Anh/Chị hãy trình bày những cảm nhận về bài thơ sau đây của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du: Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương khô
Giải chi tiết:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, luận đề
– Nguyễn Du là tác gia nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
– Đọc Tiểu Thanh kí là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du viết về nàng Tiểu Thanh – một người con gái tài sắc vẹn toàn ở Trung Quốc nhưng có số phận bất hạnh.
Phân tích bài thơ
*Hai câu đề
– Tác giả mở đầu bài thơ bằng nỗi xúc động sâu sa:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
– “Vườn hoa” và “gò hoang” (“hoa uyển” và “khư”) là hai khái niệm đối lập.
+ Vườn hoa là cảnh đẹp do con người tạo nên, đó là cảnh đẹp do con người tạo nên, đó là hình ảnh của cuộc sống ở mức độ đẹp nhất, một cuộc sống đang tưng bừng nở hoa.
+ Vườn hoa đã biến thành “gò hoang” là một sự biến đổi quá dữ dội theo chiều đáng buồn: cuộc sống đã đến hồi tàn tạ.
– Chữ “tẫn” trong nguyên tác kết tụ nỗi xót xa: sự tàn tạ ở mức tận cùng rồi, không thể tàn tạ hơn.
-> quy luật nghiệt ngã của muôn đời: cái gì rồi cũng biến đổi, những gì tốt đẹp nhất rồi cũng tàn phai, sụp đổ theo thời gian
-> Nguyễn Du nhận ra điều đó bằng sự trải nghiệm của cả cuộc đời mình và thực tế thời đại ông.
– Trên nền đổ nát “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”, theo dòng chảy của thời gian ba trăm năm, hôm nay, Nguyễn Du nâng niu trên tay một mảnh vụn của cuộc đời: “nhất chỉ thư” (một tập sách).
– Tất cả những gì gợi nhớ về người phụ nữ trẻ tài hoa, nhan sắc đã bị tàn phá, Nguyễn Du chỉ còn biết được nàng, được viếng hồn nàng, tỏ lòng thương cảm nàng qua việc đọc một tập sách trước cửa sổ.
– Câu thơ dịch chỉ là phỏng ý, so với nguyên tác chữ Hán, câu thơ dịch bỏ “độc” và chữ “nhất” rất quan trọng. Câu thơ “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” nên hiểu là: Một mình (ta) viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.
-> Người chết rồi vốn là kẻ cô đơn, mà người viếng cũng là một kẻ cô đơn. Hai tâm hồn cô đơn gặp nhau. Sự gặp gỡ và cảm thông giữa hai tâm hồn mới thật mãnh liệt, xuyên qua thời gian và không gian, nó là sự giao cảm giữa người ở cõi dương và người ở cõi âm.
* Hai câu thực
– Bằng hai hình ảnh ẩn dụ, tác giả khái quát hai nỗi oan lớn của cuộc đời Tiểu Thanh.
+ “Son phấn” tượng trưng cho nhan sắc
-> Nỗi oan thứ nhất: hồng nhan bạc mệnh.
Sống trong cô đơn buồn khổ, chết trong tức tưởi, bất hạnh.
+ “Văn chương”: -> tượng trưng cho tài năng
-> Nỗi oan thứ hai: tài mệnh tương đố.
Có tài và chính vì tài năng kiệt xuất, ưu việt, hơn trời ấy mà bị ông trời đày ải, số phận nghiệt ngã.
ð Nói đến hai nỗi oan này cũng chính là sự thương xót cho số phận của nàng và của tất cả những người phụ nữ phải chịu cảnh ấy.
– Từ đó khẳng định “chôn vẫn hận”, “đốt còn vương” – cái mất đi, cái bị chôn, bị đốt, tức là bị dập vùi chỉ là thể phách. Cái còn lại, cái bất tử là tinh anh (tinh túy, giá trị nhất, là cái thần, cái hồn).
Có thể chôn thể xác của nàng nhưng tâm hồn, tài năng nàng vẫn còn sống mãi, vẫn bất tử.
* Hai câu luận
Câu 5:
– Từ nỗi oan của Tiểu Thanh, tác giả khái quát thành cái nhìn về số phận con người trong xã hội phong kiến
– Gọi là nỗi hờn kim cổ: nỗi uất ức, oán hận của con người từ xưa đến nay.
