Biến đổi khí hậu có tác động như thế nào đến phát triển bền vững tại Việt Nam? – ThienNhien.Net | Con người và Thiên nhiên

Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu hiện đang tạo ra những thách thức to lớn, ảnh hưởng đến nhiều mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.

Tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững, các quốc gia đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững theo Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10/5/2017, của Thủ tướng Chính phủ, trong đó khẳng định: “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia”.

Kế hoạch đề ra các mục tiêu cụ thể nhằm phát triển bền vững là: Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; bảo đảm nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người…

Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên đặc thù, Việt Nam là đất nước dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu, với những biểu hiện, như: lũ lụt bất thường, hạn hán, nước biển dâng, hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiệt độ tăng cao… Theo đánh giá hằng năm về những nước chịu ảnh hưởng nặng nhất bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan giai đoạn 1997 – 2016, Việt Nam đứng thứ 5 về Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018 và thứ 8 về Chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn. Điều này cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, nổi bật là:

Một là, ảnh hưởng đến mục tiêu chấm dứt nghèo.

Những năm gần đây, do biến đổi khí hậu, Việt Nam thường xuyên xuất hiện hiện tượng thời tiết cực đoan, như: bão, hạn hán, giông, lốc, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất…, tàn phá nghiêm trọng cây lương thực và tài sản của người dân; đồng thời, gây khó khăn trong quá trình trồng lúa và các cây lương thực, gia tăng chi phí cho sản xuất nông nghiệp, kéo theo hệ lụy về nghèo đói gia tăng. Tổng hợp thiệt hại do thiên tai năm 2019 của cả nước cho thấy, diện tích cây lương thực bị ảnh hưởng là 40.017ha. Năm 2020, thiệt hại lên tới 209.378ha. Điều này cho thấy, thiệt hại do thiên tai năm 2020 lớn hơn nhiều so với năm 2019. Sau những đợt thiên tai, bão lũ, nhiều hộ gia đình đã rơi vào cảnh “trắng tay”, nợ nần, thiếu đói; đồng thời, tỷ lệ tái nghèo diễn ra mạnh hơn. “Hiện nay cứ 3 người thoát nghèo lại có 1 người tái nghèo, chủ yếu do hậu quả thiên tai”.

Hai là, ảnh hưởng đến nền giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng bất lợi đến triển vọng đạt được mục tiêu giáo dục theo nhiều cách khác nhau, làm gia tăng thiên tai, dịch bệnh… ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian, cơ hội đến trường của trẻ. Báo cáo của UNICEF thực hiện cùng tổ chức “Fridays for Future” công bố năm 2021 cho thấy, có khoảng 1 tỷ trẻ em – gần một nửa trong số 2,2 tỷ trẻ em trên toàn thế giới – sống tại 33 quốc gia được phân loại là có “nguy cơ cực kỳ cao” bởi tác động của biến đổi khí hậu.

Báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) ngày 20/8/2021 cho thấy, thanh, thiếu niên Việt Nam là một trong những nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất trước các tác động của biến đổi khí hậu. Trong phân tích này, các quốc gia được xếp hạng dựa trên nguy cơ rủi ro của trẻ em trước các cú sốc về khí hậu và môi trường, chẳng hạn như lốc xoáy và các đợt nắng nóng; cũng như mức độ dễ bị tổn thương của trẻ em trước các cú sốc, dựa trên khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu của trẻ em. Điều này đe dọa đến sức khỏe, giáo dục và sự an toàn của các em.

Tại Việt Nam, sau những trận mưa, bão, lũ, lụt, phần lớn cơ sở vật chất, các trang thiết bị giảng dạy nhiều trường, lớp bị hư hỏng, nên nhiều học sinh không thể đến trường hoặc phải học chậm hơn.

Ba là, ảnh hưởng tới mục tiêu bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái.

