảo vệ sức khoẻ. Theo địa lý và thống kê y tế (2001) nước ta được chia thành 8 vùng sinh thái như sau: vùng Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.

Miền núi Trung du Bắc Bộ (Đông Bắc và Tây Bắc) 

Kể từ năm 2001, Miền núi Trung du Bắc Bộ được chia thành vùng Đông Bắc và Tây Bắc, gồm 16 tỉnh thành: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lao Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Quảng Ninh.

Đặc điểm địa lý, kinh tế – xã hội

Là nơi tiếp giáp với các nước Lào và Trung Quốc, liền kề với đồng bằng Sông Hồng, nên có điều kiện để giao lưu.  

Địa hình núi non hiểm trở, giàu tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng và các khoáng sản, nhiều sông, suối, biển

Khí hậu vẫn là khí hậu nhiệt đới, có 4 mùa.

Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc ít người như: Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Mông v.v.

Là vùng còn nghèo và khó khăn, mặc dù có nhiều tiến bộ về đời sống văn hoá xã hội, nhưng vẫn còn có những phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến công việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.

Đặc điểm bệnh tật

Từ những đặc điểm về địa lý, kinh tế như vậy nên kéo theo những vấn đề về sức khoẻ, bệnh tật cũng có những điểm khác so với các vùng khác như đây là nơi tập trung khá nhiều những bệnh liên quan đến côn trùng, đói nghèo, phong tục… biểu hiện qua 10 bệnh mắc cao nhất như được trình bày trong bảng 4. 

Bảng 3.4. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất  ở vùng miền núi Trung du Bắc bộ, năm 1999 và 2001

STT

Miền núi Trung du  Bắc Bộ (năm 1999)

Vùng Đông Bắc (năm 2001)

Vùng Tây Bắc (năm 2001)

1

Các bệnh viêm phổi

Viêm họng và viêm amiđan cấp

Các bệnh viêm phổi

2

Viêm   họng   và             viêm amiđan cấp

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

Viêm họng   và   viêm

amiđan cấp

3

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

Các bệnh viêm phổi

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

4

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

Cúm

5

Cúm

Các tổn thương khác xác định, không xác định và ở nhiều nơi

Viêm nhiễm cổ tử cung

6

Nạo hút thai

Tai nạn giao thông

Tai nạn giao thông

7

Sốt rét

Viêm dạ dày – hành tá tràng

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

8

ỉa chảy do Shigella

Cúm

Các tổn thương khác xác định, không xác định và ở nhiều nơi

9

Các tổn thương do chấn thương

Gãy các phần khác của chi

Các biến chứng khác của chửa đẻ

10

Loét dạ dày-hành tá tràng

Tăng huyết áp nguyên phát

Thương hàn, phó thương hàn

Đồng bằng Sông Hồng 

Đồng bằng Sông Hồng gồm 9 tỉnh thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình.

Đặc điểm địa lý, kinh tế – xã hội

Đồng bằng Sông Hồng rộng gần 1,3 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc với một vùng biển bao quanh ở phía Đông và Đông-Nam.

Là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước, mật độ dân số trung bình 1180 người/km2 (1999).

Địa hình bằng phẳng có thế mạnh về phát triển lương thực, thực phẩm, khoa học kỹ thuật, công nghệ. Do thế mạnh về phát triển lương thực thực phẩm, chăn nuôi, canh tác nông nghiệp nên gây ra mô hình bệnh tật có khác với các vùng khác.

Là vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế  xã hội của  đất nước.

Đặc điểm bệnh tật

Bảng 3.5. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất  vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 1999 và 2001

STT

10 bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất  năm 1999

10 bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất  năm 2001

1

Các bệnh viêm phổi

Các bệnh viêm phổi

2

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

3

Viêm họng và viêm amiđan cấp

Các bệnh khác của bộ máy tuần hoàn

4

Iả chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

Viêm họng và viêm amiđan cấp

5

Sẩy thai do can thiệp y tế

Iả chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

6

Bệnh khác của bộ máy hô hấp

Tai nạn giao thông

7

Bệnh khác của bộ máy tiêu hoá

Viêm khớp dạng thấp và viêm khớp khác

8

Bệnh giun sán khác

Các tổn thương khác do chấn thương xác định, không xác đinh và ở nhiều nơi

9

Viêm khớp dạng thấp và viêm khớp khác

Viêm dạ dày – tá tràng

10

Loét dạ dày – tá tràng

Viêm nhiễm cổ tử cung

Bắc Trung Bộ 

Bắc trung bộ gồm 6 tỉnh là: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng

Trị, Thừa Thiên Huế

Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội

Đây là vùng lãnh thổ hẹp theo chiều Đông Tây nhưng dài theo chiều Bắc – Nam. Là vùng có cả đồng bằng, miền núi cao, là nơi có dãy Trường Sơn chạy dọc theo chiều Bắc – Nam, chạy dọc theo biển Đông, tiếp giáp với nước Lào. Đường xá giao thông trong vùng còn nhiều khó khăn, có đường 1 và đường Hồ Chí Minh chạy qua.

Khí hậu ảnh hưởng của gió lào về mùa hè nên nóng, ẩm, mưa lũ theo mùa. Là vùng chịu ảnh hưởng khá nhiều thiên tai và bị tàn phá nhiều trong thời gian  chiến tranh.

Là vùng phát triển cả kinh tế rừng, biển và nông nghiệp.

Là nơi cư trú của nhiều dân tộc khác nhau, còn nhiều dân tộc ít người sống rất sâu – xa có nhiều phong tục tập quán lạc hậu.

Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 3.6. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất vùng Bắc Trung bộ năm 1999 và 2001

STT

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất

 

năm 1999

năm 2001

1

Các bệnh viêm phổi

Các bệnh viêm phổi

2

Viêm họng và amiđan cấp

Tai nạn giao thông

3

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

4

Cúm

Các biến chứng của chửa đẻ

5

Sẩy thai do can thiệp y tế

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

6

Sốt rét

Các tổn thương khác xác định, không xác định và ở nhiều nơi

7

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

Viêm họng và viêm amiđan cấp

8

Chấn thương dập nát và cắt cụt đã xác định và nhiều vùng trong cơ thể

Sốt rét

9

Gẫy các phần khác của chi do lao động và giao thông

Gãy các phần khác của chi do lao động và giao thông

10

ỉa chảy do Shigella

Bệnh khác của bộ máy hô hấp

Duyên hải Nam Trung Bộ 

Vùng địa lý Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh thành là: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận.

 

Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội

Khác với Bắc Trung Bộ, qua đèo Hải Vân, vùng Duyên hải Miền Trung có khí hậu hai mùa là mùa khô và mùa mưa, không có mùa đông, khí hậu ôn hoà hơn, nhưng vẫn là vùng chịu nhiều thiên tai và hậu quả của chiến tranh.

Lãnh thổ hẹp chạy dọc theo bờ Biển Đông, địa hình có núi đồi, đồng bằng  ven biển.

Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, phong tục có những nét khác của Bắc Trung Bộ.

Thế mạnh là tài nguyên rừng, độ che phủ của rừng là 34%; ngư nghiệp và nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ hải sản, nhiều ngành công nghiệp khai thác, chế biến phát triển.

Có nhiều khu có thể trở thành khu du lịch.

Phát triển kinh tế- xã hội của vùng thực sự vẫn còn khó khăn.

Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 3.7. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất  vùng Duyên hải Nam Trung Bộ năm 1999 và 2001

STT

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 1999

10 bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 2001

1

Các bệnh viêm phổi

Các tổn thương khác do chấn thương xác định và ở nhiều nơi

2

Viêm họng và amiđan cấp

Các bệnh viêm phổi

3

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn 

4

Các tổn thương khác do chấn thương xác định và ở nhiều nơi

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

5

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn 

Các biến chứng khác của chửa đẻ

6

Chấn thương dập nát và cắt cụt đã xác định và nhiều vùng trong cơ thể 

Viêm họng và amiđan cấp

7

Sâu răng

Bệnh viêm  ruột thừa

8

Các biến chứng khác do chửa đẻ

Viêm khớp dạng thấp và viêm khớp khác

9

Sốt rét

Sốt rét

10

Bệnh viêm ruột thừa

Tăng huyết áp nguyên phát

Tây Nguyên 

Tây Nguyên có 4 tỉnh là: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk và Lâm Đồng.

Đặc điểm địa lý, kinh tế – xã hội

Đây là vùng duy nhất ở nước ta không giáp với biển.

Các tỉnh này tiếp giáp với Lào và Cămpuchia, có vị trí quan trọng về quốc phòng và kinh tế.

Đa dạng về tài nguyên rừng và khí hậu, là nơi có thể phát triển thành những khu du lịch và nghỉ mát, có tiềm năng to lớn về nông nghiệp và lâm nghiệp, có trữ năng thuỷ điện lớn.

Là nơi thưa dân nhất nước ta, là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người như: Xu – đăng, Ba – na, Gia – rai, Ê – đê, K’ Ho, Mạ, Mơ – nông, với truyền thống văn hoá độc đáo

Hệ thống y tế phát triển tương đối tốt nhưng sử dụng của người dân còn thấp, đặc biệt là các dân tộc ít người.

Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 3.8. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất vùng Tây Nguyên năm 1999 và 2001

STT

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 1999

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 2001

1

Sốt rét 

Viêm họng và viêm amiđan cấp

2

Các bệnh viêm phổi

Sốt rét

3

Các tổn thương khác do chấn thương xác định và ở nhiều nơi

Các bệnh viêm phổi

4

Viêm họng và amiđan cấp

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

5

Sẩy thai do can thiệp y tế

 

Các tổn thương khác, xác định, không xác định và ở nhiều nơi

6

Tai nạn giao thông

Tai nạn giao thông

7

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

Cúm

8

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

Gãy các phần khác của chi: do lao động và giao thông

9

Bệnh viêm ruột thừa 

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn

10

Các bệnh nhiễm khuẩn khác

Viêm nhiễm cổ tử cung

Đông Nam Bộ 

Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh và Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu.

Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội

Là khu vực có diện tích nhỏ, mật độ dân số trung bình nhưng phát triển nhất trong cả nước về sản lượng công nghiệp, hàng xuất khẩu.

Đất đai màu mỡ, có điều kiện để phát triển cây công nghiệp lâu năm và ngắn ngày trên quy mô lớn.

Là khu vực thu hút mạnh lực lượng lao động có chuyên môn cao, thợ lành nghề, các nhà khoa học và là vùng có tài nguyên chất xám lớn.

Có điều kiện và khả năng phát triển công nghiệp, các hoạt động du lịch, dịch vụ, chế biến, xuất – nhập khẩu,…

Khai thác kinh tế biển, bờ biển, phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp.

Khí hậu ôn hoà, chỉ có 2 mùa mưa và khô, thời kỳ mùa khô kéo dài (4 tháng) dẫn đến thiếu nước sinh hoạt, nước tưới cho cây trồng và nước cho công nghiệp.

Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 3.9. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất vùng Đông Nam bộ năm 1999 và 2001

STT

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất

năm 1999

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất

năm 2001

1

Các biến chứng do chửa đẻ

Viêm họng và viêm amiđan cấp

2

Viêm họng và amiđan cấp

Các biến chứng của chửa đẻ

3

Các bệnh viêm phổi

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

4

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

Các bệnh viêm phổi

5

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn 

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn 

6

Sẩy thai do can thiệp y tế

Tai nạn giao thông

7

Viêm cấp đường hô hấp trên 

Cúm

8

Tăng huyết áp

Tăng huyết áp nguyên phát

9

Các tổn thương do chấn thương xác định và ở nhiều nơi 

Viêm cấp đường hô hấp trên 

10

Cúm

Viêm dạ dày – hành tá tràng

Đồng bằng Sông Cửu Long 

Gồm 12 tỉnh là: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. 

