Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi
BỒ TÁT VĂN THÙ SƯ LỢI
Lưỡi Gươm Vàng
Trí Tuệ
Tâm Hà Lê Công Đa
Qua
kinh sách thuộc
truyền thống
Đại thừa
ta được biết mỗi
vị Phật
thường có
hai vị
Bồ tát
làm thị giả
. Nếu như
Đức Phật
A Di Đà
có
Bồ Tát Quán Thế Âm
và
Đại Thế
Chí
làm thị giả
thì một trong hai vị
thị giả
chính
của
Đức Phật
Thích Ca
là
Văn Thù Sư Lợi
,
đại biểu
cho
trí tuệ
siêu việt
.
Bồ Tát
Văn Thù
đã
xuất hiện
hầu như
trong tất cả các
kinh điển
quan trọng của
Phật giáo
Đại
thừa
:
Hoa Nghiêm
,
Thủ Lăng Nghiêm
,
Pháp Hoa
,
Duy Ma Cật
,… như
là một nhân vật thân cận nhất của
Đức Phật
Thích Ca
,
khi thì
chính thức
thay mặt
Đức Thế Tôn
diễn nói
Chánh
pháp
, có lúc lại đóng vai tuồng làm người
điều hành
chương
trình
để
giới thiệu
đến
thính chúng
một thời pháp quan
trọng của
Đức Bổn
Sư. Vì
vai trò
đặc biệt
quan trọng
đó mà
Bồ Tát
Văn Thù
đã được tôn xưng là vị
Pháp
Vương Tử
, và
hình ảnh
của Ngài không những đã rất
quen
thuộc
, gần gũi với
quần chúng
Phật tử
theo
truyền thống
Đại thừa
cổ điển
từ
Ấn Độ
đến Trung Hoa,
Triều
Tiên
,
Nhật Bản
,
Tây Tạng
,
Việt Nam
,…
trong suốt
gần hai
thiên niên kỷ qua mà ngay cả với những
truyền thống
Đại
thừa
hiện đại
của
Tây phương
.
Phật tử
Hoa Kỳ, Âu Châu,
Úc Đại Lợi,… ngày nay hoặc
tụng niệm
danh hiệu
của Ngài
hoặc dùng
hình ảnh
của Ngài như là một đối tượng
quán
chiếu
, xem đó như là một trong những
phương pháp
hành trì
tu tập
hiệu quả
nhất nhằm
đạt đến
tuệ giác
.
Qua kinh sách thuộcta được biết mỗi vị Phậthai vị. Nếu nhưcóvàthì một trong hai vịchính củalàchođãhầu như trong tất cả cácquan trọng của,… như là một nhân vật thân cận nhất của, khi thìthay mặtdiễn nói, có lúc lại đóng vai tuồng làm ngườiđểđếnmột thời pháp quan trọng củaSư. Vìquan trọng đó màđã được tôn xưng là vị, vàcủa Ngài không những đã rất, gần gũi vớitheotừđến Trung Hoa,,…gần hai thiên niên kỷ qua mà ngay cả với nhữngcủaHoa Kỳ, Âu Châu, Úc Đại Lợi,… ngày nay hoặccủa Ngài hoặc dùngcủa Ngài như là một đối tượng, xem đó như là một trong nhữngnhất nhằm
Là
vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường
được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên
một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Trên tay phải của Ngài,
dương cao lên khỏi đầu là một lưỡi gươm đang bốc lửa
-một biểu tượng đặc thù của Bồ Tát Văn Thù để phân
biệt với các vị Bồ Tát khác- mang hàm ý rằng chính lưỡi
gươm vàng trí tuệ này sẽ chặt đứt tất cả những xiềng
xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người
vào những khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi
bất tận, đưa con người đến trí tuệ viên mãn. Trong khi
đó, tay trái của Bồ Tát đang cầm giữ cuốn kinh Bát Nhã-
trong tư thế như đang ôm ấp vào giữa trái tim mình suối
nguồn và biểu trưng của tỉnh thức, giác ngộ. Chính vì
tính cách biểu trưng này mà những nhân vật kiệt xuất về
mặt trí tuệ trong lịch sử Phật giáo thế giới, cụ thể
như Bồ Tát Long Thọ và đặc biệt là Phật giáo Mật Tông Tây Tạng, đã được xem như là những hóa thân của Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi, với hai nhân vật đặc sắc: Vị quân vương
Phật tử Trisong Detsen (742-797), người góp công đầu trong
việc hoằng dương Chánh pháp tại Tây Tạng với việc sáng
lập Phật học viện Samye và Đại sư Tông Khách Ba (1357-1419),
người sáng lập tông phái Mũ Vàng (Geluk) của Phật giáo Tây
Tạng mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 hiện nay là kẻ
truyền thừa. Trong tự truyện của Đại sư Tông Khách Ba có
kể lại câu chuyện thân phụ của Ngài trong một giấc mơ
đã thấy một nhà sư trẻ từ Ngũ Đài Sơn –nơi trụ tích
của Bồ Tát Văn Thù- tìm đến với ông, trước khi Ngài chào
đời, như là một điềm báo trước rằng Tôn giả Tông Khách
Ba sẽ là một nhà học giả vĩ đại không phải chỉ riêng
đối với Phật giáo Tây Tạng mà là cả Phật giáo thế giới
nói chung. (1)
I.
Đi Tìm Nguồn Gốc của Bồ Tát Văn Thù.
Có
thể nói rằng ý niệm Bồ Tát gắn liền với truyền thống Đại Thừa và bởi vì Bồ Tát Văn Thù không hề thấy xuất
hiện trong các kinh tạng Pali Nguyên Thủy cũng như ngoài Đại
Thừa, những nhà học giả nghiên cứu về Phật giáo đã gặp
phải rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu về nguồn gốc,
lai lịch của Bồ Tát Văn Thù. Một số giả thuyết đãđược đưa ra để lý giải về xuất xứ cũng như sự hiện
hữu của Bồ Tát Văn Thù. Trong số những giả thuyết này
có cái thấm đẩm tính chất truyền thuyết, huyền thoại
như thường được thấy trong bất cứ truyền thống tín ngưỡng
nào, bên cạnh đó cũng không thiếu những công trình nghiên
cứu của các nhà học giả Phật giáo mang tính khoa học.
Sau đây ta sẽ lần lượt điểm qua một vài giả thuyết đáng
lưu ý.
1.
Bồ Tát Văn Thù, Người Tạo Dựng
Vương Quốc Nepal.
Theo
Benoytosh Bhattachary (2), Bồ Tát Văn Thù là một nhân vật xuất
chúng, người đã mang ánh sáng văn minh của Trung quốc đến
cho vương quốc Nepal và do đó Ngài đã được tôn sùng kính
ngưỡng tại đây. Nguồn tài liệu chính mà Bhattachary dựa
vào là truyền thuyết Svayambhu Purana, kể lại rằng Bồ tát Văn Thù đã đến từ Trung quốc và chính là người tạo dựng
nên vương quốc Nepal, lúc bấy giờ chỉ bao gồm khu vực chung
quanh thung lủng Kathmandu, bằng cách làm khô cạn hồ nước
đã phủ lên thung lủng này trước đây. Theo truyền thuyết
này thì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đang cùng một số môn đệ
trú ngụ trên ngọn núi Pancasirsa (Ngũ Đài) của Trung Quốc,
do thần thông mà biết được rằng có một vị Phật hiệu
“Tự Tại” Adibudha hiện đang ra đời và hoằng hoá trên
một ngọn đồi nằm kế cận hồ Kali của xứ Nepal. Bồ Tát Văn Thù liền vội vàng dẫn môn đồ đến Nepal để đảnh
lễ Ngài, nhưng khi đến nơi, Bồ tát khám phá ra rằng ngọn
đồi này không ai có thể đến được vì bị bao bọc chung
quanh bởi một hồ nước đã bị nhiễm độc bởi Long vương.
Ngài liền dùng thần lực của lưỡi kiếm mang theo cắt chia
thung lủng ra làm sáu mảnh, đồng thời xẻ núi cho nước
thoát ra làm khô cạn hồ nước này ngay lập tức. Cùng một
lúc Ngài cũng đã dùng thần thông đào nên một chiếc
hồ khác để cho Long vương của hồ Kali có nơi trú ẩn. Xong
xuôi Ngài dựng lên một ngôi tự viện thờ phượng Phật
Adibudha ở trên đồi này, (ngày nay là đồi Svayabhunath) còn
mình thì lưu trú cạnh đó. Hiện nay trên đồi Svayabhunath
của xứ Nepal vẫn còn lưu dấu ngôi cổ tháp thờ Phật
Adibudha và cách đó không xa là Thánh điện thờ Đức Văn
Thù Sư Lợi. Sau khi hoàn tất xong mọi việc, Ngài đã để
cho một môn đệ ở lại làm vua của vương quốc tân lập
Nepal, còn mình thì trở về Trung Quốc trút bỏ xác phàm, lưu
lại nhục thân, trở thành một vị Bồ Tát thánh hóa.
Là
một truyền thuyết dĩ nhiên khó đảm bảo được tính xác
thực, hơn thế nữa, truyền thuyết Svayambhu Purana mà Bhattachary
dựa vào để xác định nguồn gốc của Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi cũng chỉ mới xuất hiện gần đây, sớm nhất là vào
khoảng thế kỷ thứ 16, nên không thể là một nguồn tài
liệu đáng tin cậy về xuất xứ của Bồ tát Văn Thù, vì
như ta biết, Bồ Tát Văn Thù đã xuất hiện khá sớm trong
các kinh sách Đại Thừa. Giả thuyết về nguồn gốc này cũng
không được xây dựng trên một cơ sở vững chắc vì theo
học giả John Brough (3), phần lớn truyền thuyết liên quan
đến vương quốc Nepal đều xuất phát từ nước Vu Điền
(Khotan) và đã được người Tây Tạng sau này truyền vào
Nepal vào khoảng thế kỷ thứ 10 CE. Brough đã đưa ra một
số chi tiết cho thấy truyền thuyết liên quan đến việc lập
quốc của xứ Vu Điền cũng có những điểm tương đồng
và hiện hữu song hành với truyền thuyết liên quan đến việc
tạo dựng xứ Nepal, trong đó có hai chi tiết rất giống nhau:
Thứ nhất, xứ Vu Điền cũng được tạo dựng nên do việc
làm khô cạn một hồ nước. Truyền thuyết Gosrnga Vyakarana
kể lại rằng “Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni khi đi đến
đồi Gosrnga, Ngài trông thấy hồ nước liền bảo hai đệ
tử là Ngài Xá Lợi Phất và Đa văn thiên hãy làm cho thấy
biên giới của đất liền. Vâng lời Phật, hai vị Thánh tăng
này đã dùng thiền trượng và giới đao làm khô cạn hồ
nước đồng thời chuyển toàn bộ hồ nước và các sinh vật
đang sinh sống trong đó đến một cái hồ kế cận. Thứ hai,
Đức Văn Thù Sư Lợi đã ban ân sủng đặc biệt nhằm bảo
hộ một khu vực ở trên đồi Gosrnga mà tại địa điểm
này về sau một tu viện Phật giáo đã được xây dựng lên.
Gosrnga là một trung tâm Phật giáo quan trọng đầu tiên của
xứ Vu Điền cũng giống như ngọn đồi Svayambhu của thung
lủng Kathmandu (Nepal). Theo Brough, nguồn gốc lai lịch của những
truyền thuyết này chính ra là được xuất phát từ Vu Điền
hơn là Nepal vì ngay cả trong truyền thuyết Svayambhu Purana cũng
đã nêu lên rằng Gosrnga là tên ban đầu của đồi Svayambhu.
Sở dĩ có sự chuyển đổi những truyền thuyết này từ Vu
Điền sang Nepal là vì văn tự cổ của Tây Tạng gọi xứ
Vu Điền là Li-Yul, nhưng sau này khi xứ Vu Điền bị xoá tên
không còn là một vương quốc độc lập nữa, người Tây
Tạng có thể đã không còn biết chắc chắn vị trí của
xứ Vu Điền nằm ở đâu. Thế nên vào thời điểm mà kinh
điển Tạng ngữ được kết tập (Kanjur), Li-Yul đã được
gán cho là Nepal, chính vì vậy mà những truyền thuyết liên
quan đến xứ Li-Yul cũ, (Vu Điền) đã trở nên gắn bó với
Li-Yul mới (Nepal) và người Nepal sau này đã xem những truyền
thuyết này là của chính họ.
Nhưvậy, một cách tóm tắt, giả thuyết cho rằng Bồ Tát Văn
Thù là người đến từ Trung Quốc và đã tạo dựng nên xứ
Nepal, đã không phù hợp cả về mặt lịch sử cũng như
tính luận lý.
2.
Bồ Tát Văn Thù và Nhạc Thần (Càn
Thát Bà) Pancasikha:
Trong
khi đó một nhà học giả Pháp, Marcelle Lalou, cho rằng đã
có những mối tương quan mật thiết giữa Bồ Tát Văn Thù
và danh hiệu của một Càn Thát Bà -nhà nhạc thần của các
cung trời –Pancasikha, thường được đề cập đến trong
các kinh tạng cả Pali lẫn Sanskrit. Học giả Lalou lập luận
rằng một trong những quan hệ này là ý nghĩa tương đương
giữa danh hiệu Pancasikha và một từ thỉnh thoảng được
dùng khi miêu tả sự xuất hiện của Bồ Tát Văn Thù: Pancaciraka.
Pancaciraka có nghĩa là “người có mái tóc kết thành năm
búi”, trong khi đó Pancasikha có nghĩa là “Năm Chòm” mà
theo ngài Phật Hộ thì danh hiệu này liên hệ đến một kiểu
búi tóc năm chòm rất thịnh hành của giới trẻ thời xưa.
Một
lãnh vực khác có mối tương quan giữa Bồ Tát Văn Thù và
Pancasikha theo Lalou, là phẩm chất của thanh âm giọng nói và
tài biện thuyết. Văn Thù Sư Lợi được biết là vị
Bồ tát có biện tài vô ngại và thường được miêu tả
là người có giọng nói đặc biệt êm dịu, ngọt ngào, thế
nên Ngài còn mang một danh hiệu khác là Diệu Âm (Manjughosa
hay Manjusvara) và được coi là “Vị Chủ Tể của Thuyết
Giảng” (Vadiraja hoặc Vagisvara). Trong khi đó, Pancasikha là
một Càn Thát Bà với biệt tài ca hát, đương nhiên là phải
có một giọng nói hết sức quyến rũ, êm dịu. Kinh Sakkapanha
đã nêu rõ biệt tài này của Pancasikha: Vị Phạm thiên Đế
Thích, chủ của Cung Trời thứ ba mươi ba muốn được thỉnh
giáo Đức Thế Tôn nhưng ngại ngùng không biết Phật có có
sẵn sàng để tiếp xúc hay không nên đã nhờ Pacasikha làm
trung gian với hy vọng là với tài ca hát của vị Nhạc thần
này sẽ tạo ra một bầu khí thuận lợi. Trong Kinh Sakkapana,
Đức Thế Tôn đã tán thán tài nghệ của vị Càn thát bà
này như sau:
“Âm
thanh tiếng đàn của ông hoà hợp thật tuyệt diệu với lời
ca, ông Pacasikha! Cũng vậy, lời ca của ông rất hoà hợp với
tiếng đàn. Lại nữa ông Pacasikha, thanh âm của tiếng đàn
không át chế giọng ca của ông cũng như thanh âm của gịong
ca không hề át chế tiếng đàn.” (4)
Nên
nhớ rằng Đức Thế Tôn lúc chưa xuất gia là một vị Hoàng
tử tài hoa và rất được cưng chiều. Cung điện của Ngài
vì thế là nơi tập trung tất cả những nhạc sĩ và ca sĩ
tài ba nhất của vương quốc CaTỳ La Vệ đương thời nên
trình độ thưởng ngoạn âm nhạc của Ngài là của một người
hiểu biết, có kiến thức về nghệ thuật thẩm âm.
Mối
tương quan thứ ba giữa Bồ Tát Văn Thù và Pancasikha là sự
trẻ trung. Pancasikha là vị Nhạc Thần sống ở thiên cung,
“nơi hoa xuân không hề tàn” và cái già không hề có mặt.
Biểu tượng chính của vị Thiên vương này là sự tươi trẻ
cùng với dung mạo phong lưu tuấn tú. Nét tươi trẻ cũng là
một biểu hiệu của Bồ Tát Văn Thù khi một trong những đặc
tính mô tả về Ngài là kumarabhuta bao hàm hai ý nghĩa, trẻ
trung và là hoàng tử. Thế nên theo Lalou, tính cách phổ thông
chung của hai nhân vật này đều được bắt nguồn từ một
huyền thoại là các vị thần tiên, các Thiên vương không
bao giờ già. Điều này có thể đúng với nhân vật Pancasikha,
tuy nhiên yếu tố trẻ trung –kumarabhuta- không phải là đặc
tính chính yếu của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, như sau này,
đặc biệt là dưới thời Đường của Trung Quốc, Bồ Tát
thường được mô tả là đã xuất hiện như một ông già
hoặc đôi khi như một người ăn xin.
Cuối
cùng, cả Bồ Tát Văn Thù cũng như Pancasikha đều đóng vai
trò của một người giới thiệu, nêu câu hỏi mở đầu để
chuẩn bị cho một thời pháp quan trọng của Đức Thế Tôn.
Kinh Điển Tôn (Mahagovinda) trong bộ Trường A Hàm kể lại,
lúc Phật đang ở núi Linh Thứu thì vị Nhạc thần Pancasikha
-tức Bát-giá-Dực- đã hiện đến với Phật và tường trình
cùng Ngài những gì mà ông ta đã được chứng kiến tại
cung trời Đao Lợi trước đây (5). Tích truyện này cũng đã
được kể lại trong bộ Đại Sự (Mahavastu) mà trong đó ở
phần cuối, Pancasikha đã đóng vai trò của người giới thiệu chương trình, giống như vai trò của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi
trong các kinh điển Đại Thừa.
Dựa
trên những mối tương quan gần gũi về danh hiệu, hình tướng,
phẩm chất và vai trò của hai người, phải chăng hình ảnh
của nhân vật Pancasikha chính là hình ảnh của Bồ tát Văn
Thù Sư Lợi ở buổi sơ khai? Học giả David Snellgrove đã đưa
ra giả thuyết như vậy và cho rằng Pancasikha lúc ban đầu
được gọi là Pancasikha Manjughosa, trong đó Manjughosa (Diệu
Âm) là thuộc tính nêu bật phẩm chất về giọng nói của
Pancasikha. Cũng theo Snellgrove, sau này danh hiệu trên đã được
đảo ngược vị trí thành Manjughosa Pancasikha trong đó Pancasikha
trở thành thuộc tính của nhân vật Manjughosa và Manjughosa
không ai khác hơn chính là danh hiệu nguyên thủy của Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi.
Tuy
nhiên cả Lalou lẫn Snellgrove đã không nêu ra được một kinh
sách nào để dẫn chứng cho lập luận của mình cho thấy
rằng có sự quan hệ giữa Manjughosa và Nhạc thần Pancasikha.
Mối liên hệ này hoàn toàn không thấy xuất hiện trong kinh
tạng Pali, duy chỉ có một phẩm trong Kinh Trường A Hàm khi
đề cập đến một đỉnh núi của dãy Hi Mã Lạp Sơn, Ghandhamadana,
có miêu tả: “Diệu Âm (Manjughosa), vua của các Càn-thát-bà,
bao quanh bởi 500 vị Càn thát bà, trụ xứ ở đó.” Thế
nhưng, phẩm kinh này chỉ có bản dịch bằng tiếng Trung quốc
là còn tồn tại, thế nên tên Diệu Âm có thể đã được
diễn dịch ra theo ngôn ngữ Trung quốc và chưa chắc là đã
đúng với nguyên văn Phạn ngữ. Hơn thế nữa, danh từ pancasikha
mà Ngài Phật Hộ cho rằng có ý nghĩa là năm búi tóc, trong
Phạn ngữ còn có một ý nghĩa khác là năm đỉnh núi, hay
năm ngọn núi, sẽ được nói đến trong phần tiếp theo sau
đây.
3.
Núi Ghandhamadana, Trú Xứ của Bồ
Tát
Trong
phẩm kinh Trường A Hàm như đã dẫn chứng ở trên có đề
cập đến ngọn núi Ghandamadana như là nơi trú xứ của vua
Càn-thát-bà Diệu Âm. Ghandhamadana là một phần của dãy Hy
Mã Lạp Sơn bao quanh hồ nước Anavatapa nổi tiếng, vì là
nơi phát tích các dòng sông quan trọng của Ấn Độ: Hằng
hà, Ấn hà và Oxus, thường được nói đến trong kinh điển truyền thống Phật giáo. Trong phần chú giải phẩm Tự Thuyết
(Udana) của Tiểu Bộ Kinh, hồ nước và những dảy núi bao
quanh này đã được chi tiết hoá như sau:
Hồ
Anavatapa được bao quanh bởi năm ngọn núi là Sudarsana, Citra,
Kala, Ghandhamadana, và Kailasa. (6)
Như
vậy Gandhamadana là tên của một trong năm ngọn núi – mà
Phạn ngữ gọi là pancasikha hay pancasirsa. Thế nên, có thể
đã có mối liên hệ giữa danh từ pancasikha (đỉnh núi) với
địa phương nơi trú xứ của vị vua Càn-thát-bà. Vị Nhạc
thần cai quản các Càn thát bà này đã lấy tên địa phương
nơi mình cư ngụ làm danh hiệu cho chính mình, Pancasikkha. Trong
truyền thống Ấn Độ, người ta cũng thấy rằng Hy Mã Lạp
Sơn được mô tả như là trú xứ của các Càn-thát-bà và
vị Nhạc thần Pancasika đã thường xuyên lui tới chốn này.
Chuyện tiền thân của Bồ Tát Văn Thù (Manjari Jataka) trong
bộ Đại Sự có kể lại rằng vị Nhạc thần này đã từng
đến thăm viếng vị sơn thần cai quản Hi Mã Lạp Sơn để
thuyết phục ông ta phát khởi lòng khoan dung rộng lượng,
và trong bộ Khổng Tước Minh Vương kinh (Mahamayuri) cũng nêu
rõ rằng trú xứ của Pancasikha là vùng Kế Tân (Kashmir), phía
Tây Bắc của dãy Hi Mã Lạp Sơn kế cận với năm ngọn núi
bao quanh hồ nước Anavatapa nổi tiếng.
Bồ
Tát Văn Thù đồng thời cũng có quan hệ mật thiết với
ngọn núi Ghandhamana. Trong bộ kinh ngắn, “Bồ Tát Văn Thù
Sư Lợi Nhập Niết Bàn”, Bồ Tát đã được mô tả là đã
từng đến thăm viếng dảy Hi Mã Lạp Sơn để chuyển hoá
500 vị địa tiên cư trú tại đây trở về với Phật giáo.
Và sau đó, cũng trong bộ kinh này đã mô tả cảnh Bồ Tát nhập Niết bàn, khi dùng lửa tam muội tự thiêu đốt xác
thân của mình. Xá lợi của Ngài được đưa về đỉnh núi
Hương Sơn, nơi mà vô số lượng các Thiên, Long, qủy thần
sẽ tụ tập đến để làm lễ tôn kính Ngài. Núi Hương Sơn
này đã được nhà học giả Pháp Lamotte xác định là Gandhamadana,
“ngọn núi tỏa thơm mùi hương báu”. (7)
Khi
mà tiếng tăm của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ngày càng phổ
biến trong đại chúng, tên tuổi của Ngài thường được
gắn liền với những danh sơn trong các quốc gia Phật giáo,
cụ thể như Gosrnga của xứ Vu Điền (Khotan) và Ngũ Đài Sơn
của Trung Quốc. Cả Gosrnga và Ngũ Đài Sơn đều có hồ nước
gần kề và đặc biệt Ngũ Đài Sơn, như tên gọi của nó,
bao gồm năm ngọn núi quần tụ lại với nhau, phần nào liên
hệ đến thuộc tính pancacira -tóc năm búi- của Bồ Tát Văn
Thù, mà bất cứ nơi nào có liên hệ đến con số năm đều
có thể được coi như là nơi trú xứ thích hợp của Bồ
Tát. Trong tinh thần này, Ngũ Đài Sơn là nơi trụ tích lý
tưởng của Bồ Tát Văn Thù vì phần nào liên hệ đến vùng
năm núi trong đó có ngọn Ghandhamadana nổi tiếng.
II.
Ngũ Đài Sơn, Trung Quốc , Nơi Trụ
Tích của Bồ Tát Văn Thù.
Ngũ
Đài Sơn thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây, sở dĩ đưọc gọi
là Ngũ Đài vì có năm ngọn núi cao quây quần lại với nhau
là Đông đài, Tây đài, Nam đài, Bắc đài và Trung ương đài,
phong cảnh rất thanh tú với hồ nước lung linh, những dòng
sông trong veo uốn khúc, và những cảnh quan thiên nhiên kỳ
thú như những bức tranh thủy mặc, nên từ lâu được coi
là chốn bồng lai tiên cảnh, trú xứ của những vị Tiên
theo truyền thuyết Trung Hoa. Sở dĩ Ngũ Đài Sơn được xem
là nơi trụ tích của Bồ Tát Văn Thù vì kinh Hoa Nghiêm có
nói rằng: Ngài Văn Thù Bồ Tát trụ ở núi Thanh Lương phía
Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ Tát nghe. Núi
Thanh Lưong sau này được ám chỉ là núi Ngũ Đài, cho nên
núi Ngũ Đài cũng được gọi là núi Thanh Lương mà theo tin
tưởng của Phật tử, trong núi này hiện có Đức Văn Thù thuyết pháp cho hàng vạn Bồ Tát nghe. Núi Ngũ Đài từ đời
Tùy đã được coi như là cõi Tịnh Độ của Bồ Tát Văn
Thù và đến giữa đời Đường, tức là vào cuối thế kỷ
thứ bảy, thì đã trở thành một trung tâm tín ngưỡng lớn,
một địa điểm hành hương có tầm vóc quốc tế. (8)
Đã
có rất nhiều truyền thuyết cũng như Kinh sách còn lưu truyền
lại nói rằng Bồ Tát Văn Thù đã nhiều lần hoá hiện ra
tại Ngũ Đài Sơn cho những ai có tâm thành hành hương đến
đây để tìm cầu Ngài. Nổi tiếng nhất là chuyện đại
sư Phật Hộ, người nước Kế Tân (Kashmir), đã hành hương
đến Ngũ Đài Sơn vào năm 676 chỉ với một hy vọng duy nhất
là được nhìn thấy Bồ Tát Văn Thù xuất hiện. Khi đến
nơi Sư đã phủ phục năm vóc xuống đất và khấn cầu Bồ
Tát. Sau khi đảnh lễ xong đứng dậy thì ngài Phật Hộ thấy
một lão trượng đang đi lại hướng mình. Người này hỏi
Sư là có mang theo mình thần chú Buddhosnisavijaya hay không, mà
theo ông lão thì chỉ có thần chú này mới có năng lực giải
trừ người Phật tử Trung Quốc ra khỏi những cám dỗ ma
quỷ. Sư Phật Hộ thú nhận rằng mình đã không mang theo thần
chú này và được ông già khuyến cáo là phải quay trở về Ấn Độ thỉnh thần chú này rồi khi trở lại đây chắc
chắn sẽ được gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi. Tâm tràn đầy
hân hoan, sư Phật Hộ kính cẩn cúi đầu cảm tạ lời chỉ
dẫn và khi ngững lên thì ông già đã biến mất! Sư
quay trở về Ấn Độ và khi trở lại Ngũ Đài Sơn cùng với
thần chú, Ngài đã gặp Bồ tát Văn Thù một lần nữa và
lần này Bồ Tát đã hướng dẫn ngài Phật Hộ tham quan Ngũ
Đài Sơn cũng như cho biết những bí mật ẩn tàng ở đây.
Một
câu chuyện khác cũng không kém quan trọng vì đã dẫn đến
việc xây dựng một ngôi đạo tràng trang nghiêm vĩ đại nhất
tại Ngũ Đài Sơn, Kim Các tự. Chuyện kể rằng Thiền sư Đạo Nhất, một cao tăng nổi tiếng đời Đường, cho rằng
mình vì thiếu phước duyên nên mới sinh ra vào thời mạt
pháp, may ra chỉ đến Ngũ Đài Sơn mới có thể thấy được
sự hóa hiện của Bồ Tát. Trong niềm tin thành như thế, Sư
đã thực hiện một chuyến hành hương thăm viếng thánh địa
của Ngài vào năm 736 cùng với một tăng sĩ đồng hành. Trên
con đường lên núi bỗng dưng Sư trông thấy một lão tăng
cưỡi trên mình một con voi trắng xuất hiện ở hướng đối
diện. Sau khi hai bên cung kính vái chào nhau, vị lão tăng này
cho biết là ông ta đã hiểu rõ lai lịch cùng tâm nguyện của
Đạo Nhất và hứa hẹn rằng nếu Sư trở lại vào ngày hôm
sau thì có thể gặp được Bồ Tát Văn Thù. Sư Đạo Nhất
vô cùng cảm ơn hảo ý của vị lão tăng, chưa kịp hỏi han
thêm thì vị lão tăng này bỗng dưng biến mất như một làn
gió, để lại trong không gian một mùi hương thoang thoảng.
Sư quá đổi vui mừng và suốt đêm nghỉ lại tại chùa Thanh
Lương, trung tâm của núi Ngũ Đài, Sư cứ trằn trọc mãi
mong cho trời mau sáng để có thể diện kiến và đảnh lễ Bồ Tát. Sáng hôm sau vào lúc tinh mơ, Sư đã vội thức
dậy một mình nhắm hướng Tây lên núi. Trong làn gió lạnh
của buổi sớm mai, Sư bỗng thấy trên không hiện ra một
ngôi cổ tháp toả ra những ánh sáng rưc rỡ. Tiếp tục hành
trình, Sư một lần nữa gặp lại vị lão tăng cưỡi con voi
trắng của ngày hôm trước. Vị Tăng khuyến khích Sư cứ
nên tiếp tục và khi đi thêm một đổi đường nữa, Sư ngạc
nhiên thấy một nhóm đông tăng chúng đang tụ tập thọ trai
tại một ngôi phạn đường. Tự nhắc nhở mình rằng mục
đích chính là gặp gỡ Bồ Tát Văn Thù, Sư thấy mình không
nên nấn ná lại chỗ này mà tiếp tục dấn bước và rồi
bất chợt trước mặt Sư một đồng tử trạc chừng 13, 14
tuổi xuất hiện, tự xưng là Thiện Tài Đồng Tử, chúc mừng
Sư: “Chào tăng sĩ, Ngài đã bước đến ngưỡng của của
Kim Các Tự”. Sư theo chân vị đồng tử này khoảng chừng
vài ba trăm bước về hướng Tây Bắc, đi qua một cây cầu
thì bước chân vào một dảy dinh thự hùng vĩ trang nghiêm
của tu viện, tất cả đều bằng vàng, ở đó Sư gặp lại
vị lão tăng cưỡi con voi trắng. Đến đây thì không còn
nghi ngờ gì nữa, Sư biết rằng vị lão tăng này chẳng ai
khác hơn chính là Bồ Tát Văn Thù hoá hiện! Khỏi nói chắc
mọi người cũng biết là Sư vui mừng đến độ choáng váng
phải một lúc sau mới hoàn hồn tỉnh lại. Nhân cơ hội này
Sư đã tham vấn Bồ Tát về những khúc mắc trong
Phật pháp và Ngài cũng đã ân cần hỏi han về tình trạng Phật pháp ở quê hương Sư. Sư Đạo Nhất được mời thọ
thực tại đây và sau đó vị đồng tử đã hướng dẫn Sư
đi thăm viếng toàn bộ cảnh quan của tu viện. Từ giả Bồ
Tát Văn Thù bước đi chừng trăm bước, Sư ngoái đầu nhìn
lại, tất cả đều biến mất!
Sư
Đạo Nhất đã đem tất cả những điều mình đã được
chứng kiến tâu trình lên cùng Hoàng đế Huyền Tôn và nhà
vua tỏ ra đã bị thu hút bởi chuyện linh ứng mầu nhiệm
của Bồ Tát Văn Thù nên đã ủng hộ cho việc khởi công
kiến thiết ngôi Kim Các Tự. Ngôi chùa vĩ đại này được
kiến trúc theo mô hình mà Sư Đạo Nhất đã trông thấy trong
lần gặp gỡ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, được hoàn tất vào
cuối thế kỷ thứ 8 do công lao của nhà sư Ấn Độ, Bất
Không Kim Cương đã vận động Hoàng Đế Đại Tôn cung cấp
ngân khoản xây chùa vào năm 766 CE.
Một
nhà sư khác người Nhật Bản, Viên Nhân (Ennin), cũng đã hành
hương đến Ngũ Đài Sơn vào năm 840 CE. Ông đã lưu lại đây
hơn hai tháng và trong nhật ký đã ghi lại những điều chứng
kiến được tại Ngũ Đài Sơn như sau: “Vào khoảng đầu
hôm, chúng tôi, một nhóm tăng chúng khoảng mười người đột
nhiên trông thấy trên bầu trời hướng đông của thung lủng
xuất hiện một cây đèn thần, ánh sáng ban đầu chỉ nhỏ cỡ chừng bằng một cái bình bát nhưng sau đó lớn dần
lên bằng cả cái nhà. Chúng tôi quả thật là hoàn toàn rúng
động trước cảnh tượng này, vội vã quỳ xuống đãnh lễ
và niệm lớn danh hiệu Bồ Tát Văn Thù. Rồi thì một
cây đèn khác lại hiện ra gần chúng tôi hơn, thoạt tiên
cỡ bằng một chiếc nón rơm và rồi cứ tiếp tục lớn dần
lên. Hai ngọn đèn này nhìn từ xa, cách nhau khoảng chừng
100 bộ, tỏa ánh sáng rất rực rỡ cho đến khoảng nửa đêm
thì tàn lụi dần và biến mất.”
Trong
cuốn hồi ký này, sư Viên Nhân cũng mô tả lại những kiến
trúc, đền đài, những nơi thờ phượng ở trên Ngũ Đài
Sơn, kể cả bức tượng Bồ Tát Văn Thù rất nổi tiếng
tại chùa Hoa Nghiêm:
“Bức
tượng Bồ Tát cưỡi trên mình con sư tử lớn bằng cả một ngôi nhà năm gian. Con sư tử trông thật siêu nhiên,
vĩ đại và sống động cứ như là thực. Ta có cảm tưởng
như là nó đang đi và thở hơi khói ra ở miệng. Chúng tôi
nhìn nó một hồi và càng nhìn càng thấy nó như đang di chuyển.”
Theo
lời vị sư trú trì kể lại cùng sư Viên Chân thì bức tượng
này đã phải đúc đến lần thứ bảy mới hoàn thành, tất
cả những lần trước, lần nào cũng bị hư bể cả. Nghĩ
rằng chắc có chuyện gì không đúng, có thể đã mạo phạm
đến Bồ Tát, nhà điêu khắc chủ trì việc đúc tượng thành tâm khấn nguyện cùng Bồ Tát Văn Thù xin Ngài hiện
ra chỉ cho ông hình ảnh trung thực nhất mà Bồ Tát muốn
miêu tả về mình. Câu chuyện đúc tượng này đã được
Sư Viên Chân tóm tắt như sau: “Sau khi cầu nguyện, nhà điêu
khắc mở mắt ra và vô cùng kinh ngạc khi thấy Bồ Tát Văn
Thù cỡi trên mình con sư tử màu vàng xuất hiện trước mắt.
Một khoảnh khắc sau đó, Bồ Tát bay lên đám mây ngũ sắc
và mất hút dần vào khoảng không. Nhà điêu khắc vô cùng vui mừng và cảm kích khi được trông thấy hình ảnh thực
sự của Bồ tát nhưng đồng thời ông cũng không cầm
được nước mắt vì hối hận khi đã diễn tả sai lầm về
Bồ Tát từ trước đến nay.
Câu
chuyện này mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch
sử mỹ thuật Phật giáo vì kể từ đây trở về sau, hình
ảnh Bồ tát Văn Thù cưỡi sư tử xuất hiện trong đám mây rực rỡ đã trở thành một khuôn mẫu cho các nghệ nhân sáng
tác khi miêu tả về Bồ tát. Năm 1975, người ta khám phá ra
tại Động Đôn Hoàng một bức bích họa có niên đại vào
khoảng thế kỷ thứ 10 đã trình bày Bồ Tát Văn Thù với
kiểu cách như trên.
Ngũ
Đài Sơn như đã trình bày có quan hệ mật thiết với núi
Thanh Lương được đề cập đến trong Kinh Hoa Nghiêm mà ngài
Phật Đà Bạt Đà La đã phiên dịch ra Hán văn vào năm
418-420 CE. Thế nên khi nói về Bồ Tát Văn Thù người ta không
thể không nói đến Hoa Nghiêm tông, một tông phái Phật giáo
Trung quốc rất thịnh hành dưới đời Đường. Chính việc
phổ biến rộng rãi Kinh Hoa Nghiêm đã góp phần lớn trong
việc phát triển tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Văn Thù trong
đại chúng, bởi vì Kinh Hoa Nghiêm, đặc biệt là trong phẩm
kết thúc của bộ kinh này, đã làm nổi bật vai trò của
Bồ tát như là một vị thiện trí thức với những lời khuyên thích đáng và thiết thực cho những kẻ thiết tha cầu đạo,
tiêu biểu là Thiện Tài đồng tử. Sự ảnh hưởng của tông
Hoa Nghiêm đối với tín ngưỡng Văn Thù đã được Đại
sư Pháp Tạng (643-712 CE), Đệ tam tổ của Hoa Nghiêm tông mô
tả trong cuốn “Những Ghi Chú Về Truyền Thống Hoa Nghiêm”,
đã chép lại một phần lai lịch cùng những truyện tích liên
quan đến Ngũ Đài Sơn và Bồ Tát Văn Thù.
Một
yếu tố khác có thể cũng đã góp phần vào việc củng cố tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Văn Thù tại Ngũ Đài Sơn là
một niềm tin khá phổ biến trong thời điểm này cho rằng
thế gian đang bước vào giai đoạn mạt pháp. Trong thời kỳ chánh pháp suy tàn, ma vương tà kiến lộng hành, người ta
tin rằng duy nhất chỉ có Ngũ Đài Sơn, nơi trú xứ của Bồ
Tát Văn Thù là có thể giúp cho con người có được cơ hội
tiếp xúc trực tiếp với Chánh pháp, với nguồn mạch giác
ngộ. Niềm tin này phần nào đã được phản ảnh trong cuốn
nhật ký hành hương của Đại sư Viên Chân như đã trình
bày ở trên cũng như trong “Văn Thù Sư Lợi Pháp Bảo Chân
Ngôn Kinh” do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch ra Hán văn vào năm
710, có đưa ra lời tiên đoán của Đức Phật Thích Ca liên
hệ đến Ngũ Đài Sơn. Trong cuốn kinh này, khi Bồ tát Vajraguhyaka
thỉnh cầu Phật giải thích việc gì sẽ xảy đến khi Chánh
pháp không còn tồn tại, Đức Thế Tôn đã trả lời: “Sau
khi Ta nhập Niết bàn rồi, trong cõi Nam Thiện Bộ Châu này,
ở về phía Đông Bắc có một quốc độ tên là Đại Trung
quốc. Ở ngay trung tâm của quốc độ này có một ngọn núi
tên là Ngũ Đài. Vị Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi sẽ trụ
xứ ở trung tâm của ngọn núi này diễn nói Chánh Pháp để
cứu độ chúng sanh. Vô số Thiên, Long, La Sát, Phi Nhân, Ma
hầu la già cùng các chúng trời người và qủy thần tụ tập
chung quanh Bồ Tát để cúng dường và nghe pháp”. Đức
Phật Thích Ca còn cho biết thêm, khi Chánh Pháp không còn tồn
tại, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi sẽ diễn nói pháp tương ứng
cho giai đoạn này.
Như
vậy, đến cuối thế kỷ thứ Bảy, tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Văn Thù đã được thiết định vững chắc tại Trung
Quốc và Ngũ Đài Sơn, nơi trụ tích của Bồ tát đã trở thành một thánh địa thiêng liêng thu hút khách hành hương
đến từ khắp nơi trên thế giới: Kasmir, Ấn Độ, Nhật
Bản, Nepal, Tích Lan, Tây Tạng,… Tại đây, một ngôi đại
tháp cao sáu thước cũng đã được dựng lên trong khuôn viên
của chùa Đại Tháp Viện (Trung Đài) để thờ một bảo vật
mà người ta tin là tóc của Bồ tát Văn Thù, vì theo truyền
thuyết được kể lại thì dưới thời Bắc Ngụy, Bồ Tát
đã hiện ra một lần dưới dạng một bà già nhà quê nghèo
khó đến hành hương Ngũ Đài Sơn và vì không có gì quý báu
để cúng dường, bà đã tặng chùa mái tóc của mình. Dĩ
nhiên là tăng chúng trong chùa không có ai hoan hỷ để đón
nhận vật phẩm cúng dường này, nếu không nói là còn tỏ
ra rất khinh rẻ. Bất ngờ bà cụ già bay vọt lên không và
hóa hiện ra thành Bồ Tát Văn Thù, lúc này mọi người mới
kinh hoàng quỳ sụp xuống lạy và sau đó kiến tạo lên ngôi bảo tháp này để thờ di vật qúy giá của Bồ Tát mà người
Trung hoa tôn kính gọi là hắc xá lợi. Ngôi đại tháp đã
được trùng tu lại dưới thời Hoàng đế Thần Tôn, nhà
Minh (1573-1619).
Ngài
Bất Không Kim Cương (AMOGHAVAJRA)
Và
Sự Nghiệp Phát Triển Tín Ngưỡng Văn Thù Sư Lợi
Khi
nói đến tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Văn Thù ta không thể không nói đến công nghiệp lớn lao của một vị đại tăng
đã đưa tín ngưỡng này phổ cập đến toàn thể lãnh thổ
Trung quốc, đó là ngài Bất Không Kim Cương. Ngài Bất Không
người nước Tích Lan (Trung Hoa cổ gọi là nước Sư Tử),
lúc 15 tuổi theo ngài Kim Cương Trí đến Lạc Dương và được
thọ giới ở đó. Trong hai mươi năm trời theo thầy học đạo,
chuyên nghiên cứu về bí nghĩa của Mật giáo. Sau khi ngài
Kim Cương Trí viên tịch, ngài cùng với sư Hàm Quang theo đường
thủy trở về Ấn Độ để tham vấn các học giả của Mật
giáo đương thời, sưu tầm được rất nhiều kinh điển của
Mật giáo. Tới năm Thiên Bảo thứ năm (746), Ngài lại trở
về Tràng an chuyên việc phiên dịch để hoằng truyền Mật
giáo. Ngài tịch năm Đại Lịch thứ 9 (774) đời vua Đại
Tôn, thọ 70 tuổi. Trong khoảng 30 năm trời, Ngài được ba
đời vua Huyền Tôn, Túc Tôn và Đại Tôn đều trọng đãi.
Khi Ngài mất, vua truyền lệnh bãi triều ba ngày để kỷ niệm
và tặng Ngài tên hiệu là “Đại Biên Chính Quảng Trí Bất
Không Tam Tạng Đại Hoà Thượng”. (9)
Cùng
với La Thập, Chân Đế và Huyền Trang, Ngài được gọi là
một trong “Bốn nhà Đại phiên dịch” kinh điển của Phật
giáo Trung Quốc. Ngoài việc hoằng truyền giáo lý Mật tông,
Đại sư Bất Không còn được biết đến qua sự nghiệp xiễn
dương tín ngưỡng tôn thờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi tại Trung
Quốc. Những văn bản liên quan đến công nghiệp này đã được
Huyền Cảo, một đệ tử của Ngài, sưu tập lại trong bộ
Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, gồm cả những thư từ
trao đổi giữa Ngài và hai vị Hoàng đế Trung Quốc vào khoảng
cuối thế kỷ thứ tám là một nguồn sử liệu có giá trị
trong việc nghiên cứu việc phát triển tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.
Như
đã nói ở trên, chính Đại sư Bất Không là người chịu
trách nhiệm trong việc hoàn tất công trình xây cất Kim Các
tự tại Ngũ Đài Sơn sau khi được Đại Tôn Hoàng Đế chuẩn
cấp ngân sách vào năm 746. Do được vua ưu ái sùng mộ mà
Ngài Bất Không đã thuyết phục được vua ban hành sắc lệnh
tôn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi như là một vị Bồ Tát bảo
hộ chính trong tất cả các chùa chiền tự viện tại Trung
quốc. Trong sớ biểu dâng lên Hoàng Đế, Bất Không Đại
sư đã viết về Bồ Tát Văn Thù như là “người đang bảo
vệ, canh giữ Ngũ Đài Sơn”, hàm ý nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ quốc gia của Bồ Tát. Vào năm 772, cũng do yêu cầu
của Ngài, Đại Tôn Hoàng Đế lại ban hành thêm một đạo
dụ khác ra lệnh cho khắp các ngôi chùa trong nước đều phải
thiết lập thêm một viện thờ Đức Văn Thù. Tại những
điện thờ này, tăng sĩ được yêu cầu tụng đọc những
kinh điển cầu “quốc thái dân an”, Bồ Tát Văn Thù nghiểm
nhiên đã rời khỏi nơi trụ tích Ngũ Đài Sơn để trở thành
một vị thần bảo hộ quốc gia. Quan niệm tín ngưỡng
đức Văn Thù ở Ngũ Đài Sơn vì thế được phổ cập khắp
nơi và Ngũ Đài Sơn bỗng trở thành một nơi Linh nghiệm Đạo
Tràng của toàn thể quốc dân.
III.
Vai Trò v à Ý Nghĩa của Bồ Tát Văn Thù Trong Kinh Điển Đại Thừa.
Mặc
dù cho đến nay các nhà nghiên cứu Phật học vẫn chưa có
được một lời giải đáp thỏa đáng về nguồn gốc, xuất
xứ của Bồ Tát Văn Thù nhưng một điều mà không ai có thể
phủ nhận được là hình ảnh của Ngài đã xuất hiện rất
sớm trong các kinh điển Phạn ngữ, mở đầu cho giai đoạn
hưng khởi của truyền thống Phật giáo Đại Thừa. Cụ thể
như sáu trong số chín bộ kinh đầu tiên mà Ngài Chi Ca Lâu
Sấm đã phiên dịch ra tiếng Trung quốc vào thế kỷ thứ
2 CE, nay vẫn còn tồn tại, đều có đề cập đến sự
hiện diện của Bồ Tát Văn Thù (10). Điều này đã cho thấy
vai trò và ý nghĩa quan trọng của vị Bồ Tát được tôn
xưng là Đại Trí, mà với biện tài vô ngại thường là nhân
vật được chọn để đứng ra lý giải những phạm trù tinh
yếu cốt lõi của triết lý đạo Phật như Tánh Không, Bất
Nhị, Chân Đế,… được quảng diễn trong các kinh điển
Đại Thừa. Được tuyên xưng là Thái tử của Đấng Pháp
Vương, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có lúc chính thức thay mặt
Đức Bổn Sư diễn nói Chánh pháp mà pháp âm của Ngài vang
động khắp cả tam thiên đại thiên thế giới khiến cho tất
cả các cõi Trời, người, mọi loài chúng sanh đều được
thấm nhuần mưa pháp, hưởng được lợi lạc. Vai trò này
của Bồ Tát đã được thể hiện nổi bật nhất trong các
bộ kinh “Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Bất Tư Nghị
của Phật”, Duy Ma Cật và Thủ Lăng Nghiêm. Cũng có
lúc Bồ Tát lại đóng vai trò làm người phát ngôn, giới
thiệu chương trình, long trọng cảnh báo cho đại chúng biết
Đức Thế Tôn bắt đầu thuyết giảng một thời pháp quan
trọng như trong kinh Pháp Hoa, hoặc là một vị thiện trí thức
đưa ra những lời khuyên thiết thực và quý báu cho những
hành giả đang xả thân cầu Bồ Tát đạo như trong kinh Hoa
Nghiêm. Ta sẽ lần lượt điểm qua vai trò của Bồ Tát Văn
Thù trong các bộ kinh trọng yếu này của Đại Thừa.
1.
Tuyên Dương Diệu Pháp.
Trong
kinh “Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Bất Tư Nghị của
Phật”, chính Đức Thế Tôn đã trân trọng giới thiệu với
đại chúng biện tài vô ngại của Bồ Tát Văn Thù và yêu
cầu Ngài tuyên dương diệu pháp:
“Tôi
nghe như vầy :
Một
thời Đức Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây
ông Kỳ Đà, nước Xá Vệ, cùng với chúng đại Tỳ kheo là
một ngàn vị và Bồ tát là mười ngàn vị, lại có chư Thiên
tử của Dục giới, chư Thiên tử của Sắc giới và Thiên
tử của trời Tịnh Cư, cùng với quyến thuộc của họ nhiều
vô lượng trăm ngàn đang bao quanh để cúng dường cung kính,
nghe Phật nói pháp.
Bấy
giờ đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:
–
Này đồng tử ! Ngươi có biện tài, khéo có thể khai diễn.
Nay ngươi nên vì đại chúng Bồ tát tuyên dương diệu pháp.”
(11)
Tuy
là một bộ kinh ngắn nhưng nội dung kinh “Văn Thù Sư Lợi
Nói Về Cảnh Giới Bất Tư Nghị của Phật” hàm chứa một
ý nghĩa vô cùng quan trọng: Đây là một tuyên ngôn của lý
tưởng Bồ Tát Đạo được công bố bởi một vị đại Bồ
tát đại biểu cho trí tuệ. Khi Kinh Pháp Hoa nói rằng Đức
Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, đại sự nhân
duyên đó là gì nếu không phải là nỗi khổ đau của tất
cả chúng sanh? Thế nên cảnh giới của chư Phật không
thể tìm cầu ở những cõi Niết Bàn tịch tịnh hay Tịnh
Độ trang nghiêm mà phải chính ở ngay trong những nỗi phiền
não, khổ đau đó:
–
“Này đồng tử ! Phải cầu
cảnh giới chư Phật ở đâu ?
Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi thưa :
–
Bạch Thế tôn ! Cảnh giới của chư Phật phải cầu ở trong
phiền não của tất cả các chúng sanh. Vì sao vậy ? Nếu chơn
chánh hiểu rõ phiền não của chúng sanh, đó chính là cảnh
giới của Phật vậy. Sự chánh hiểu rõ phiền não của chúng
sanh này là cảnh giới của Phật, đó chẳng phải là chỗ
sở hành của tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật vậy.”
Cũng
trong bộ kinh này, một phạm trù thậm thâm uyên áo của triết
lý đạo Phật -hệ tư tưởng Bát Nhã – mà sau này
Bồ tát Long Thọ dùng làm cơ sở nền tảng xây dựng Trung
Quán Luận là Triết học Tánh Không, pháp môn Bất Nhị cùng
mối tương quan giữa Nhị Đế -Chân Đế và Tục Đế- đã
được lưỡi gươm vàng trí tuệ của Bồ Tát Văn Thù chặt
tung những đám mây mù của tà kiến, nghi hoặc, khi Ngài trả
lời Đức Thế Tôn về ý nghĩa của “pháp sở trụ bình
đẳng của Như Lai”:
“Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi thưa :
–
Bạch Thế tôn, tất cả phàm phu đối với trong pháp không
, vô tướng, vô nguyện, khởi lên tham sân si, cho nên chỗ
khởi lên tham sân si của tất cả phàm phu chính là pháp sở
trụ bình đẳng của Như Lai.
Đức
Phật bảo :
–
Này đồng tử ! Với cái không, há lại có pháp mà nói ở
trong đó có tham sân si sao ?
Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi thưa :
–
Bạch Thế tôn, không là có nên tham sân si cũng là có.
Đức
Phật nói :
–
Này đồng tử ! Tại sao không là có ? Lại vì sao tham sân
si là có ?
Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi thưa :
–
Bạch Thế tôn ! Không, vì dùng lời nói (diễn đạt) cho nên
có; tham sân si cũng vì dùng lời nói diễn đạt cho nên có.
Như đức Phật nói với tỳ kheo: “ Hữu không sanh, không
khởi, vô tác, vô vi, chẳng phải các pháp hành ấy, chẳng
phải chẳng có. Nếu là không có thì nó phải đối với pháp
sanh khởi, tác vi các hành, thì lẽ đáng phải không xuất
ly. Vì có cho nên nói là không xuất ly vậy “. Điều này
cũng vậy, nếu không có không, thì đối với tham sân si không
có sự xuất ly được. Vì có không cho nên nói lìa tham sân
si … các phiền não.
Đức
Phật nói :
–
Này đồng tử ! Như vậy, như vậy ! Như điều ngươi nói,
tham sân si … tất cả phiền não, chẳng có cái nào mà chẳng
ở trong cái không.
Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật :
–
Bạch Thế tôn ! Nếu người tu hành xa lìa tham sân si … mà
cầu nơi không, nên biết người đó chưa khéo tu hành, không
thể gọi là người tu hành được. Vì sao vậy ? Vì tham sân
si … tất cả phiền não tức là không vậy. » (12)
Mục
tiêu, lý tưởng của Bồ Tát đạo không phải chỉ là để
vượt qua vòng sanh tử, đạt đến cảnh giới Niết bàn mà
là hoàn thành Phật đạo để cứu độ chúng sanh. Trên con
đường tìm cầu giác ngộ, hành giả không thể không ươm
trồng bồ đề tâm đồng thời trui rèn cho mình trí tuệ Bát
Nhã. Đó là con đường tất yếu. Con đường này đã được
Bồ Tát Văn Thù khẳng định lại một lần nữa khi trả lời Tôn giả Tu Bồ Đề, đại biểu cho hàng Thanh Văn, khi Tôn
giả lo ngại rằng thuyết giảng những tư tưởng thậm thâm uyên áo sẽ không mang lại lợi ích gì cho kẻ sơ cơ:
« Tu Bồ Đề nói :
–
Này đại sĩ ! Nay ngài thuyết pháp có thể không đưa đến
sự che chở tâm kẻ sơ học chăng ?
Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi đáp :
–
Này đại đức ! Nay tôi hỏi ngài, tùy ý trả lời. Như có
vị lương y muốn điều trị bệnh nhân, vì muốn che chở
tâm của bệnh nhân nên không cho những vị thuốc có vị cay,
chua, mặn, đắng thích ứng với con bệnh. Vậy có thể làm
cho người bênh được lành bệnh, được an lạc chăng ?
Thưa
rằng :
–
Không thể được.
Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi nói :
–
Này đại đức ! Điều này cũng như vậy. Nếu vị thầy thuyết
pháp vì muốn che chở tâm kẻ học nên giấu kín pháp thậm
thâm không nói ra, mà tùy theo ý muốn kẻ ấy, chỉ diễn nói
ý nghĩa thô thiển để làm cho kẻ học giả ra khỏi khổ
sanh tử, đến cái vui Niết bàn, điều đó không bao giờ có.
» (13)
2.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi
Giảng
Pháp Môn Bất Nhị Trong Kinh Duy Ma Cật
Vai
trò tuyên dương diệu pháp của Bồ Tát Văn Thù một lần
nữa được thể hiện trong kinh « Duy Ma Cật ». Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia nhưng tu hành chứng đắc,
mật hạnh viên thông mà ngay cả những bậc đại đệ tử
của Phật cũng không có vị nào sánh bằng. Ông cư trú tại
thành Tỳ Da Li (Vaishali) như là một nhà thương gia giàu có
và đồng thời là một nhân sĩ uy tín tại địa phương. Một
hôm vì muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp lợi sanh, ông đã
mượn cớ bị bệnh để tạo dịp cho các vị quốc vương,
quan chức, dân chúng đến thăm và nhân cơ hội đó giảng
giải giáo lý cho họ. Đức Thế Tôn biết rõ căn « bệnh
» của ông nên đã lần lượt yêu cầu các vị đại đệ
tử thay mặt mình đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Thế nhưng
tất cả những vị đại đệ tử của Phật trong quá khứ
đã từng bị trưởng giả Duy Ma Cật chất vấn về tâm pháp
và sở học mà không một ai trả lời trôi chảy trước kiến
thức Phật pháp uyên thâm và biện tài vô ngại của ông nên
đều sợ hãi từ chối. Bệnh của trưởng giả Duy Ma Cật
là « bệnh Bồ Tát » -vì chúng sanh bệnh nên Bồ tát bệnh-
thế nên người có đủ tư cách để thăm bệnh ông, không
ai khác hơn ngoài vị Đại Trí Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi :
«
Lúc bấy giờ, Phật bảo Văn
Thù Sư Lợi :
–
Này Văn Thù Sư Lợi, Ông nên thay tôi đi đến thăm bịnh ông
Duy Ma Cật.
Văn
Thù Sư Lợi bạch Phật :
–
Bạch Thế Tôn ? Bực cư sĩ trí thức kia khó bề đối đáp,
vì ông ấy rất thâm đạt thật tướng, khéo nói pháp mầu,
trí tuệ vô ngại, biện tài thông suốt, rõ thấu phương pháp tu trì của tất cả Bồ Tát, thâm nhập kho tạng bí mật của
Chư Phật, hàng phục các ma, thần thông tự tại và trí tuệ
phương tiện đều đặng rốt ráo. Tuy thế, con xin vưng thánh
chỉ của Phật đến thăm bịnh ông.
Lúc
ấy, trong Đại chúng các hàng Bồ Tát và hàng Đại đệ tử,
Đế Thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương đều nghĩ rằng :
“Hôm nay hai vị đại sĩ : Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật
cùng nhau đàm luận tất nói pháp mầu”. Tức thời, tám nghìn
Bồ Tát, năm trăm Thanh Văn và trăm nghìn Thiên nhơn đều muốn
đi theo. » (14)
Mọi
người nô nức muốn đi theo là phải, vì họ chờ đợi một
cuộc tranh luận sôi nổi về giáo pháp sẽ xảy ra giữa hai
nhân vật kiệt xuất này, một đại biểu cho hàng trí tuệ Bồ Tát và một đại biểu cho hàng cư sĩ tại gia lỗi lạc,
mà qua đó chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều lợi ích thực
tiển cho việc tu học của mình. Nội dung của cuộc đàm luận giáo pháp quan trọng này giữa Bồ Tát Văn Thù và Trưởng
giả Duy Ma Cật đã diễn ra trong tất cả sáu phẩm của bộ
kinh, mà quan trọng nhất là trong các phẩm: Phật Quả và Pháp
Môn Bất Nhị.
Trong
Phẩm Phật Quả, ta gặp lại một lần nữa tư tưởng hàm
chứa trong kinh “Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Bất
Tư Nghị của Phật »: Cảnh giới của Như Lai là phiền não.
Đây là tư tưởng mà sau này Lục Tổ Huệ Năng đã phát biểu một cách cụ thể hơn: « Phiền não tức Bồ đề». Ta không
đi tìm cầu Bồ đề ở nơi nào khác ngoài chốn trần gian
khổ lụy này vì chính từ trong đống bùn nhơ của phiền
não, đóa hoa sen tinh khiết sẽ nẩy mầm. Ta hãy nghe Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi trả lời câu chất vấn của Trưởng giả Duy Ma về «hạt giống Như Lai» :
«
Bấy giờ, Duy Ma Cật hỏi Văn Thù:
-Thế
nào là hạt giống Như Lai?
Đáp:
-Có
thân là hạt giống Như Lai. Vô minh có ái là giống, tham sân
si là giống, tứ điên đảo là giống, ngũ cái (ngũ dục)
là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống,
bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bất thiện
đạo … là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp
và tất cả phiến não đều là hạt giống Phật.
Hỏi:
-Tại
sao?
Đáp:
-Nếu
kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì chẳng thể còn phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề nữa. Ví như chỗ gò cao chẳng thể sanh
hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp mới sanh hoa sen. Cũng thế,
kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh
khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh sanh khởi Phật pháp thôi. Như gieo giống nơi hư không thì
chẳng thể sanh khởi, ở đất phân bùn mới tốt tươi được.
Cũnh thế, kẻ vào vô vi chánh vị chẳng sanh khởi Phật pháp,
kẻ có ngã kiến như núi Tu Di còn có thể phát tâm Vô Thượng
Bồ Đề, sanh khởi Phật pháp. Nên biết tất cả phiền não
là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng
được bữu châu vô giá. Cũng thế, chẳng vào biển phiền
não thì chẳng thể đắc ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy.
» (15)
Đọc
xong bộ kinh Duy Ma Cật, có người sẽ hoang mang tự hỏi: Có
thể có một nhân vật tuyệt vời như thế chăng? Có một
nhân vật lịch sử như thế chăng, hay đấy chỉ là một nhân
vật hư cấu để biểu tượng một tư tưởng triết học
hay một lý tưởng Bồ tát đạo của Phật giáo Đại thừa?
«
Có thể trả lời một cách dứt khoát rằng đó là một nhân
vật lịch sử, xuất hiện trong một giai đoạn đặc biệt
của lịch sử phát triển Phật giáo nói chung, và trong thời
kỳ vận động của Đại thừa.
Một
con người có thật được trang bị với một cơ sở tư tưởng bất nhị (advaita) để có thể tự nâng lên hàng Thánh giả
vượt ngoài tam giới nhưng đồng thời có thể hạ mình ngập
lụt trong thế gian ô nhiễm mà vẫn không tách lìa thế giới
thuần tịnh vô nhiễm. » (16)
Chủ
điểm nền tảng của kinh Duy Ma Cật là triển khai nhận thức
về thực tại trên căn bản của nguyên lý bất nhị, tức
hệ tư tưởng tánh Không của Bát Nhã. « Nguyên lý bất nhị
hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt
mà khám phá ra thực tại tối hậu là Tuyệt đối thể ngay
trong các tồn tại sai biệt ấy. Để nhận thức được thực
tại chân thực, bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị…
» tức là « cánh cửa giao thông cho Bồ tát qua lại giữa
niết bàn và sinh tử. Nếu không được trang bị bằng nguyên
lý bất nhị, Bồ tát sẽ không đủ nghị lực và dũng mãnh
để trụ vững trên bồ đề tâm ». (17)
Tư
tưởng Bất Nhị quan trọng như thế nên trong kinh Duy Ma Cật
đã được nâng lên thành một Pháp Môn, và không ai đầy
đủ năng lực trí tuệ để nói về pháp môn này ngoài Ngài
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. Đây là nguồn cảm hứng sâu xa cho các Thiền gia Trung quốc sau này, trong một trăm công
án của « Bích Nham Lục » có công án thứ 84, « Duy Ma Bất nhị môn », được xây dựng từ phẩm « Bất Nhị Pháp
Môn » của kinh Duy Ma Cật:
«Bấy
giờ, Duy Ma Cật bảo các Bồ Tát rằng:
-Các
nhơn giả! Bồ Tát làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy
sở ngộ của mình mà nói ra.
…
Các
Bồ Tát mỗi mỗi đã nói xong như trên, rồi hỏi Văn Thù:
Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ Tát?
Văn
Thù đáp:
-Theo
ý tôi, nơi tất cả pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức,
lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn bất nhị.
Khi
đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:
-Chúng
tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt Nhơn giả nói:
“Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ Tát?”
Duy
Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng:
-Lành
thay! Lành thay! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là
chơn nhập pháp môn bất nhị.
Khi
thuyết phẩm này rồi, ở trong chúng có năm ngàn vị Bồ Tát
đều nhập pháp môn bất nhị, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. »
(18)
Ta
hãy nghe lời bàn trong Bích Nham Lục: « Lúc đó, Duy Ma Cư sĩ
đối với Ngài Văn Thù Sư Lợi và các vị Bồ Tát tùy tòng
tới thăm bệnh, ngài liền hỏi các vị Bồ Tát, thế
nào là Bồ Tát nhập bất nhị pháp môn. Các Bồ tát tùy tòng
từ người thứ nhất đến người thứ 32 đã lần lượt
đáp về câu hỏi này, nhưng Duy Ma cư sĩ đều không hài lòng
về các câu trả lời.
Cuối
cùng tới Ngài Văn Thù, đối với câu hỏi này đem trình bày:
Từ trước các vị Bồ Tát trình bày về: « Bất Nhị Môn
» đều chỉ đề cử về 2 pháp cho đó là bất nhị. Nhưng
bất nhị là cảnh giới của « Đại trí tuệ bình đẳng
», vốn dĩ 2 cũng không và 3 cũng không. Đó chỉ là phần
lý luận, đã là lý luận thời có hơn thua, nên ngài tâm đắc
được câu hỏi « Bất nhị môn » của Duy Ma. Ngài nói với
Duy Ma, theo như tôi thì « phải xa lìa mọi vấn đáp, không
nói, không thuyết, vô thị, vô thức, đó là nhập bất nhị
pháp môn ». Nếu nói tới pháp môn bất nhị này thời phải
xa lìa hẵn ngôn thuyết ở cảnh giới vong ngôn, tuyệt tự,
không thể đem hết thảy ngôn thuyết của hết thảy pháp
mà hiểu rõ được, và cũng không thể chỉ bảo dược, cũng
không thể biết được, không thể hỏi và trả lời được,
thời đó là « pháp môn bất nhị ». Lời đáp này của ngài
Văn Thù, không thấy vướng chỗ « nhị » và « bất nhị
» tức là nơi thấy biết của đại trí tuệ bình đẳng.
Tiếp
đó ngài Văn Thù đối với Duy Ma cư sĩ, hỏi: Chúng tôi tất
cả 32 người đều đã trình bày về «Bồ Tát nhập bất
nhị pháp môn» rồi, nay xin hỏi về chỗ kiến giải của
cư sĩ. Tức là ý phản vấn của Ngài Văn Thù. Lúc ấy cư
sĩ Duy Ma «lặng thinh không đáp». Ngài Văn Thù thấu suốt
ngay được ý của cư sĩ Duy Ma liền tán thán rằng: Tốt lắm
thay! tốt lắm thay! «Không có văn tự ngôn ngữ là chân bất
nhị pháp môn». (19)
3.
Lưỡi Kiếm của Bồ Tát Văn Thù
Trong Hệ Tư Tưởng Bát Nhã:
Phùng
Phật Sát Phật!
Hệ
tư tưởng Bát Nhã với triết lý Tánh Không được coi như
là xương sống của tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Mục
tiêu của Đại Thừa là hoàn thành Bồ tát đạo cũng đồng
nghĩa với thực chứng Tánh Không. Con đường dẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật phải được khởi đi từ nỗ lực loại
trừ ý thức phân biệt. Nhưng Bát Nhã Ba La Mật là gì? Ta
hãy nghe Bồ Tát Văn Thù giải thích trong kinh «Bát Nhã Thất
Bách Tụng» (Saptasatika Prajnaparamita) :
«
Phật hỏi : Này Văn Thù
Sư Lợi, Ông có bao giờ quán về các pháp của một vị Phật
?
Bồ
Tát Văn Thù thưa: Bạch Thế Tôn, không. Nếu con có thể trông
thấy được thành tựu đặc biệt của những pháp của một
vị Phật, con sẽ lập tức quán chiếu. Nhưng bạch Đức Thế
Tôn, sự phát triển của Bát nhã Ba La Mật không hề được
đặt cơ sở trên ý thức phân biệt về pháp để rồi nói
rằng, «những cái này là pháp của kẻ phàm phu, những cái
kia là pháp của hàng tỳ kheo, những cái này là pháp của
Thanh văn Duyên Giác, những cái kia là pháp của bậc Giác ngộ.»
Vị thiện nam tử khi buông bỏ tất cả để đi vào đại
định cầu khai mở trí tuệ bát nhã không phải chỉ để
nắm bắt cái pháp giúp y có thể phân biệt được cái
pháp này là pháp phàm phu, pháp kia là pháp của kẻ tu hành,
hay là của kẻ giỏi giang, hay của bậc hoàn toàn giác ngộ.
Bởi vì tuyệt đối không hề có những pháp như thế,
con không quán chiếu chúng, như vậy, bạch Đức Thế Tôn,
đó mới gọi là phát triển trí tuệ bát nhã… Lại nữa,
bạch Đức Thế Tôn, sự khai triển trí tuệ bát nhã không
hề mang lợi lạc cũng như không hề làm phương hại đến
các pháp. Trí tuệ bát nhã, khi được khai triển không là
kẻ mang ân sủng cho các pháp của một vị Phật cũng không
là kẻ huỷ diệt các pháp của kẻ phàm phu. Chỉ như thế,
bạch Đức Thế Tôn, mới gọi là phát triển trí tuệ bát
nhã, nó không ngăn chặn những pháp của kẻ phàm phu hay thu
nhận những pháp của một vị Phật.
Đức
Phật tán thán : Hay lắm ! Hay lắm ! Ông Văn Thù Sư Lợi. Ông
là người hiểu pháp này một cách sâu sắc. » (20)
Trong
một bộ kinh khác, «Thiên Vương Susthitamati Vấn Pháp » (Susthitamati
devaputra pariprcha), Bồ Tát Văn Thù đã giảng giải về trí
tuệ bát nhã cho Thiên vương Susthitamati nghe khi ông này ngỏ
ý muốn cùng được chuyên tu hạnh đức với Bồ tát:
Bồ
Tát Văn Thù: Này Thiên vương, nếu bây giờ ông có thể lấy
hết mạng sống của tất cả mọi chúng sanh mà không cần
phải dùng đến dao, đến gậy, đến dùi cui, đến gạch đá,
tôi sẽ cùng tu tập hạnh đức với ông.
Susthitamati:
Bạch đại thánh giả, tại sao ngài lại nói như vậy ?
Bồ
Tát Văn Thù trả lời: Này Thiên Vương, ông nghĩ như thế
nào về chúng sanh ?
Susthitamati:
Bach đại thánh giả, theo tôi, chúng sanh cũng như vạn pháp
chỉ là cái danh xưng chứ chẳng là cái gì cả. Tất cả đều
chỉ là do ý tưởng tạo ra.
Bồ
Tát Văn Thù: Này Thiên vương, thế nên tôi mới nói là ông
nên giết chết cái ý niệm về ngã, về bản thể của một
chúng sanh, của một sanh mạng, loại trừ luôn cả những ý
niệm về danh của chúng. Ông hãy giết bằng cách thức như
thế.
Susthitamati
hỏi: Bạch đại thánh giả, ta phải dùng phương tiện gì
để giết chúng ?
Bồ
Tát Văn Thù trả lời: Này Thiên vương, Tôi luôn luôn giết
chúng bằng lưỡi gươm bén của trí tuệ. Trong sát hành này,
ta phải cầm chặt lưỡi gươm bén của trí tuệ và hạ thủ
trong một cung cách không còn ý niệm về việc cầm gươm và
không cả sát niệm. Này Thiên vương, với cách thức như thế,
ông sẽ hiểu một cách sâu sắc rằng giết chết những ý
niệm về ngã, về chúng sanh tức là thực sự giết hết mọi
chúng sanh. Nếu ông làm được như thế, tôi sẽ cho phép ông
cùng tu tập hạnh đức với tôi. »
(21)
Chính
từ mẫu đối thoại này, cuốn kinh đã đẫn đến một bầu
khí trong đó Đức Phật đã vận dụng Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi qua một hành động đầy kịch tính là cầm gươm toan
giết Phật, tạo một sự tác động mạnh mẽ lên 500 vị
Bồ Tát đang thối chuyển vì đã không thể quên được những
tác hành tiêu cực trong quá khứ, khiến họ đắc quả Vô
Sanh Pháp Nhẫn:
«
Lúc này, để giúp cho 500 vị
Bồ tát trong đại chúng loại trừ ý thức phân biệt, Đức
Thế Tôn đã vận dụng thần thông tạo truyền cảm ứng cho
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi khiến Bồ Tát đã từ trong đại
chúng đứng dậy, sửa lại tăng bào, trật vai áo phải, cầm
lưỡi gươm bén trong tay, tiến thẳng đến Đức Thế Tôn
để giết Ngài.
Thấy
vậy, Đức Phật vội vàng bảo Bồ Tát Văn Thù: Hãy ngưng
! Hãy dừng tay ! Ông Văn Thù Sư Lợi ! Không được làm chuyện
quấy. Không được giết ta theo kiểu cách như vậy. Nếu ông
cần phải giết ta, trước tiên ông phải nên biết cách thức
tốt nhất để giết. Tại sao? Bởi vì, này ông Văn Thù Sư
Lợi, ngay từ ban đầu đã không có ngã, có nhân, có tha nhân;
ngay khi một người nhận thức rằng không có sự hiện hữu
của tự ngã, của bản sắc cá nhân, chính họ đã giết ta;
như vậy mới gọi là giết ».
(22)
Nội
dung của đoạn kinh này đã dẫn đến công án « Phùng Phật
Sát Phật » nổi tiếng của Thiền tông Trung Hoa và có thể
là nguồn cảm hứng cho các nghệ nhân khi miêu tả Bồ Tát Văn Thù trên tay cầm lưỡi gươm trí tuệ bốc lửa.
4.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
Bồ
Tát Văn Thù Chỉ Rõ Pháp Tu Siêu Việt Để Tỏ Ngộ Chơn Tâm
Trong
các bộ kinh Đại thừa, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh rất
quý, quý đến độ ngày xưa các vị vua Ấn Độ xem đây
như là một bảo vật trấn quốc, cấm không cho truyền bá
ra nước ngoài. Sau này một vị Thánh Tăng Ân Độ là ngài
Bát Thích Mật Đế (còn gọi là Bất La Mật Đế) đã phải
viết kinh vào miếng lụa mỏng, xẻ thịt bắp vế nhét vào
mới mang thoát ra khỏi nước đem vào Trung quốc dưới thời
nhà Đường. Ngài Bát Thích Mật Đế may mắn gặp được
một vị đại quan hết lòng hộ pháp là Thừa tướng Phòng
Dung, khuyến khích ngài dịch ra Hán văn cùng với Sa môn Di
Già Thích Ca người nước U Trường dịch lời, còn Thừa Tướng
Phòng Dung thì đích thân lãnh việc nhuận sắc, thế nên bộ
Kinh Lăng Nghiêm ngoài nghĩa lý cao thâm, văn chương cũng rất
trác tuyệt.
Nguyên
nhân Phật thuyết Kinh Lăng Nghiêm là vì Tôn giả A Nan trên
đường đi khất thực không may đã đi vào nhà một tín nữ ngoại đạo thông thạo chú thuật là Ma Đăng Già. Vì Tôn
giả A Nan là người có dung mạo rất tuấn tú khiến Ma Đăng
Già vừa mới gặp gỡ đã rất quyến luyến yêu thương nên
trổ tài huyễn thuật bắt giữ A Nan và dụ dỗ ngài sa ngã
vào đường xác thịt. Đức Phật biết A Nan đang mắc nạn
liền nói thần chú Lăng Nghiêm rồi bảo Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi mang thần chú này đến chỗ Ma Đăng Già để phá trừ
tà chú cứu nạn cho A Nan.
Đây
là một bài học cho Tôn giả A Nan. Ông học rộng, biết nhiều
nhưng chẳng hề chịu tu niệm nên không có định lực và
do đó không thoát khỏi bùa chú, pháp thuật của tà ma ngoại
đạo. Buồn rầu và hối hận, Tôn giả A Nan đã thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ cho ông một pháp tu có thể mau chóng đạt
thành đạo quả. Thương xót A Nan, cũng như thương xót chúng
sanh còn mãi trôi lăn trong sanh tử, mê lầm, Phật đã chỉ
ra một con đường đi đến giác ngộ nhanh chóng nhất, chắc
chắn nhất mà chư Phật mười Phương đã từng tu hành và
chứng đắc. Đó là con đường loại trừ VỌNG TÂM -tức
là tâm phân biệt- để làm tỏ ngộ bản thể CHƠN TÂM, tức
cái TÂM thường trụ, thanh tịnh, bất sanh bất diệt. Đó
chính là chủ đề của Pháp hội Thủ Lăng Nghiêm.
Pháp
hội Thủ Lăng Nghiêm là một « Hội khai thị pháp chưa từng
có, nghĩa lý thâm sâu, diệu âm thuyết pháp vang khắp mười
phương thế giới », được diễn ra tại tịnh xá Kỳ Hoàn
thành Thất La Phiệt, quy tụ “chúng Đại Tỳ Kheo một ngàn
hai trăm năm mươi vị, đều là Đại A La Hán, đã ra khỏi
luân hồi, đầy đủ oai nghi, giúp Phật hoằng pháp nơi các
quốc độ, trì giới thanh tịnh, làm mô phạm cho tam giới,
ứng hiện vô số thân, hóa độ chúng sanh đến cùng tột
vị lai ra khỏi trần lao. Hàng đệ tử được phó chúc trụ
trì Phật pháp gồm có: Đại Trí Xá lợi Phất, Ma Ha Mục
Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ
Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà v.v… là bậc thượng thủ, và có vô
số Bích Chi với môn đồ đồng đến nơi Phật cùng các Tỳ
Kheo mãn hạ tự tứ…cùng hằng sa Bồ Tát đều đến tụ
hợp, trong đó Văn Thù Sư Lợi là bậc Thượng thủ. » (23)
Sau
bảy lần được Phật khai thị, phá bỏ vọng thức bị nhận
lầm là tâm, và mười phen chỉ rõ cái tánh thấy biết của
con người–không phải là cái thấy biết ở giác quan, Tôn
giả A Nan và đại chúng trí tuệ được thông suốt, nhận
rõ rằng chúng sanh trôi nổi trong vòng sanh tử luân hồi hay
chứng được đạo quả Bồ đề an vui giải thoát cũng đều
là do ở sáu căn. Trong niềm hân hoan của Pháp hội, đại
chúng đã trình lên Phật một vấn nạn cuối cùng, một
câu hỏi cụ thể : Như vậy, trong sáu căn này thì nên tu theo
căn nào để đạt được viên thông ? Để trả lời câu hỏi
này, Đức Thế Tôn đã yêu cầu đại chúng –các bậc A la
Hán, các vị Bồ Tát- hãy trình kiến giải của mình cũng
như cho đại chúng biết là họ đã tu theo phương tiện nào
mà thành được đạo quả. Lúc này 25 vị Bồ Tát, A La Hán
hàng đầu có mặt trong Pháp hội đã trình lên Phật những
kinh nghiệm tu chứng của mình. Hai mươi lăm vị là hai mươi
lăm kinh nghiệm tu chứng khác nhau, mà pháp tu nào cũng hay,
cũng đều đưa đến giải thoát rốt ráo cả, điều này quả
thật làm cho đại chúng bối rối, khó chọn lựa.
Đến
đây ta thấy Phật hoàn toàn tin cậy vào trí tuệ của Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát để giải quyết vấn đề:
«
Lúc đó, Như Lai bảo Văn Thù
Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng:
Ngươi
hãy xem 25 vị vô học Đại Bồ Tát và A La Hán này, mỗi mỗi
trình bày phương tiện thành đạo lúc ban đầu, đều nói
tu tập viên thông chơn thật, lối tu của họ thật chẳng
hơn kém và chẳng trước sau sai biệt. Nay ta muốn khiến A
Nan khai ngộ, trong 25 lối tu, lối nào thích hợp, và sau khi
ta diệt độ, chúng sanh trong cõi này muốn vào Bồ Tát thừa,
cầu đạo Vô Thượng, từ cửa phương tiện nào để được
thành tựu? » (24)
Vâng
lời Phật, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đã đúc kết nội dung
của Pháp Hội, ban cho Tôn giả A Nan và đại chúng một thời
pháp vô cùng quan trọng
« A Nan, Ông nên chú ý nghe : Tôi vâng oai thần của Phật, nói
pháp môn tu hành này. Ông đem cái nghe của ông, nghe tất cả
pháp môn thâm mật của chư Phật, nhiều như vi trần nếu
các phiền não dục lậu không trừ thì cái nghe càng thêm lầm
lỗi. Ông biết đem cái nghe của ông, nghe các pháp môn của
chư Phật, sao ông không đem cái nghe đó, trở lại nghe « tánh
nghe » (chơn tánh) của mình.
A
Nan, « cái nghe » nó không phải tự nhiên sanh, do có tiếng
(thinh trần) nên mới gọi rằng « nghe ». Nếu xoay cái nghe
trở vào tự tánh, không chạy theo tiếng, thế là thoát ly
được cái tiếng (thinh trần), lúc bấy giờ cái nghe này cũng
không còn gọi tên là nghe nữa (vì không còn đối đãi nên
chẳng có tên kêu gọi). Một căn (lỗ tai) đã được phản
vọng trở về chơn rồi, thì cả sáu căn cũng đều được
giải thoát.
A
Nan, các cảm giác : thấy, nghe, hay, biết của ông đó, đều
là hư huyễn, như con mắt bị nhặm. Còn ba cõi sum la vạn
tượng đây, cũng không thật, đều như hoa đốm giữ hư không.
Khi cái thấy, nghe, hay, biết xoay trở lại chơn rồi, thì cũng
như con mắt kia hết nhặm. Khi các vọng trần tiêu hết thì
tâm ông được thanh tịnh.
Khi
tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa
chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới,
lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế
gian này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như
thế rồi thì nàng Ma Đăng Già ở trong mộng kia làm gì bắt
ông được !
A
Nan, ví dụ như các nhà huyễn thuật làm các thứ hình, tuy
có thấy cử dộng, nhưn gcốt yếu là tại cái máy rút. Nếu
máy kia thôi rút, thì các huyễn kia yên lặng, đều không có
tự tánh.
Sáu
căn của ông cũng thế, gốc từ nơi tâm, vì vô minh vọng
động thành ra sáu căn, nếu một căn được phản vọng về
chơn rồi, thì sáu dụng kia (sáu giác quan) đều không thành.
Nếu trần cấu còn thì ông vẫn còn ở địa vị hữu học
(còn phải tu). Khi trần cấu hết, thì tâm tánh ông được
hoàn toàn sáng suốt, đó là Phật.
A
Nan, ông chỉ xoay cái nghe của mình trở về chơn tánh, không
chạy theo phân biệt vọng trần bên ngoài, thì ông liền thành
đạo vô thượng, đây thật là pháp tu viên thông.
Các
đức Phật nhiều như số vi trần cũng đều do một con đường
này mà đến cửa Niết bàn. Hiện tại các vị Bồ tát và
những người tu hành đời sau, đều y pháp môn này mà thành
đạo. Chính tôi cũng nhờ pháp môn này mà được chứng quả,
đâu phải mộ mình Ngài Quán Âm tu mà thôi.
Nay
Phật dạy con lựa pháp môn tu hành, để cho người đời sau tu hành mau thành đạo quả, thì duy chỉ có pháp tu của Ngài
Quán Âm là hơn hết. Còn bao nhiêu các pháp tu hành khác, đều
nhờ oai thần của Phật gia hộ mới được thành tựu. Các
pháp ấy đều từ nơi sự tướng mà dẹp trừ trần lao, nên
không phải là một phương pháp trường kỳ tu tập.
Kính
lạy Đức Như Lai, xin Ngài gia hộ cho chúng sanh đời sau, đối
với pháp môn này không còn mê lầm. Bạch Thế Tôn, phương
pháp này rất là dễ tu, mau được thành đạo quả, có thể
đem dạy A Nan và chúng sanh đời sau, y theo đây tu hành thì
hơn các phương pháp khác. Đây là do lòng thành thật của
con lựa chọn như thế.» (25)
Thật
là một pháp môn tu chứng hoàn toàn–giải thoát rốt ráo–mà
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đã thay mặt Phật diễn nói trong
kinh Lăng Nghiêm, mang lại vô số lợi lạc cho tất cả các
chúng Thiên, Long, Bát bộ, các hàng Nhị thừa hữu học, các
vị Bồ tát mới phát tâm nhờ đó mà tỏ ngộ được chơn
tâm. Và tất cả chúng ta, không phân biệt căn cơ mau chậm,
không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh, mọi người, mọi
giới và mọi lúc đều có thể áp dụng hạ thủ công phu
một cách liên tục pháp môn này để tiến đến giải thoát hoàn toàn. Bồ Tát Văn Thù như thế, quả thật xứng đáng
được tuyên xưng là vị Pháp Vương Tử tuyên dương diệu
pháp.
5. Kinh Hoa Nghiêm:
Bồ
Tát Văn Thù Trong Vai Trò Thiện Trí Thức.
Kinh
Hoa Nghiêm cũng là một trong những bộ kinh qúy giá khác của
Đại Thừa. Tương truyền bộ kinh này do Đức Phật Thích
Ca thuyết giảng ngay sau khi thành Chánh giác. Trong khoảng 37
ngày tư duy dưới gốc cây Bồ đề, Ngài ở trong định «
Hải Ấn Tam Muội », hiện ra thân tướng Pháp Thân Đại Nhật
Như Lai mà nói ra bộ Kinh Hoa Nghiêm này để hoá độ cho các
vị Bồ tát từ ngôi Sơ Địa trở lên. Do vì ý nghĩa
quá thâm ảo nên Kinh này đã không được cho phổ biến mà
đem đi cất giữ tại cung điện của Long Vương. Mãi
đến 600 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Bồ Tát Long
Thọ ra đời, do lòng khát cầu Chánh pháp, Ngài đã dùng thần
thông xuống Long Cung và lưu lại đây trong 90 ngày để đọc
tụng sao chép và mang về san định lại rồi cho phổ biến bộ kinh vĩ đại này.
Kinh
Hoa Nghiêm xoay quanh hai trọng điểm « Nhất Thiết Duy Tâm Tạo
» và « Nhất Tâm Chân Như Pháp Giới Duyên Khởi », trong đó
phẩm « Nhập Pháp Giới » là một phẩm rất quan trọng, mô
tả một mẫu người lý tưởng, Thiện Tài Đồng Tử, đã
nguyện dâng trọn đời mình để phụng sụ Chánh pháp với
giấc mơ xây dựng một cõi Tịnh Độ nhân gian, giải thoát
hết thảy chúng sanh ra khỏi mọi khổ đau, hệ lụy. Trên
con đường đi cầu đạo Bồ Tát, Thiện Tài Đồng Tử đã
tham cầu học hỏi với 53 vị Thiện trí thức, mở đầu bằng
ngài Văn Thù Sư Lợi -biểu trưng cho trí tuệ để kết thúc
với hạnh Phổ Hiền. Phẩm Nhập Pháp Giới cũng đã nêu bật
được vai trò quan trọng và cần thiết của các bậc Thiện
trí thức trên con đường học đạo mà trong đó Bồ Tát Văn
Thù Sư Lợi là một vị Thiện trí thức điển hình.
Phẩm
Pháp Giới bắt đầu với pháp hội mở ra tại khu vườn của
ông Cấp Cô Độc trong rừng Thệ Đa, nước Thất La Phiệt
với Đức Phật Thích Ca cùng 500 vị đại Bồ Tát, hằng hà
sa số Thanh văn…Trong kỳ Pháp hội này, Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi đã nhận thấy trong thính chúng có một nhân vật đặc
biệt là Thiện Tài Đồng Tử, người « đã từng cúng
dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng
lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ
ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo cầu Nhứt thiết
trí thành Phật pháp khí. Tâm đồng tử này thanh tịnh như
hư không, hồi hướng Bồ đề không chướng ngại. Ngài Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền
an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp,» mà hai bài học vở
lòng là « phát tâm bồ đề » và « cầu Thiện trí thức
». Được nghe những pháp bảo vi diệu của Đức Văn Thù,
Thiện Tài Đồng Tử đã quyết định chọn Ngài làm vị Thầy
và muốn được đi theo để thọ giáo :
«
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, như tượng vương, xoay
nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng :
Lành
thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô
thượng Bồ đề, lại muốn thân cận các bực thiện tri thức
để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Này
thiện nam tử ! thân cận cúng dường các bực thiện tri thức
là nhơn duyên trước nhứt để được đầy đủ Nhứt thiết
trí.
Vì
thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.” (26)
Thiện
Tài đồng tử bạch rằng :
Cúi
xin đức Thánh vì tôi mà dạy Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh
thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? phải đến Bồ
Tát hạnh thế nào ? Phải thật hành Bồ Tát hạnh thế nào
? Phải tịnh Bồ Tát hạnh thế nào? Phải nhập Bồ Tát hạnh
thế nào ? Phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tùy
thuận Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh
thế nào ? Phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải làm
thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau được viên mãn. (27)
Ngài
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành
thay ! Lành thay ! này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô
thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát.
Này
thiện nam tử ! nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ
đề, đây là việc rất khó. Đã có thể phát Bồ đề tâm
rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này càng khó gấp bội.
Này
thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí
thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này
thiện nam tử ! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy
thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy
bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương
tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
Phương
nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng
Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tý
kheo tên là Đức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Đức Vân
: Bồ Tát phải học Bố Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát
hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được
mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ?” (28)
Như
vậy trên con đường Bồ tát đạo, bên cạnh phát Bồ đề
tâm, hành giả còn phải tìm cách thân cận với các bậc thiện
trí thức để học hỏi, mở mang trí tuệ rồi áp dụng vào
việc tu trì. Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành
thì chỉ trở thành một con một con mọt sách, một kho chứa
kiến thức chẳng những không ích lợi gì cho ai mà đôi khi
lại còn làm phát triển tính cống cao, ngã mạn, rất nguy
hại cho kẻ hành Bồ tát đạo.
Kể
từ đây vâng theo lời Thầy, Thiện Tài Đồng Tử đã lên
đường đi cầu đạo Bồ Tát, và đã gặp gỡ hầu hết những
vị thiện tri thức tiêu biểu cho các tông phái, pháp môn của
đạo Phật, học hỏi được tất cả những tinh yếu trong
giáo lý nhiệm mầu của Đức Bổn Sư. Đến chặng cuối,
khi tham vấn Bồ Tát Di Lặc, được ngài chỉ bảo cho các
pháp môn Bát Nhã và Duy Thức, trước khi từ giả, Bồ Tát
Di Lặc đã hết lời tán thán, xưng tụng Văn Thù Sư Lợi
như là một vị Bồ tát công hạnh đầy đủ nhất, hoàn toàn
nắm vững chân đế; trong quá khứ đã hoàn thành vô số hạnh
nguyện, đã từng là mẹ của vô số các vị Phật, là Thầy
của vô số lượng các vị Bồ Tát và Ngài khuyên Thiện Tài
Đồng Tử trở về gặp lại vị minh sư cũ, Bồ Tát Văn Thù
vì:
“Tất
cả các bậc thiện trí thức mà ngươi đã gặp, tất cả
các pháp môn mà ngươi đã nghe, tất cả các phương pháp đạt
đến giác ngộ mà ngươi đã hành trì, tất cả các hạnh
nguyện mà ngươi đã thực hiện; đều được coi như trong
quyền năng của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, người đã thực
chứng trí tuệ viên mãn.”
(29)
Vâng
lời Bồ Tát Di Lặc, Thiện Tài Đồng Tử lại cất bước
lên đường, vượt qua bao nhiêu thành trì nữa mới đến nước
Phổ Môn, vào thành Tô-ma-na để tìm gặp lại vị Thầy cũ
của mình. “Từ xa xa trông thấy bóng Ngài Văn Thù Sư Lợi
Bồ tát tận cuối chân trời, Thiện Tài rảo bước như bay
về phía Thầy, mong chóng qùy gối ôm lấy chân sư phụ cho
bỏ lòng thiết tha mong nhớ; đồng thời Ngài Văn Thù Sư Lợi
thoạt nhìn thấy bóng hình người đệ tử yêu quý của mình
ở tận mù khơi, lòng cũng rộn lên niềm vui mừng khôn xiết.
Ngài liền dơ tay qua khỏi 110 do tuần, rồi đặt nhẹ lên
đầu Thiện Tài, đợi đến khi chàng vừa tới, chưa kịp
làm lễ bái yết, Ngài đã cất tiếng khen: “Tốt lắm! Tốt
lắm!” Rồi diễn nói cho người đệ tử thân yêu vô số
pháp lành vi diệu, vô biên tế đà la ni, vô lượng đại nguyện,
vô biên đại trí tuệ quang minh và thần thông tam muội không
sao kể xiết, khiến Thiện Tài Đồng Tử nhập vào đạo tràng Phổ Hiền hạnh. Nhờ thế mà chàng thực sự viên mãn được
tâm đại bi, trừ được mọi vô minh vi tế, chướng ngại…
Thiện Tài định thần, đắm chìm trong tư duy, quán tưởng,
trong lúc Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dùng thần thông ẩn
hình, biến dạng lúc nào cũng không hay…” (30)
Lý
tưởng Bồ Tát đạo là một lý tưởng cao đẹp. Những ai
đang đi trên con đường Bồ tát đạo, con đường thực hành hạnh nguyện phục vụ chúng sanh, đừng quên rằng bên cạnh
mình luôn luôn có sự hiện diện của một vị thiện trí
thức, đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, người lúc nào cũng
sẵn sàng đưa tay xoa đảnh chuyền cho ta đầy đủ năng lực
và trí tuệ cần thiết, để giúp ta tinh tấn tu tập, hoàn
tất mọi hạnh nguyện như Thiện Tài Đồng Tử của Hoa Nghiêm.
6.
Kinh Pháp Hoa và Bồ Tát Văn Thù:
Vị
Thị Giả Phát Ngôn, Giới Thiệu Chương Trình của Phật
Kinh
Pháp Hoa nguyên văn là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, được
đánh giá là “quyển kinh siêu việt vĩ đại nhất của Phật
giáo đã được thọ trì truyền tụng từ Ấn Độ cho đến
vùng Tân Cương và cả vùng Trung Á từ trước Tây lịch kỷ
nguyên; từ năm 406 trở đi cho đến thế kỷ XX, bản dịch
chữ Tàu của Cưu Ma La Thập là bản dịch duy nhất đã ảnh
hưởng tác động sâu rộng nhất vào đạo lý tư tưởng lãnh
đạo chính trị văn hóa của khối Đông Á từ Trung Quốc,
Việt Nam và Đại Hàn và nhất là Nhật Bản. Năm 594, người
được coi là khai tổ cho nền văn minh Nhật Bản, Thánh Đức
Thái Tử (Shotoku) đã tập trung tất cả ý thức lãnh đạo
dân tộc Nhật vào ba quyển kinh mà quyển kinh quan trọng nhất
là Diệu Pháp Liên Hoa” (31). Kinh Pháp Hoa bàn về ý nghĩa
của “Pháp Thân Thường Trụ”, mà qua đó Đức Thế Tôn
đã “Khai Quyền Hiển Thực” chỉ cho mọi người thấy rõ
được mục đích cứu cánh của giáo lý Đại thừa là toàn
thể chúng sanh đều được trọn thành Phật quả. Chính do
nghĩa lý nhiệm mầu sâu xa của kinh này mà Ngài Trí Khải Đại Sư (538-597) một người đã theo học pháp môn Pháp Hoa
đến chỗ rốt ráo tận cùng, dựa vào bản kinh của tuệ
giác bình đẳng vĩ đại này để dựng lên một tông phái
một thời được coi như lẫy lừng nhất trong lịch sử Phật
giáo Trung Quốc, mà uy tín hầu như đã bao trùm thống nhiếp
cả toàn bộ Phật giáo phía Nam Trung quốc: Thiên Thai Tông.
Vì
tính cách quan trọng của bộ kinh này mà Đức Thế Tôn trong
phẩm Pháp Sư đã ân cần dặn dò:
“Nếu
có người thiện nam, người thiện nữ nào, sau khi đức Như
Lai diệt độ muốn vì hàng bốn chúng mà nói kinh Pháp Hoa
này thời phải nói cách thế nào? -Người thiện nam thiện
nữ đó phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi toà Như
Lai, rồi mới nên vì bốn chúng mà rộng nói kinh này.
Nhà
Như Lai chính là tâm từ bi lớn đối với trong tất cả chúng
sanh, y Như Lai chính là lòng nhu hoà, nhẫn nhục, toà Như Lai
chính là nhứt thiết pháp không. An trụ trong đây, sau rồi
dùng tâm không biếng trễ vì các Bồ tát và bốn chúng rộng
nói kinh Pháp Hoa này” (32).
Cũng
vì tính cách quan trọng của bộ kinh này mà trước khi tuyên
nói kinh Pháp Hoa, trong Pháp hội đông đảo đại chúng gồm
chư đại bồ tát, đại tỳ kheo, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn thát
bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la vương, Ma hầu la dà … Đức
Thế Tôn đã nhập vào đại định, phóng hào quang chiếu soi
khắp mười tám ngàn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi
nước trang nghiêm của các đức Phật, khiến đại chúng trong
đó có cả Bồ tát Di Lặc, vô cùng kinh ngạc trước phép
lạ hi hữu từ trước đến nay chưa từng có, và không biết
do nhân duyên gì mà lại có điềm lành này. Bồ tát Di Lặc
liền nghĩ rằng trong Pháp hội này duy chỉ có ngài Văn Thù
Sư Lợi “đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức
Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi hữu này,”
may ra mới có thể giải tỏa những thắc mắc của đại chúng
và Ngài đã nêu câu hỏi để nhờ Bồ Tát Văn Thù giải
đáp. Kinh Pháp Hoa như vậy đã dành cho Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi cái nhiệm vụ vô cùng vinh dự là thông báo cho đại
chúng biết một thời pháp vô cùng quan trọng của Đức Bổn
Sư. Đây là vai trò của người thị giả phát ngôn của Phật
hay một cách cụ thể hơn vai trò của người điều khiển,
giới thiệu chương trình như ta thường thấy trong các lễ
hội ngày nay, vai trò đã làm nổi bật được tính cách thân
cận không những chỉ giữa Bồ Tát Văn Thù và Đức Thế
Tôn mà là còn với vô lượng các Đức Phật của thời quá
khứ:
“Lúc
bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại
Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ:
Các
Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ thì nay đức Phật Thế-Tôn
muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn,
đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.
Các
thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ
thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền
nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật
hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng
sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời
khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.
…
Nay
thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét
nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên:
“Diệu-Pháp Liên-Hoa”là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật
hộ niệm.” (33)
Đặc
biệt Kinh Pháp Hoa cũng hé mở cho chúng ta biết một chi tiết liên quan đến nguồn gốc, lai lịch của Bồ Tát Văn Thù.
Theo kinh Pháp Hoa, thì từ vô lượng a tăng tỳ kiếp về trước,
có một vị Phật ra đời hiệu là Nhật-Nguyệt Đăng-Minh,
Ngài Văn Thù lúc bấy giờ là một vị đại Bồ Tát hiệu
là Diệu Quang, đã từng được nghe Phật thuyết giảng kinh
này nên khi trông thấy điềm lành hiển bày, cùng với xưa
không khác, cho nên theo Bồ Tát, “ta xét nghĩ hôm nay
đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: “Diệu-Pháp
Liên-Hoa”là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.”
Vì Pháp Hoa là một bộ kinh trọng yếu của Đại Thừa, chi
tiết nói về tiền kiếp của Bồ Tát Văn Thù trong bộ kinh
này có thể được dùng để tạm kết thúc bài viết liên
quan đến xuất xứ, nguồn gốc và vai trò quan trọng của
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, vị Bồ Tát tiêu biểu cho trí tuệ
trong truyền thống Phật giáo Đại Thừa:
“Đức
Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên
“Vô-Lượng Nghĩa-Xứ” là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư
Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại
chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định “Vô-Lượng
Nghĩa-Xứ”, thân và tâm chẳng động.
Khi
ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa
cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng
đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc
đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự
nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la,
ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các
vị Chuyển-luân thánh-vương v.v… các đại-chúng đó được
điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
Bấy
giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân
mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám
nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi
Phật đây.
Di-Lặc
nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn
nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các
cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì
duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này.
Khi
ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
Bấy
giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh từ trong chánh-định
mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên “Diệu-Pháp
Liên-Hoa” là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm,
trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
Sau
khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát trì kinh “Diệu-Pháp
Liên-Hoa” trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
Tám
người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với
ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền
ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị Vương-tử
đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật
đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu
là Nhiên-Đăng.
Trong
hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh,
người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh
mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh.
Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được
gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.
Di-Lặc
nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào
lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy.”
(34)
NAM
MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Tâm
Hà Lê Công Đa.
GHI
CHÚ: Bài viết này một phần được gợi ý và dựa vào tài liệu “Manjusri: Origins, Role and Significance” của GS/TS
Anthony Tribe (Dharmachari Anandaiyoti), Giáo sư Đại học Montana,
USA.
CHÚ
THÍCH
(1):
Reginald A. Ray. Indestructible Truth. Shambala xb. 2002. p. 192.
(2):
Benoytosh Bhattachary The Indian Buddhist Iconography. 2nd ed. Calcutta.
1958. pp. 101-3.
(3):
John Brough, 1948. Snellgrove giới thiệu trong Indo-Tibetan Buddhism,
Indian Budhist and their successors. 1987. p. 366.
(4):
“Samsandati kho pana te pancasikha tantissaro giitassaro ca tantissarena
na ca pana te pancasikha tantissaro ativannati giitassara giitassaro vaa
tantissaram.” (DNII. 267).
(5):
Xem Kinh Trường A Hàm, Quyển 5, Thích Thiện Siêu dịch, Phật
Học Viện Quốc Tế xb. 1986. trang 132-145.
(6):
EtienneLamotte. Manjusri. Toung Pao. 1960. p. 35.
(7):
EtienneLamotte. (như trên). p. 33-4.
(8):
HT Thích Thanh Kiểm. Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc. Phú Lâu
Na xb. 1991. p.180.
(9):
HT Thích Thanh Kiểm. (như trên). p.170.
(10):
Sáu bộ kinh được đề cập:
-Astasahasrika-prajna-paramita-sutra
(AsPP; T.224),
–
Wenshushili wen pusa shu jing (WWP; T.458),
–
Druma-kinnara-raja-pariprcha-sutra (DKP; T.624),
–
Lokanuvartana-sutra (LAn; T.807),
–
Dousha jing (DSJ; T.280),
–
and the Ajata`satru-kauk.rtya- vinodana-sutra (AjKV; T.626).
(11):
Kinh “Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Bất Tư Nghị của
Phật”. HT. Thích Chánh Lạc dịch, Quyển Thượng.
(12)
& (13): Như trên.
(14):
Kinh Duy Ma Cật. HT Thích Duy Lực dịch. Phẩm “Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát”.
(15):
Kinh Duy Ma Cật. HT Thích Duy Lực dịch. Phẩm “Phật Quả”.
(16):
Giới Thiệu Kinh Duy Ma Cật. Tuệ Sỹ.
(17):
Tuệ Sỹ. Như trên.
(18):
Kinh Duy Ma Cật. HT Thích Duy Lực dịch. Phẩm “Bất Nhị Pháp
Môn”.
(19):
«Pháp Môn Bất Nhị, Tư Tưởng Thiền Trong Tuệ Trung Thượng
Sĩ Ngữ Lục ». HT. Thích Thanh Kiểm, trong tuyển tập Tuệ
Trung Thượng Sĩ với Thiền Tông Việt Nam. Nxb Đà Nẳng. 2000.
Tr. 196-197.
(20):
Edward Conze. The Short Prajnaparamita. London. Luzac & Co. 1973.
pp 83-84.
(21):
Garma Chang. A treasury of Mahayana Sutra. Pennsylvania & London: Pennsylvania
State University Press. 1983. p. 65.
(22):
Chang. Sách đã dẫn nt. p. 66.
(23):
Kinh Thủ Lăng Nghiêm
. Bản dịch của HT. Thích Duy Lực , Quyển
1: http://www.tuvienquangduc.net/Kinhdien/25langhiem06.html)
(24)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm
. Bản dịch của HT. Thích Duy Lực , Quyển
6.
(25)
Đại Cương
Kinh Lăng Nghiêm
. HT Thích Thiện Hoa. Hương Đạo
tái bản, 1962. Tr. 193-195).
(26),
(27) & (28):
Kinh Hoa Nghiêm
. Phẩm
Nhập Pháp Giới
, Bản Việt
dịch của HT Thích
Trí Tịnh
.
(29):
Thomas Cleary. The Flower Ornament Scripture. A translation of the Avatamsaka
Sutra. Vol. III: Entry Into the Realm of Reality. Shambala. Boston &
London. 1987. pp. 377-8.
(30):
Minh Đức
Thanh Lương
.
Bồ Tát Đạo
. (
tóm tắt
bởi HT Thích
Đức Nhuận). trang 1119.
(31):
Phạm Công Thiện, Lời Tựa
Pháp Hoa
Yếu Giải. The Corporate
Body of the Bud dha Educational Foundation Ấn tống.
Đài Loan
. 1999.
Tr.10.
(32):
Kinh Pháp Hoa
. Phẩm “Pháp Sư”. Bản dịch của HT Thích
Trí
Tịnh
.
(33)
& (34):
Kinh Pháp Hoa
. Phẩm “Tựa”. Bản dịch của HT Thích
Trí Tịnh
.tvị đệ
(22): Chang. Sách đã dẫn nt. p. 66.(23):. Bản dịch của HT. Thích Duy Lực , Quyển 1: http://www.tuvienquangduc.net/Kinhdien/25langhiem06.html)(24). Bản dịch của HT. Thích Duy Lực , Quyển 6.(25). HT Thích Thiện Hoa. Hương Đạo tái bản, 1962. Tr. 193-195).(26), (27) & (28):. Phẩm, Bản Việt dịch của HT Thích(29): Thomas Cleary. The Flower Ornament Scripture. A translation of the Avatamsaka Sutra. Vol. III: Entry Into the Realm of Reality. Shambala. Boston & London. 1987. pp. 377-8.(30):. (bởi HT Thích Đức Nhuận). trang 1119.(31): Phạm Công Thiện, Lời TựaYếu Giải. The Corporate Body of the Bud dha Educational Foundation Ấn tống.. 1999. Tr.10.(32):. Phẩm “Pháp Sư”. Bản dịch của HT Thích(33) & (34):. Phẩm “Tựa”. Bản dịch của HT Thích.tvị đệ