Biến đổi khí hậu gây ra những tác động khác nhau đối với phụ nữ và nam giới. Các nghiên cứu cho thấy, khoảng 80% số người chịu các tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu là phụ nữ. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, số phụ nữ và trẻ em tử vong bởi các thảm họa thiên nhiên cao hơn 14 lần so với nam giới. Biến đổi khí hậu tác động lên cuộc sống và sinh kế của người dân theo những cách thức khác nhau và phụ nữ luôn được coi là một trong những đối tượng dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu. Trên thực tế, biến đổi khí hậu có thể làm tồi tệ thêm những bất bình đẳng giới, tạo thêm gánh nặng cho phụ nữ. Báo cáo thảo luận chính sách của Liên hợp quốc và Oxfam khẳng định, nhiều thiên tai xảy ra do biến đổi khí hậu dẫn đến di cư tăng lên ở Việt Nam. Phụ nữ di cư thường kiếm được việc làm ít hơn nam giới và nếu họ ở lại khi các thành viên khác trong gia đình di cư thì họ sẽ phải gánh vác trách nhiệm của nam giới. Một tình trạng phổ biến khác là nam giới trong gia đình thường làm việc xa nhà, nên khi thiên tai tàn phá thì phụ nữ buộc phải gánh vác hầu hết các hậu quả của rủi ro thiên tai.

Sinh kế của người nghèo, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em nông thôn, phụ thuộc vào khai thác tự nhiên, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt hải sản gần bờ. Cuộc sống của họ phụ thuộc khá nhiều vào các hệ sinh thái có sẵn trong tự nhiên. Nhưng biến đổi khí hậu đang làm mất đi nhiều khu rừng tự nhiên, hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Điều này ảnh hưởng đến phụ nữ, trẻ em, vốn cuộc sống chủ yếu dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong tự nhiên. Hơn nữa, phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn, thường phải gánh vác nhiều công việc nặng nhọc, đóng vai trò người chủ gia đình và lao động chính ở những nơi khí hậu khắc nghiệt, tài nguyên khan hiếm, các vùng bị nhiều thiên tai, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, khiến họ bị giảm cơ hội được giải phóng và bình đẳng.

Ngoài ra, biến đổi khí hậu làm giảm chất lượng nước và trữ lượng nước sạch, nguy cơ gia tăng các bệnh truyền nhiễm và đây chính là các yếu tố đe dọa sức khỏe sinh sản, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc bà mẹ và trẻ em.

Bốn là, ảnh hưởng tới mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập thường xuyên.

Biến đổi khí hậu với những biểu hiện bất thường của thời tiết cực đoan đang làm hoang mạc hóa, đất đai bị xói mòn, gia tăng diện tích đất ngập mặn, ngập úng do lũ lụt hoặc hạn hán, làm thiếu đất canh tác, mất đất cư trú, gây ra những thay đổi trong đời sống xã hội và ảnh hưởng tới mục tiêu bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả mọi người. Thống kê gần đây cho thấy, do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, trong 10 năm trở lại đây, đã có 1,7 triệu người di cư ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long vì thiếu đất canh tác, không có việc làm ổn định, tỷ lệ di cư này là gấp hai lần trung bình cả nước.

Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nếu mực nước biển dâng 100cm sẽ có 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng, 4,79% diện tích tỉnh Quảng Ninh, 1,47% diện tích đất các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,8% diện tích TP.HCM, 4,79% diện tích tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có nguy cơ bị ngập. ĐBSCL là khu vực có nguy cơ ngập cao (38,9% diện tích).

Hiện nay, diện tích đất gieo trồng của Việt Nam là khoảng 9,4 triệu hecta (trong đó có 4 triệu hecta đất trồng lúa). Nếu mực nước biển dâng thêm 1m thì Việt Nam sẽ bị mất đi khoảng hơn 2 triệu hecta đất trồng lúa (khoảng 50%). Điều này đồng nghĩa với việc người dân mất đất sản xuất, mất đi sinh kế, kéo theo đó là gia tăng nghèo, đói.