Người xưa trước hết là Tiểu Thanh, là những người bị vùi dập.
Người nay trước hết là những người mang nỗi oan giống Tiểu Thanh của ngày hôm nay, những người tài tử đa cùng.
– Cụm từ “trời khôn hỏi” có thể được hiểu:
+ Không thể hỏi trời vì trời không thấu.
+ Không thể hỏi trời vì chính trời cũng không giải thích, không thể trả lời được.
=>Nỗi đau không có thế lực nào có thể giải thích, có thể giúp đỡ được.
Câu 6: Từ khóc người mà thương mình
– Giải thích nỗi hận sự, mối oan, sự uất ức bất bình ấy xuất phát từ “phong vận kì oan” – nghịch cảnh đau xót: người sở hữu tài năng, nhan sắc – phong lưu, phong nhã thì lại phải chấp nhận số phận nghiệt ngã, bất hạnh.
=> Nghịch cảnh đau xót ấy trở thành mối hận cổ kim, mối hận của người xua và cả người nay.
=> Nỗi oan lạ lùng.
Từ cái oan ấy, từ chuyện nết phong nhã trở thành cái án đeo đẳng con người tài hoa. Nguyễn Du cũng nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với những kẻ mang nỗi oan đó
– “Ngã tự cư”: Nguyễn Du cũng cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh, tài hoa nhưng bạc mệnh, bế tắc trong nỗi oan không thể hóa giải.
=> Viết về nàng Tiểu Thanh cũng là để kí thác, gửi gắm những nỗi niềm của mình.
Tất cả những người có tài trong xã hôi thoái trào đều gặp phải cảnh có tài mà không được trọng dụng. Nguyễn Du cũng như Tiểu Thanh đều là những người có tài nhưng không được thể hiện, đó là nỗi đau “thiên nan vấn” mà Nguyễn Du đã mang theo suốt đời của mình.
*Hai câu kết:Tự khóc thương mình
– Nguyễn Du cất tiếng hỏi hướng đến và gửi đến hậu thế sau mình 300 năm.
– Đối tượng hướng đến là hậu thế 300 năm:
+ Khoảng thời gian 300 năm:
– 300 năm ứng với khoảng thời gian từ Tiểu Thanh đến Nguyễn Du. Khoảng thời gian khi Nguyễn Du tìm đến và khóc thương nàng ứng với cuộc đời của nàng là sau 300 năm.
->Mong muốn sau chừng ấy thời gian sẽ có người nào đó của hậu thế hiểu mình và khóc thương cho mình.
– Xuất phát từ thành ngữ tam thế của nhà Phật – ứng với quá khứ – hiện tại – tương lai.
Quá khứ là câu chuyện của Tiểu Thanh
Hiện tại là Nguyễn Du khóc thương cho nàng, cũng là câu chuyện nỗi đau của ông.
Tương lai là mong muốn sự thấu hiểu và cảm thương của hậu thế cũng khóc thương cho mình như Nguyễn Du của hôm nay khóc thương cho Tiểu Thanh của hôm qua.
– Từ câu chuyện đời nay khóc thương cho người xưa, Nguyễn Du đã cất tiếng hỏi người đời sau, không biết sau ba trăm năm nữa có ai khóc thương cho mình hay không?
+ Tác giả dùng từ “khóc”: trong tiếng Hán có nhiều sắc điệu, tác giả dùng từ “khấp” là khóc không có nước mắt, tiếng khóc có chiều sâu, nước mắt chảy vào trong, nỗi đau tận cùng.
+ Khác các từ khóc khác:
_ Đề: khóc to
_ Khốc: nhiều nước mắt
=>Tiếng khóc có chiều sâu nhất, nỗi đau dội ngược vào trong.
Mong tìm ở hậu thế có người thực sự khóc thương mình, là tri âm, tri kỉ
– Câu hỏi hé mở điều về Nguyễn Du trong hiện tại: tác giả đang rất cô đơn, vì cô đơn mới tìm về thương người quá khứ, tìm ở tương lai sự đồng cảm dành cho mình.
=>Tự thương – nét mới của tư tưởng nhân đạo cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Trong tự thương ấy còn là thức tỉnh nỗi đau của chính mình.
Tổng kết