Đặc điểm địa lý, kinh tế  – xã hội

Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước với diện tích 4 triệu ha, mùa mưa đồng bằng bị ngập sâu trong nước, mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn, đất rộng dân thưa, chưa được khai thác nhiều.

Có 16,1 triệu dân sinh sống chủ yếu là người Kinh và người Chăm, Khơ-me,…

Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, cắt xẻ châu thổ thành những ô nên việc giao thông bằng đường thuỷ dễ dàng.

Khí hậu cận xích đạo, nhiệt đới ẩm, mùa khô kéo dài làm cho đất nước bị nhiễm mặn vào sâu đất liền.

Thảm thực vật, động vật phong phú chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm, tài nguyên biển vô cùng phông phú

Thiếu nước ngọt đang là một vấn đề vô cùng quan trọng của đồng bằng Sông Cửu Long

Đặc điểm về bệnh tật

Bảng 3.10. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất  vùng đồng bằng Sông Mê Kông năm 1999 và 2001

STT

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 1999

Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 2001

1

Các bệnh viêm phổi

Các bệnh viêm phổi

2

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn 

ỉa chảy, viêm dạ dày, viêm ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn 

 

3

Viêm họng và amiđan cấp

Viêm họng và viêm amiđan cấp

4

Mắt hột 

Tăng huyết áp nguyên phát

5

Sốt rét

Tai nạn giao thông

6

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp 

Các tổn thương, xác định và không xác định ở nhiều nơi

7

Sẩy thai do can thiệp y tế

Lao bộ máy hô hấp

8

Tăng huyết áp

Cúm

9

Các tổn thương do chấn thương xác định ở nhiều nơi trên khác

Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp

10

Lao bộ máy hô hấp  

Viêm cấp đường hô hấp trên 

Nguồn: Số liệu được lấy từ Niên giám thống kê y tế 1999 và 2001, Bộ Y tế 

Đây là những sơ thảo ban đầu về các vấn đề bệnh tật theo vùng sinh thái. Rõ ràng theo số liệu thống kê thì mô hình bệnh tật ở các vùng sinh thái khác nhau là khác nhau và đã có sự thay đổi trong những năm qua. Có tác giả đã nghiên cứu về đại tầng với sinh thái, nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào về những vấn đề này. Hiện trên toàn quốc vẫn chưa có một nghiên cứu chi tiết nào về vào trò của những biến đổi của sinh thái với những thay đổi của mô hình bệnh tật ở các vùng. Do vậy, những nghiên cứu về mối quan hệ giữa ảnh hưởng sinh thái của các vùng khác nhau cũng như những thay đổi sinh thái học ở từng vùng với sức khoẻ và mô hình bệnh tật của cộng đồng dân cư vùng sở tại là rất cần thiết.

NHỮNG THAY ĐỔI SINH THÁI HỌC Và MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN LIÊN QUAN  ĐẾN MÔI TRƯỜNG

Các bệnh truyền nhiễm

Bệnh truyền qua các vật chủ trung gian

Việc gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong liên quan tới sự nóng lên của trái đất có thể không phải là do tác động trực tiếp của sóng nhiệt. Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trước đây chỉ phổ biến ở các nước có khí hậu nóng ấm thì nay có nguy cơ lan tràn sang nhiều vùng khác trên toàn thế giới. Đây là một trong những vấn đề quan trọng hiện đang thách thức các chương trình sức khoẻ công cộng. Xu hướng đô thị hoá, việc các biện pháp kiểm soát véc-tơ không phát huy hiệu quả và sự gia tăng của việc đi lại thông thương giữa các nước trên thế giới cũng như sự di cư của người dân từ nước này sang nước khác là những yếu tố chính dẫn tới sự tái xuất hiện trở lại các bệnh truyền qua véc-tơ. Sự mở rộng của các vùng không có sương tuyết có thể dẫn tới sự di cư của các loài côn trùng và gặm nhấm làm lây lan các bệnh ở vùng có khí hậu nóng ấm tới các vùng cao nguyên, đồi núi. Những gì có lợi cho vi sinh vật có hại thì hiếm khi có lợi cho con người. Nhiệt độ ấm lên trong một thời gian dài do khí hậu thay đổi sẽ tạo điều kiện lý tưởng cho các loài muỗi và nhiều loài véc-tơ truyền bệnh khác sinh sôi nảy nở, làm lây lan các bệnh truyền nhiễm.

Bệnh sốt rét

Vấn đề đang thu hút được sự quan tâm rất lớn là bệnh sốt rét. Sốt rét hiện là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trên thế giới và ước tính có khoảng 300 đến 500 triệu người bị mắc và có thêm khoảng 1, 5 đến 2, 7 triệu người bị chết hàng năm vì căn bệnh này. Hơn một nửa trong số các trường hợp bị tử vong là trẻ em, đặc biệt là trẻ em sống ở những vùng nông thôn nghèo nàn ở châu Phi – châu lục có nhiều người mắc bệnh sốt rét nhất (Watson và cộng sự 1995), 60 trong số 380 loài muỗi được biết đến trên thế giới có khả năng truyền bệnh sốt rét. ở Việt Nam có khoảng 20 loài muỗi truyền bệnh sốt rét, trong đó một số loài chính là Anophel minimus, Anophel dirus và Anophel balabasensis  Người ta cho rằng bệnh sốt rét là căn bệnh truyền qua véc-tơ chịu ảnh hưởng lớn nhất của sự thay đổi khí hậu, vì muỗi rất nhạy cảm với những thay đổi thời tiết. Những thay đổi khí hậu kéo theo thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm và gió sẽ ảnh hưởng tới vòng đời và sự phát triển của muỗi, gián tiếp ảnh hưởng tới sự lan tràn của bệnh sốt rét.

Sốt rét do muỗi truyền thường được tìm thấy ở những vùng có nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông không dưới 160C. Sự mở rộng của các vùng có nhiệt độ trên 160C vào mùa đông đồng thời cũng nới rộng phạm vi hoành hành của căn bệnh sốt rét và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ con người. Giữa những năm 1950, nhiều quốc gia trên thế giới tin chắc rằng họ sẽ thanh toán được căn bệnh này nhờ phun thuốc DDT liều cao để diệt trừ muỗi Anopheles. Tuy nhiên, những quốc gia này đã chịu thất bại vì muỗi Anopheles nhanh chóng trở nên kháng thuốc. Từ đầu những năm 1970, căn bệnh này xuất hiện trở lại ở nhiều nơi trên thế giới và dưới dạng nguy hiểm hơn. Sự gia tăng số trường hợp bị sốt rét trong những năm gần đây một phần là do sự ấm lên trên toàn cầu, đồng thời do con người xây dựng nhiều đập nước và các hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các quần thể muỗi sinh sôi phát triển mạnh mẽ làm lây lan căn bệnh này. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thì đến cuối thế kỷ 21, hàng năm sẽ có thêm khoảng 50-80 triệu trường hợp bị sốt rét (WHO, 1996). 

Sốt xuất huyết 

Sốt xuất huyết là căn bệnh nhiệt đới do muỗi truyền. Đ ây là căn bệnh nguy hiểm do virus truyền qua muỗi vằn đốt người vào ban ngày. Khí hậu vùng nhiệt đới với nhiệt độ giao động từ 15 đến 400C và độ ẩm cao kết hợp với môi trường sống đông đúc, mất vệ sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho căn bệnh này phát triển. Căn bệnh này có hai thể: sốt  Dengue và sốt xuất huyết Dengue. Sốt Dengue có triệu chứng tương tự như cảm cúm, thường xảy ra ở trẻ lớn, người lớn và ít khi gây tử vong. Trái lại, sốt xuất huyết Dengue là thể thứ phát rất nguy hiểm, có xuất huyết và bệnh nhân có thể bị chết nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời (Nguyễn, 1996). Sốt xuất huyết là nguyên nhân hàng đầu của các trường hợp nhập viện và tử vong của trẻ em ở các nước Đông Nam á và Tây á Thái Bình Dương. Căn bệnh ước tính làm tổn hại tới khoảng 30 đến 60 triệu người hàng năm (Rodhain, 1996). ở Việt Nam, sốt xuất huyết xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành phố vào các tháng rải rác trong năm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10 (Hoàng, 2001). Theo dự đoán của tiến sỹ Epstein thì thay đổi khí hậu là một nguyên nhân chính gây ra sự lan tràn bệnh sốt xuất huyết. Ngày nay, sốt xuất huyết xuất hiện khá phổ biến ở các nước châu á và châu Mỹ La Tinh. Bằng chứng là người ta đã ghi nhận các trường hợp bị sốt xuất huyết ở những vùng có độ cao cao hơn trước, ví dụ 1.240 mét ở Trung Mỹ, 1.000 mét ở Mexico và 2.200 mét ở Côlômbia. Vì hiện nay, sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như chưa có vắc-xin  phòng bệnh, do đó biện pháp phòng chống tích cực chủ yếu dựa vào sự tham gia của cộng đồng để diệt muỗi truyền bệnh.

Viêm não truyền qua côn trùng 

Đây là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm ở các nước ôn đới. Muỗi có thể truyền một số loài virus gây các bệnh viêm não ở người. Một trong số các bệnh này là viêm não Nhật Bản, Eastern Equine (Mỹ), Venezuelan Equine và nhiều bệnh khác. Phổ biến nhất ở Mỹ là viêm não St. Louis. Các vụ dịch viêm não St. Louis xảy ra ở Trung Đông có tương quan với các thời kỳ có nhiệt độ cao (trên 300C), đặc biệt là vào những tháng cuối mùa đông nóng, ẩm ướt và theo sau là mùa hè hạn hán.  Căn bệnh này đã gây ra cho cộng đồng  nhiều vụ dịch, ví dụ như vụ dịch xảy ra ở Mỹ vào năm 1975 làm 1.815 người bị mắc (WHO, 1996). Hiện tại, bệnh này chỉ mới xảy ra chủ yếu ở các vùng phía Nam nước Mỹ, tuy nhiên với tác động của sự ấm lên toàn cầu, sự biến đổi các hệ sinh thái thì bệnh có xu hướng lan tràn lên một số vùng phía Bắc và có thể lên tận Canada. 

Hantavirus

Cùng với sự gia tăng của các bệnh phổ biến đã xuất hiện từ lâu thì gần đây có sự xuất hiện của một số bệnh truyền nhiễm mới ở một số nước trên thế giới. Nhiều loài động vật như gặm nhấm, dơi và động vật gây hại tham gia vào sự lây truyền các bệnh truyền nhiễm. Ví dụ, sự xuất hiện của hội chứng viêm phổi do Hantavirus gây ra ở phía trên và xung quanh vùng Navajo Indian ở Tây Nam nước Mỹ năm 1993 là có liên quan với những biến đổi xảy ra trong các quần thể gặm nhấm trong vùng. Hantavirus là một ví dụ điển hình về vai trò của những thay đổi trong hệ sinh thái trong việc xảy ra các vụ dịch bệnh truyền nhiễm trong những thập niên gần đây. Sự thay đổi khí hậu bị nghi ngờ là có liên quan tới những biến đổi trong hệ sinh thái và góp phần làm nảy sinh dịch bệnh này. 

Hantavirus được truyền bởi chuột nhắt và con người có thể hít thở loại virus này vào nếu trong môi trường không khí có nước tiểu hoặc phân của chuột nhắt. Dưới điều kiện bình thường thì loài chuột nhắt ở sa mạc mang Hantavirus sẽ bị kiểm soát bởi các loài thú săn mồi trong tự nhiên. Tuy nhiên, ở vùng Tây Nam nước Mỹ năm 19911992, hiện tượng En Ni-nô xảy ra làm hạn hán kéo dài và hậu quả là làm giảm số lượng cá thể của các quần thể chó sói đồng cỏ, quạ và rắn. Mùa xuân năm 1993, mưa nhiều hơn bình thường làm cho cây cối và côn trùng phát triển mạnh, cung cấp lượng thức ăn dồi dào cho chuột nhắt và tạo điều kiện cho chúng phát triển sinh sôi nảy nở nhanh hơn các loài là kẻ thù của chúng như chó sói đồng cỏ, quạ và rắn. Các quần thể chuột nhắt tăng số lượng cá thể lên khoảng 10 đến 15 lần và với số lượng đông đảo, chúng xâm nhập vào nhiều nhà ở vùng Tây Nam và đã dẫn tới sự gia tăng của các trường hợp mới bị mắc hội chứng Hantavirus ở phổi (HPS). Hơn 150 người đã mắc bệnh và hơn một nửa trong số họ bị chết (theo Tạp chí Y tế Công cộng của Mỹ số 85, tác giả Epstein, 1995 R.). Các vụ dịch HPS cũng đã xảy ra ở nhiều nước thuộc châu Mỹ La Tinh từ năm 1995.

Các bệnh truyền qua nước

Mối quan hệ giữa sức khoẻ con người với chất lượng và số lượng nước cung cấp cũng như các vấn đề về vệ sinh môi trường là khá phức tạp. Do vậy, việc dự đoán những tác động tiềm tàng mà sự thay đổi các hệ sinh thái và khí hậu có thể gây ra đối với các bệnh truyền nhiễm liên quan đến nước là không dễ vì cơ hội tiếp cận với nguồn nước sạch và an toàn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế -xã hội. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy các trận bão, lụt có thể làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh truyền qua nước do nguồn nước bị ô nhiễm, vệ sinh môi trường kém hoặc do các yếu tố liên quan khác. Mưa sẽ tạo cơ hội cho các vi sinh vật nhiễm bẩn nguồn nước uống. Ví dụ, một số vụ dịch Cryptosporidiosis, Giardia, tả và các bệnh truyền nhiễm khác đã xảy ra sau các trận mưa lớn ở Anh và Mỹ (Lisle và Rose, 2001). 

Các bệnh truyền qua nước có thể do nhiều loại vi sinh vật gây ra, bao gồm virus, vi khuẩn và động vật nguyên sinh. Một số bệnh truyền qua nước do virus gây ra bao gồm viêm gan A, Rotavirus và bệnh do virus Norwalk. Một số vi khuẩn gây bệnh truyền trong nước bao gồm phẩy khuẩn Cholerae, Legionella, Salmonella typhi và Shigella. Hai loài động vật nguyên sinh phổ biến gây bệnh truyền qua nước là Giardia và Cryptosporidum. Sự thay đổi của khí hậu, mất cân bằng các hệ sinh thái và mối liên quan tới một số bệnh truyền qua nước do virus, vi khuẩn và động vật nguyên sinh sẽ được bàn tới sau đây.

Rotavirus

Rotavirus thuộc họ Reoviridae gây viêm dạ dày ruột cấp tính. Có tất cả 6 nhóm khác nhau và 3 trong số này (còn gọi là nhóm A, B và C) lây nhiễm và gây bệnh cho người. Rotavirus nhóm A là một bệnh dịch phổ biến trên toàn thế giới. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây ỉa chảy ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, chiếm khoảng một nửa các ca bị bệnh đường ruột phải đến bệnh viện. Chỉ riêng ở nước Mỹ thì hàng năm cũng có hơn 3 triệu ca viêm dạ dày ruột do Rotavirus nhóm A gây ra. ở những vùng ôn đới, bệnh chủ yếu xảy ra vào mùa đông, nhưng ở các nước nhiệt đới thì Rotavirus gây bệnh quanh năm. Rotavirus nhóm B (hay còn gọi là Rotavirus gây tiêu chảy ở người lớn (ADRV)) gây ra nhiều vụ dịch tiêu chảy nguy hiểm. Rotavirus nhóm C lác đác gây ra một vài vụ dịch tiêu chảy ở trẻ em trên nhiều nước. Tuy nhiên, những vụ dịch đầu tiên đã xảy ra ở Nhật và Anh (Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm ở Mỹ, 2002).

Căn bệnh này có thể tự khỏi, mức độ có thể từ nhẹ đến nguy hiểm và thường gồm các triệu chứng như nôn mửa, ỉa chảy và sốt nhẹ. Rotavirus được lây truyền qua đường phân – miệng. Sự lây lan từ người này sang người khác thông qua tay bị nhiễm bẩn là con đường lây truyền quan trọng nhất của Rotavirus trong các cộng đồng sống đông đúc, chật hẹp. Liều lây nhiễm ước tính khoảng từ 10 đến 100 virus. Vì người bệnh thường thải ra virus với số lượng lớn (khoảng 108-1010 virus/100ml phân), do đó chúng ta rất dễ mắc bệnh khi tiếp xúc với tay, bát đũa hay các vật dụng khác bị nhiễm bẩn. Rotavirus tồn tại khá bền vững trong môi trường, do vậy công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường yếu kém là một trong những nguyên nhân chính làm lây lan căn bệnh này. Tháng 8 năm 1998, Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm ở Mỹ đã thông qua việc sử dụng vắc xin  phòng Rotavirus cho trẻ sơ sinh.

Bệnh tả

Sự ấm lên trên toàn cầu và những thay đổi về nhiệt độ bề mặt nước biển cũng có thể dẫn tới sự gia tăng các bệnh lây truyền qua đường nước như bệnh tả do vi khuẩn tả. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các loài thực vật phù du là nơi trú ẩn của các vi khuẩn tả giống bào tử ngủ,  chúng trú ngụ ở dưới các lớp tảo dày. Khi đại dương ấm lên, các thực vật phù du sinh sôi nảy nở và theo đó các khuẩn hình que gây bệnh tả xuất hiện trở lại dưới dạng lây nhiễm. Nói một cách khác, những thay đổi của hệ sinh thái đại dương đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự lây truyền bệnh tả (Colwell, 1996). Theo Tiến sĩ Paul Epstein, một số bệnh lây nhiễm qua nước như bệnh tả đang hoành hành ở nhiều quốc gia và gây hậu quả nặng nề chưa từng thấy, ông cho rằng đây là một trong những hậu quả của thay đổi khí hậu và mất cân bằng sinh thái. Năm 1991, đại dịch tả đã lan truyền tới các nước châu Mỹ và trong vòng 18 tháng đầu tiên đã có hơn nửa triệu người mắc bệnh ở châu Mỹ La Tinh, làm hơn 5000 người chết.

Epstein cũng ghi lại rằng vào cuối năm 1992, một dòng phẩy khuẩn Cholera mới, được gọi là O 139 Bengal, xuất hiện ở ấn Độ – dọc theo bờ của Vịnh Bengal. Nhiều cộng đồng dân cư không được tiêm phòng miễn dịch từ trước nên căn bệnh này đã lan tràn sang nhiều nước khu vực lân cận và đe dọa trở thành đại dịch tả lần thứ 8 xảy ra trên thế giới. Theo Epstein, sự xuất hiện của căn bệnh mới này là kết quả của sự tương tác giữa vi sinh vật, con người và các yếu tố môi trường sinh thái. Vụ dịch tả lớn nhất xảy ra ở Rwanda vào năm 1994 làm hơn 40.000 người bị chết chỉ trong vài tuần.

Bệnh lỵ do trực khuẩn Shigella

ở Việt Nam, bệnh lỵ trực khuẩn rất hay gặp, đặc biệt vào mùa hè. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là Shigella flexneri. Vi khuẩn lỵ theo thức ăn, nước uống bị nhiễm khuẩn vào đường tiêu hoá. Chúng cư trú trong ruột già rồi sinh sản, và xâm nhập vào thành ruột. Độc tố của chúng giải phóng ra kích thích thần kinh ở ruột, gây viêm loét, xuất tiết tại chỗ; do đó bệnh nhân có cảm giác đau bụng quặn, mót rặn, đi ngoài phân có nhày, máu. Nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ khỏi, không có biến chứng; nếu điều trị muộn, bệnh nhân có thể tử vong. Bệnh có thể gây dịch qua đường ăn uống.

Trong các yếu tố nguy cơ thì tình trạng suy dinh dưỡng (trọng lượng theo tuổi nhỏ hơn 70%) là hậu quả của căn bệnh này. Trẻ sẽ bị đi tiêu ra nhiều đờm và máu do đại tràng bị viêm. Hiện tượng này vẫn tiếp tục thậm chí sau khi đã điều trị bằng kháng sinh thích hợp. Chán ăn cũng là vấn đề tiền sử đáng quan tâm khi trẻ bị nhiễm Shigella. 

Khi nhiễm bệnh, trẻ kém hấp thụ và mất chất dinh dưỡng. Với những trẻ bị suy dinh dưỡng, tình trạng dinh dưỡng càng bị giảm sút khi nhiễm phải bệnh này. Các thuốc kháng sinh có tác dụng làm giảm số lượng vi khuẩn ở đại tràng cũng làm giảm tác dụng gây hoại tử của độc tố Shigella, nhưng lại làm mất những chất dinh dưỡng có trọng lượng lớn (protein), dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ.

Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là vệ sinh phân, nước, rác, quản lý và điều trị kịp thời bệnh nhân, tránh lây lan. 

Lỵ amip

Bệnh do đơn bào amip gây nên, có thể gây lỵ amip cấp hoặc mạn tính. Bệnh dễ mắc khi ăn uống thiếu vệ sinh, điều kiện vệ sinh môi trường xung quanh kém, tạo điều kiện cho ruồi phát triển và truyền bệnh. Đây là bệnh lây qua đường tiêu hóa. Amip theo thức ăn, nước uống vào miệng; khi đến ruột thì xâm nhập vào niêm mạc ruột, gây ra những vết loét nhỏ trong lòng ruột và biểu hiện bên ngoài bằng hội chứng lỵ.

Thời gian ủ bệnh tương đối dài (7-90 ngày). 

Triệu chứng chính là: bệnh nhân đau bụng mơ hồ, ăn kém ngon, người mệt mỏi và hay đổ mồ hôi. Tiếp theo là xuất hiện hội chứng lỵ: đau dọc theo khung ruột già, đi ngoài 5-15 lần /ngày ra chất nhầy lẫn máu và có cảm giác mót rặn. Bệnh nhân không bị sốt, soi trực tràng thấy có cá vết loét hình dấu ngón tay, trên mặt phủ lớp nhầy lẫn máu. 

Nếu chữa trị đúng và kịp thời thì bệnh nhân sẽ khỏi hoàn toàn và không để lại di chứng. Nếu chữa trị không kịp thời hoặc không đúng cách thì bệnh nhân có nguy cơ bị biến chứng áp xe gan, xuất huyết, thủng ruột và một số biến chứng khác hoặc chuyển sang viêm ruột mạn tính.

Bệnh do Cryptosporidim

Bệnh do Cryptosporidium là một bệnh đường ruột do động vật ký sinh Cryptosporidium gây ra. Mỗi năm ở New York  có khoảng 400-500 người bị nhiễm. Căn bệnh này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1976 và được đưa vào danh sách các bệnh truyền nhiễm ở Mỹ vào tháng 2 năm 1994. Triệu chứng chính của Cryptosporidium là ỉa chảy, đau bụng, buồn nôn, nôn, sốt, đau đầu và ăn không ngon miệng. Nhiều người bị nhiễm Cryptosporidium nhưng không có biểu hiện lâm sàng. Tất cả mọi người đều có nguy cơ bị nhiễm bệnh. ở những cá thể khoẻ mạnh với hệ miễn dịch hoạt động bình thường thì các triệu chứng sẽ kéo dài trong vòng 2 tuần hoặc ngắn hơn. Tuy nhiên, ở những người bị suy giảm miễn dịch thì căn bệnh có thể kéo dài và gây nguy hiểm đến tính mạng. 

Cryptosporidium tồn tại trong phân của người bệnh hay phân của động vật. Bệnh được truyền từ người này sang người khác hay từ động vật sang người qua môi trường nước. Nếu một người uống phải nước bị nhiễm bẩn có chứa Cryptosporidium mà không được xử lý cẩn thận thì sẽ bị nhiễm bệnh. Để đề phòng bệnh này, ngoài việc bảo vệ nguồn nước khỏi bị ô nhiễm phân người và động vật, các nhà máy xử lý nước thải và sinh hoạt phải áp dụng các biện pháp lọc và xử lý hữu hiệu thì chúng ta còn phải thực hiện tốt công tác vệ sinh cá nhân và luôn ăn chín uống sôi.  

Ngộ độc thực phẩm do tảo độc

Sự ấm lên của nước biển cũng kích thích sự sinh trưởng và phát triển của các loài tảo độc và sự kiện này thường được gọi là thuỷ triều đỏ “red tides”. Các loài cá và động vật có vỏ (như trai, sò, cua, tôm …) ăn tảo độc và độc tố sẽ tích tụ lại trong cơ thể của chúng. Đến lượt chúng ta ăn các loài hải sản này và bị ngộ độc thực phẩm. ở Australia và một số nước khác trên thế giới đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm do thuỷ triều đỏ.

Tất cả những vấn đề đã nêu trên đây cho thấy: khí hậu thay đổi có thể tạo ra những thách thức lớn cho ngành y tế công cộng trong thế kỷ XXI. Chúng ta có thể phải đối mặt với nhiều vấn đề về sức khoẻ và môi trường ở một diện rộng lớn mà chúng ta chưa từng gặp phải.

Bệnh truyền qua không khí

Bệnh truyền qua không khí điển hình là bệnh lao. 

Lao phổi (Tuberculosia – TB) là một bệnh dịch đe dọa sức khoẻ cộng đồng trên thế giới. Bệnh do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra và lây lan từ người này sang người khác qua đường hô hấp. Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis đã gây bệnh và tử vong ở người từ hàng nhiều thế kỷ nay nhưng đến năm 1882 thì Tubercle bacillus mới được biết tới. Đến những năm cuối 1940 thì thuốc chống TB hữu hiệu đầu tiên (streptomycin và acid  p – amino salicylic) mới được sản xuất. Đến năm 1952, người ta sản xuất ra isoniazid (INH) để điều trị TB ( McCray et al. 1997). Trước đây, người ta chỉ điều trị TB bằng một loại thuốc, tuy nhiên đến đầu những năm 1950 thì có sự xuất hiện của các dòng vi khuẩn M. tuberculosis kháng thuốc (và gần đây thì xuất hiện các dòng kháng từ 2 loại thuốc chính điều trị TB trở lên) nên đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều loại thuốc trong điều trị. ở Mỹ giai đoạn từ 1950 đến 1985 đã có nhiều cải cách trong các chính sách y tế công cộng kết hợp với việc điều trị kết hợp nhiều loại thuốc nên số trường hợp mắc TB đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, từ 1985 đến 1992, số trường hợp bị TB lại tăng lên rất nhanh. Người ta cho rằng một số nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng dịch TB là do sự xuất hiện của đại dịch HIV/AIDS, việc điều trị TB không đúng hoặc không triệt để (làm gia tăng vi khuẩn kháng thuốc) và sự đi lại thông thương giữa các nước trên thế giới làm lây lan căn bệnh này. Tỷ lệ mới mắc vi khuẩn lao kháng thuốc ở Mỹ tăng lên từ 2% đến 9% trong 3 thập kỷ qua. TB là căn bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu trên thế giới và hàng năm thì có khoảng 3 triệu người chết vì căn bệnh này. Từ 1992 đến nay thì số trường hợp bị TB có xu hướng giảm xuống và ở Mỹ từ 1992 đến 2000 số trường hợp bị TB giảm được 39%.

Các bệnh không truyền nhiễm

Ung thư

Ung thư là một bệnh mà cơ chế là có một số tế bào tăng sinh hỗn loạn, liên tục  và không kiểm soát được . Ung thư có hơn 100 dạng khác nhau và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở Mỹ với hơn 500.000 ca tử vong hàng năm. Có nhiều nguyên nhân gây ung thư, các nguyên nhân chính gây ung thư ở người được xếp vào 3 nhóm như sau: các chất hoá học, virus và phóng xạ. 

Hoá chất 

Với sự phát triển của ngành công nghiệp hoá chất, ngày càng có nhiều người làm việc trong môi trường có nguy cơ phơi nhiễm cao với các hoá chất độc hại, đặc biệt là các chất có khả năng gây ung thư. Ví dụ, công nghiệp hoá chất sản xuất thuốc nhuộm, các cơ sở thuộc da, sản xuất rượu sopropyl, nhựa và các sản phẩm của dầu mỏ. Phơi nhiễm với các hoá chất ở nơi làm việc ước tính gây ra 2 đến 8% số trường hợp ung thư. Thuốc lá gây ra khoảng một phần ba số trường hợp ung thư vì tất cả các nguyên nhân. Thuốc lá liên quan tới ung thư phổi, ung thư miệng, cổ họng, thực quản, lách, bàng quang và thận. Những người vừa nghiện thuốc và nghiện rượu thì có nguy cơ bị ung thư cao hơn những người khác 35 lần. Những chất hoá học trong thức ăn mà chúng ta ăn vào hàng ngày ước tính gây ra khoảng một phần ba tới một nửa số trường hợp bị tử vong. Chất aflatoxin là một độc chất có tự nhiên trong một số loài nấm mốc và ước tính là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan ở những nước đang phát triển.   b. Virus

Một số loài virus có liên quan mật thiết với ung thư ở người như: virus viêm gan

B, virus Epstein-Barr, virus Papiloma ở người, virus tấn công tế bào lympho T (HTLV1, HTLV-2) và HIV.

Phóng xạ

Phóng xạ nguyên tử hoặc phóng xạ ion hoá và tia tử ngoại (UV) từ mặt trời có thể gây ung thư. Nồng độ phóng xạ ion hoá cao làm tăng rủi ro bị ung thư, ví dụ như trong các tai nạn nổ nhà máy nguyên tử hay trong một số phương pháp điều trị bệnh. Tuy nhiên, đối với phương pháp điều trị bằng tia X quang liều thấp thì nguy cơ bị ung thư là thấp. 

Ô nhiễm môi trường là nguyên nhân gây ra khoảng 2% tử vong do ung thư. Một trong những chất ô nhiễm chính đó là các hydrocarbon vòng thơm, được tạo ra do hoạt động đốt cháy gỗ, thuốc lá và các nhiên liệu hoá thạch. Các hợp chất chứa clo cũng là một trong những chất ô nhiễm chính trong nước có liên quan tới ung thư ở động vật. Một số  hormon tổng hợp và thuốc cũng có thể gây ung thư hay có liên quan tới ung thư ở người. Ví dụ một số thuốc chống ung thư, đặc biệt là các hợp chất ankyl như cyclophosphamid và chlorambucil; steroid đồng hoá; estrogen tổng hợp như diethylstilbestrol, conjugated estrogens, và thuốc tránh thai chứa estrogen. Môi trường ô nhiễm, hệ sinh thái thay đổi đã có nhiều tác động đến bệnh ung thư. Nổi bật nhất là mối tương quan giữa suy giảm tầng ozon và gia tăng tỷ lệ mắc bệnh ung thư da ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Australia, New Zealand, và Chile v.v.

Ung thư da

Nồng độ của tia tử ngoại ngày nay cao hơn nhiều so với 50 năm hay 100 năm trước đây. Đây là hậu quả của sự suy giảm tầng ozon gây giảm đáng kể lượng tia tử ngoại chiếu vào trái đất. Do hoạt động của con người trong những thập niên gần đây, không khí bị ô nhiễm, tầng ozon bị suy giảm và chúng ta phơi nhiễm với tia tử ngoại ở nồng độ cao hơn trước đây. Một số yếu tố khác có tác động đến sự phơi nhiễm tia tử ngoại là: độ cao, vĩ độ và sự bao phủ của mây. Độ cao tăng lên thì nồng độ UV cũng tăng lên, vì ở trên cao không khí loãng hơn ở mực nước biển, vì vậy chúng hấp thụ UV kém hơn. Tia tử ngoại cũng mạnh nhất ở vùng gần xích đạo. Tuy nhiên, do lỗ thủng tầng ozon ở bán cầu nam nên Nam Cực,  Chile, và New Zealand cũng có nồng độ UV cao hơn bình thường. Một yếu tố làm giảm UV là sự che phủ của mây. Khí hậu và vi khí hậu với mây che phủ có thể làm giảm nồng độ UV có thể tới 50% tầng bình lưu (tạo ra các lỗ thủng tầng ozon).  

Hen suyễn

Trong những thập niên gần đây, ô nhiễm không khí với sự gia tăng nồng độ của khí ozon và  sương mù hoá học cũng như sự ấm lên của toàn cầu đã làm gia tăng các trường hợp bị hen suyễn cùng với nhiều bệnh hô hấp khác. Hen suyễn là bệnh hô hấp mạn tính với các triệu chứng khó thở do viêm đường hô hấp. Có nhiều tác nhân gây kích thích sự nhạy cảm của đường hô hấp, làm cho bề mặt đường hô hấp bị sưng lên, lớp màng nhầy cản trở không khí chuyển động và các cơ ở xung quanh đường hô hấp bị thắt chặt (bronchospasm).

Những thay đổi này làm hẹp đường hô hấp và cuối cùng bệnh nhân sẽ cảm thấy khó thở và có các triệu chứng của bệnh hen. Các triệu chứng của căn bệnh này có thể khác nhau giữa các cá thể và bao gồm các triệu chứng sau đây:

Thở khò khè / thở gấp / ngực bị nghẹt.

Ho khó kiểm soát / ho liên tục vào ban đêm.

Khó thở khi thở ra / khó thở trong hoặc sau khi làm việc nặng nhọc hay tập thể dục quá sức.

Những người bị bệnh hen rất nhạy cảm với các tác nhân mà có thể không hề ảnh hưởng tới người khoẻ mạnh. Những tác nhân kích thích chứng hen suyễn có thể khác nhau giữa các cá thể nhưng những tác nhân phổ biến nhất là:

Các chất gây dị ứng (là các nhân tố gây phản ứng làm dị ứng) bao gồm: bét/ve đất, nấm mốc, gián và chất thải của chúng

Chất gây kích thích trong không khí, bao gồm: khói thuốc, khói từ đốt củi, than, cháy rừng và các hơi khói hoặc mùi khó chịu khác như các dung dịch dùng để phun trong nhà, sơn, dầu hoả, nước hoa và xà phòng thơm, phấn hoa.

Nhiễm khuẩn đường hô hấp như cảm lạnh, cúm, đau cổ họng và  viêm xoang.

Tập thể dục hay một số hoạt động khác làm người bệnh thở mạnh hơn.

Thời tiết, đặc biệt là gió khô, không khí lạnh và thay đổi đột ngột

Ước tính ở Mỹ có 12, 4 triệu người bị hen và 4, 2 triệu trong số này dưới 18 tuổi. Hen suyễn là một bệnh mạn tính phổ biến nhất ở trẻ em ở nhiều nước trên thế giới.