Theo số liệu của Tổng cục Thủy lợi, vụ đông – xuân năm 2015 – 2016 có 104.000 ha lúa bị ảnh hưởng nặng đến năng suất do xâm nhập mặn, chiếm 11% số diện tích gieo trồng của 8 tỉnh ven biển. Tại các tỉnh ĐBSCL, nhiễm mặn ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng và giảm năng suất lúa, trung bình giảm tới 20% – 25%, thậm chí tới 50%. Người dân trồng lúa, trồng cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản đứng trước nguy cơ bị mất sinh kế, mất việc làm, mất thu nhập và rất có thể sẽ bị buộc phải trở thành người dân “tị nạn môi trường”, những người buộc phải di cư kiếm sống do không thể canh tác trên chính mảnh đất của mình…

 

Giải pháp chống biến đổi khí hậu Việt Nam đã và đang thực hiện để hướng đến phát triển bền vững

Sự thật, Việt Nam chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, nếu không sớm có các biện pháp tích cực, tương lai sẽ khó lường. Do đó, Việt Nam từ lâu đã tích cực chủ động triển khai nhiều hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một Bên tham gia UNFCCC, Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu. Vì vậy, trong những năm tới, để giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến mục tiêu phát triển bền vững, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế. Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phù hợp với những định hướng lớn được Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tìm kiếm lợi nhuận một cách thân thiện với môi trường và được UNEP quan niệm là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người, công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Thực chất của xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là làm giảm phát thải carbon, giảm phát thải nhà kính, tiết kiệm tài nguyên, góp phần làm giảm các xung đột về môi trường. Đồng thời, cần chuyển đổi mô hình phát triển dựa trên hệ sinh thái, tôn trọng các quy luật tự nhiên. Theo đó, chủ động chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phương thức canh tác phù hợp với đặc điểm sinh thái của các vùng và địa phương nhằm chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; chuyển đổi sinh kế, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, tăng cường hệ thống bảo hiểm rủi ro trong nông nghiệp, thủy sản, đặc biệt là các khu vực dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu.

Thứ hai, chủ động thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2139/QĐ-TTg, ngày 5/12/2011; đồng thời, “xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu; dự báo, cảnh báo thiên tai… Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ, năng lực chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu”.

Thứ ba, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ rừng, trồng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Đây là nhiệm vụ thiết yếu cung cấp nguồn sống cho con người, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phát triển, cân bằng sinh thái thiên nhiên trên Trái đất và tạo sự thịnh vượng, phát triển bền vững của loài người… Do vậy, cần thực hiện tốt nhiệm vụ: “Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển”. Thực hiện hiệu quả Quyết định số 524/QĐ-TTg, ngày 1/4/2021, của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt Đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021 – 2025″; trong đó, 690 triệu cây xanh trồng phân tán ở khu đô thị và vùng nông thôn; 310 triệu cây trồng tập trung trong rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và trồng rừng sản xuất, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện cảnh quan, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ tư, biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng trên diện rộng, tác động mang tính xuyên vùng, xuyên quốc gia, vì vậy, cần tiếp tục duy trì mối quan hệ bền vững với các đối tác truyền thống và mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế về biến đổi khí hậu. Tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế để thực hiện các chương trình, dự án bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong huy động nguồn vốn, tăng cường năng lực khoa học – công nghệ. Thúc đẩy hợp tác với các đối tác song phương, các tổ chức quốc tế và các đối tác đa phương khác, tìm kiếm cơ hội tiếp nhận hỗ trợ tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực cho công tác ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam.

Thứ năm, các chiến lược quốc gia về phòng, chống biến đổi khí hậu nhằm phát triển bền vững chỉ có thể thành công nếu như khuyến khích được sự tham gia của các ngành, các cấp, các địa phương và các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp. Do đó, cần tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và người dân, đặc biệt là cần sử dụng những kênh truyền thông và thông điệp truyền thông thích hợp đối với các “nhóm” dễ bị tổn thương, như phụ nữ và trẻ em gái, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, những người sống ở vùng sâu, vùng xa và khu vực dễ bị thiên tai…, về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự an toàn và sinh kế của họ (cũng như của thế hệ tương lai).

Đồng thời, huy động được đông đảo các đối tượng, tầng lớp tham gia hành động để thực hiện hiệu quả chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững.