Ấn phẩm


TỜ TRÌNH
CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ HAI DỰ LUẬT THUẾ TRỊ GIÁ GIA TĂNG VÀ
THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

(Do ông Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Bộ Tài chính
đọc tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá IX, ngày
07-4-1997)

Kính thưa Quốc hội,

Căn cứ đề án cải cách bước II hệ thống chính sách thuế, Quốc hội khóa IX, kỳ
họp thứ 8 ngày 28-10-1995 đã ra Nghị quyết, xác định: “Năm 1996 khẩn
trương xây dựng và trình Quốc hội Luật thuế trị giá gia tăng để thay thế cho
Luật thuế doanh thu; Luật thuế thu nhập công ty thay cho Luật thuế lợi tức;
Luật thuế thu nhập cá nhân thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao
”.

Chấp hành Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã thành lập Ban soạn thảo tổ
chức đánh giá việc thực hiện hệ thống chính sách thuế hiện hành, nghiên cứu
xây dựng ba Dự án Luật thuế: Thuế trị giá gia tăng, thuế thu nhập công ty,
thuế thu nhập cá nhân. Ba Dự án Luật thuế này đã trình Quốc hội khóa IX, tại
kỳ họp thứ 10 (tháng 10-1996) để xin ý kiến các đại biểu Quốc hội.

Tiếp thu ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội về ba Dự án Luật thuế nói
trên, Chính phủ thấy rằng đối với Dự Luật thuế thu nhập cá nhân cần phải
tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam.
Trước mắt, xin sửa đổi Pháp lệnh thu nhập đối với người có thu nhập cao về
hai điểm: Điều chỉnh mức khởi điểm chịu thuế lên 2 triệu đồng/1tháng/1
người, bỏ thuế thu nhập đối với khoản thu nhập không thường xuyên là quà
tặng, quà biếu bằng ngoại hối từ nước ngoài gửi về.

Chính phủ đã trình Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh sửa đổi một
số điều của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và Pháp
lệnh này đã được Chủ tịch nước công bố ngày 20-02-1997.

Kính thưa Quốc hội,

Đầu tháng 3 năm 1997, Văn phòng Quốc hội đã gửi đến các đại biểu Quốc hội
bản Tờ trình của Chính phủ về hai Dự Luật thuế trị giá gia tăng và thuế thu
nhập doanh nghiệp
. Sau đó, Chính phủ đã chỉ đạo Ban soạn thảo tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện hai bản Dự án Luật thuế để trình ra Quốc hội tại kỳ
họp này.

Nay, Chính phủ xin trình Quốc hội nội dung hai bản Dự Luật thuế này như sau:

I-
DỰ LUẬT THUẾ TRỊ GIÁ GIA TĂNG

1.
Việc ban hành Luật thuế trị giá gia tăng ở nước ta nhằm các mục tiêu, yêu
cầu chủ yếu sau:

– Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa và đẩy
mạnh xuất khẩu. Thuế trị giá gia tăng khắc phục được việc thu trùng lắp của
thuế doanh thu nên nó phù hợp với các loại hình kinh doanh trong kinh tế thị
trường. Thuế trị giá gia tăng không thu vào vốn, vì cơ sở sản xuất, kinh
doanh được khấu trừ số thuế đầu vào nên khuyến khích bỏ vốn đầu tư để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hàng hóa xuất khẩu không phải nộp thuế
trị giá gia tăng mà còn được thoái trả lại số thuế trị giá gia tăng đã nộp ở
các khâu trước, nên góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.

– Bảo đảm động viên số thu cho ngân sách nhà nước không giảm hơn so với thuế
doanh thu. Thuế trị giá gia tăng thu tập trung ngay từ khâu đầu (sản xuất
hoặc nhập khẩu) và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc nộp thuế ở
khâu trước, cho nên, hạn chế được thất thu.

– Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc thực hiện mua bán
hàng hóa có hóa đơn ở các doanh nghiệp. Việc tính thuế ở đầu ra được khấu
trừ số thuế đầu vào là một biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua
hàng và người bán hàng cùng thực hiện tốt hơn chế độ hóa đơn, chứng từ.

– Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta phù hợp với kinh tế
thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực
và trên thế giới.

– Việc áp dụng thuế trị giá gia tăng cần có bước quá độ phù hợp với đặc điểm
kinh tế – xã hội nước ta, tránh gây đột biến lớn trong thời kỳ đầu chuyển từ
thuế doanh thu sang thuế trị giá gia tăng, góp phần bảo đảm ổn định chính
trị – xã hội.

2.
Nội dung chủ yếu của Dự Luật thuế trị giá gia tăng:

a) Đối tượng áp dụng thuế trị giá gia tăng:

Ban hành Luật thuế trị giá gia tăng để thay cho Luật thuế doanh thu. Đối
tượng chịu thuế trị giá gia tăng là tất cả hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ở
Việt Nam, không phân biệt là sản xuất trong nước hay nhập khẩu. Đối tượng
nộp thuế trị giá gia tăng là tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập
khẩu, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đều là đối tượng nộp thuế trị giá gia
tăng, không phân biệt thành phần kinh tế, không phân biệt ngành, nghề kinh
doanh, không phân biệt quy mô kinh doanh lớn hay nhỏ.

Tuy nhiên, để phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội nước ta và có kế thừa
những quy định của Luật thuế doanh thu và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu hiện hành, đề nghị không thu và miễn thu thuế trị giá gia tăng đối với
một số hàng hóa, dịch vụ cần khuyến khích như:

– Sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến của các doanh nghiệp sản xuất nông
nghiệp bán ra (sản phẩm nông nghiệp nói ở đây bao gồm sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi);

–  Sản phẩm muối, bao gồm cả sản xuất muối và kinh doanh muối;

– Hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất
và khâu nhập khẩu (để bảo đảm đơn giản, tránh thu nhiều loại thuế cùng một
lúc);

– Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, nhập khẩu làm tài sản
cố định theo luận chứng đầu tư;

– Chuyển quyền sử dụng đất thuộc diện nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất;

– Nhà thuộc sở hữu Nhà nước bán cho người đang thuê;

– Dịch vụ ngân hàng, tài chính;

– Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động,
bảo hiểm y tế;

– Dịch vụ y tế; hoạt động văn hóa và thể dục thể thao không nhằm mục đích
kinh doanh; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất, phát hành và chiếu phim;

– Dạy học, dạy nghề; phát sóng thuyền thanh, truyền hình theo chương trình
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

– In, xuất bản và phát hành: báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính
trị, sách giáo khoa, sách in bằng tiếng dân tộc ít người, tiền; tranh, ảnh,
áp phích tuyên truyền cổ động;

– Dịch vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố, duy trì vườn thú, vườn
hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng, dịch vụ tang lễ;

– Duy tu, sửa chữa, xây dựng các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình
phục vụ lợi ích công cộng và nhà tình nghĩa bằng nguồn vốn đóng góp của nhân
dân và vốn viện trợ nhân đạo;

– Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt; tưới, tiêu nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp;

– Vũ khí, khí tài nguyên chuyên dùng phục vụ quốc phòng,
an ninh;

– Hàng hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế. Dịch vụ quốc tế:
vận tải, bưu chính viễn thông, và các dịch vụ khác;

– Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa chế tác thành sản phẩm;

– Chuyển giao công nghệ;

– Hàng hóa, dịch vụ của những hộ cá thể sản xuất kinh doanh có mức thu nhập
thấp…

Những đối tượng không thu thuế trị giá gia tăng như nói trên, thì cũng không
được khấu trừ thuế, không được hoàn lại số thuế trị giá gia tăng ở đầu vào
(nếu có).

b) Căn cứ tính thuế:

Căn cứ tính thuế trị giá gia tăng là giá tính thuế và thuế suất.

Để thực hiện đúng thuế trị giá gia tăng theo thông lệ chung và phù hợp với
tình hình, đặc điểm của Việt Nam, giá tính thuế trị giá gia tăng được quy
định như sau:

– Đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước, giá tính thuế là giá bán
chưa có thuế trị giá gia tăng ghi trong hóa đơn bán hàng. Cơ sở sản xuất,
kinh doanh khi bán hàng hóa, dịch vụ phải ghi rõ các yếu tố theo quy định
trong hóa đơn trị giá gia tăng, như: giá bán chưa có thuế, khoản phụ thu,
phí thu thêm (nếu có), số thuế trị giá gia tăng tính trên giá tính thuế của
hàng hóa, dịch vụ và giá thanh toán (giá thanh toán là tổng số tiền người
mua phải trả cho người bán, trong đó có cả thuế trị giá gia tăng).

– Đối với một số loại hàng hóa, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán có
tính đặc thù, như vé tầu vé xe, các loại tem của bưu điện…, thì giá ghi
trên chứng từ là giá thanh toán đã có thuế trị giá gia tăng, do đó phải tính
trừ lùi để xác định giá chưa có thuế trị giá gia tăng làm căn cứ tính thuế.

– Đối với hàng hóa nhập khẩu, giá tính thuế trị giá gia tăng là giá nhập tại
cửa khẩu cộng (+) thuế nhập khẩu (nếu có).

– Đối với hàng hóa dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, giá tính
thuế trị giá gia tăng là giá tính thuế của hàng hóa cùng loại hoặc tương
đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.

Đối với gia công hàng hóa, giá tính thuế trị giá gia tăng là giá gia công.

 Đối với hoạt động cho thuê tài sản, giá tính trị giá gia tăng là số tiền
phải thu về cho thuê từng kỳ chưa có thuế trị giá gia tăng.

Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế trị giá gia
tăng là giá bán của hàng hóa tính theo giá bán trả một lần (chưa có thuế trị
giá gia tăng) không tính theo số tiền trả từng kỳ.

Giá tính thuế trị giá gia tăng đối với hàng hoá dịch vụ như nói trên bao gồm
cả khoản phụ thu, phí thu thêm mà doanh nghiệp được hưởng. Quy định như vậy
nhằm tránh lợi dụng chuyển từ giá bán thành khoản phụ thu để trốn thuế.

– Thuế suất:

Ngoài thuế suất 0% được áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, đề nghị thuế trị
giá gia tăng có 3 mức thuế suất là: 5%, 10%, 20% để bảo đảm thu thuế trị giá
gia tăng không thấp hơn thuế doanh thu và phù hợp với việc chuyển từ thuế
doanh thu có 11 mức thuế suất sang thuế trị giá gia tăng có số mức thuế suất
ít hơn.

Việc sắp xếp các hàng hóa, dịch vụ vào từng mức thuế suất 5%, 10%, 20% như
ghi trong dự Luật thuế trị giá gia tăng là dựa trên các căn cứ sau:

– Những hàng hóa, dịch vụ đang chịu thuế doanh thu ở mức thuế suất thấp và
thiết yếu đối với tiêu dùng được xếp vào mức thuế 5%, như: nước phục vụ sản
xuất, sinh hoạt; phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh; thức ăn cho chăn
nuôi; lương thực và thực phẩm tươi sống; dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp; giáo cụ giảng dạy, học tập, sách và đồ chơi cho trẻ em…

Những hàng hóa, dịch vụ đang chịu thuế doanh thu ở mức thuế suất trung bình
và trung bình thấp được xếp vào mức thuế suất 10%. Mức thuế suất 10% là mức
phổ thông, áp dụng đối với các loại hàng hóa, dịch vụ không thuộc thuế suất
5%, 20%.

– Những hàng hóa, dịch vụ đang chịu thuế doanh thu ở mức thuế suất cao và
trung bình cao được xếp vào mức thuế suất 20%. Như: bài lá, vàng mã, dịch vụ
thẩm mỹ; karaoke, khiêu vũ, đua ngựa, sân gôn; đại lý tầu biển… Riêng đối
với xổ số hiện đang thu thuế doanh thu 30%, nay đề nghị chuyển sang thu thuế
tiêu thụ đặc biệt để phù hợp với hoạt động này và bảo đảm mức thu của ngân
sách.

c) Phương pháp tính thuế trị giá gia tăng:

Nguyên tắc chung là thuế trị giá gia tăng chỉ tính trên phần trị giá tăng
thêm của hàng hóa, dịch vụ trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng.

Để phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và sắp tới, xin đề
nghị áp dụng phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên
trị giá gia tăng. Cụ thể như sau:

Tất cả các tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, gồm: doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ cá
thể sản xuất – kinh doanh lớn; những đối tượng này đã chiếm trên 90% lượng
hàng hóa, dịch vụ của xã hội, thì áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Theo
phương pháp này, số thuế trị giá gia tăng phải nộp bằng (=) thuế đầu ra trừ
(-) thuế đầu vào.

Đối với hộ cá thể sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ yếu là hộ nhỏ và đối
tượng nước ngoài đến kinh doanh ở Việt Nam nhưng không thuộc diện điều chỉnh
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (như các nhà thầu phụ, dịch vụ tư
vấn…) nói chung, chưa giữ sổ sách kế toán đầy đủ, hóa đơn đầu vào, đầu ra
chưa được rõ ràng, chưa có cơ sở để tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế
thì áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên phần trị giá gia tăng. Theo
phương pháp này, số thuế phải nộp bằng (=) trị giá gia tăng nhân với (x)
thuế suất. Trong đó, trị giá gia tăng bằng (=) trị giá thanh toán của hàng
hóa, dịch vụ bán ra trừ (-) giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào
tương ứng. Những đối tượng này nếu có sổ sách kế toán, mua bán hàng có hóa
đơn và tự nguyện đăng ký áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì
cũng được áp dụng nộp thuế theo phương pháp thuế đầu ra trừ (-) thuế đầu
vào.

d) Khấu trừ thuế đầu vào:

Theo như đã trình bày ở phần phương pháp tính thuế trị giá gia tăng thì sẽ
không phải khấu trừ thuế đầu vào đối với những đối tượng áp dụng phương pháp
tính thuế trực tiếp trên phần trị giá gia tăng được xác định bằng giá thanh
toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ (-) giá thanh toán của hàng hóa, dịch
vụ mua vào tương ứng, trong đó đã có cả thuế trị giá gia tăng đầu vào.

Như vậy, việc khấu trừ thuế đầu vào chỉ áp dụng đối với những đối tượng áp
dụng phương pháp tính thuế trị giá gia tăng phải nộp bằng (=) thuế đầu ra
trừ (-) thuế đầu vào. Thuế đầu vào được tính khấu trừ theo nguyên tắc sau:

– Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ được sử dụng cho sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế trị giá gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ.

– Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ được sử dụng đồng thời cho cả sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế trị giá gia tăng và không chịu thuế
trị giá gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của phần hàng hóa,
dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế trị giá
gia tăng.

– Thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào thì được kê khai khấu trừ khi xác
định số thuế phải nộp của tháng đó. Nếu số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu
ra thì được khấu trừ tiếp vào kỳ tính thuế sau. Riêng đối với thuế đầu vào
của tài sản cố định có số thuế được khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế theo
quy định của Chính phủ. Quy định như vậy nhằm bảo đảm khuyến khích đầu tư và
phù hợp với quy định về quản lý thu, chi ngân sách theo Luật ngân sách hiện
hành.

– Đối với doanh nghiệp sản xuất, chế biến mua nông sản, lâm sản, hải sản của
người sản xuất sẽ không có hóa đơn trị giá gia tăng cho nên về nguyên tắc
thì không được khấu trừ thuế đầu vào, nhưng để phù hợp với điều kiện của
Việt Nam và bảo đảm mức thu thuế trị giá gia tăng đối với các cơ sở chế biến
nông sản, hải sản không cao hơn thuế doanh thu thì Chính phủ sẽ quy định cho
một mức khấu trừ cụ thể phù hợp với từng loại hàng hóa, theo khung quy định
trong Luật từ 1% đến 5% trên trị giá hàng hóa mua vào đối với nông sản và
khấu trừ 5% trên trị giá hàng hóa mua vào đối với lâm sản, hải sản. Việc
khấu trừ thuế đầu vào theo quy định này không áp dụng đối với doanh nghiệp
xuất khẩu các loại hàng hóa nông sản, lâm sản, hải sản.

e) Đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế:

Thuế trị giá gia tăng là loại thuế mới, có đối tượng thu thuế rất rộng nên
việc kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế cần quy định chặt chẽ nhưng phải phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể cả với người nộp thuế, người quản lý thu
thuế. Vì vậy, việc đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế trị giá gia
tăng quy định như sau:

– Các cơ sở kinh doanh, kể cả các cơ sở trực thuộc phải đăng ký nộp thuế trị
giá gia tăng với cơ quan Thuế nơi đặt trụ sở, theo hướng dẫn của cơ quan
Thuế. Đối với cơ sở mới thành lập phải đăng ký thuế trị giá gia tăng chậm
nhất là 10 ngày sau khi được cấp giấy phép kinh doanh hoặc giấy đăng ký kinh
doanh. Mỗi khi có sự thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc khi
sáp nhập, giải thể, doanh nghiệp cũng phải khai báo với cơ quan Thuế chậm
nhất là 5 ngày trước khi sáp nhập, giải thể hoặc thay đổi kinh doanh.

– Việc kê khai, thu nộp thuế trị giá gia tăng được thực hiện hằng tháng và
quyết toán cả năm, theo năm dương lịch. Kê khai thuế theo mẫu tờ khai do cơ
quan Thuế hướng dẫn và nộp thuế theo thông báo của cơ quan Thuế. Trong
trường hợp không phát sinh thuế đầu vào, thuế đầu ra, cơ sở kinh doanh vẫn
phải kê khai, nộp tờ khai cho cơ quan Thuế và phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác của việc kê khai.

– Cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ phải kê khai và nộp
tờ khai thuế trị giá gia tăng theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai
thuế nhập khẩu với cơ quan Thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có
cửa khẩu nhập hàng hóa, dịch vụ, và nộp thuế theo thời hạn ghi trên thông
báo thuế.

Riêng đối với hàng hóa nhập khẩu phi mậu dịch, nhập khẩu tiểu ngạch thì mỗi
khi nhập khẩu hàng hóa phải kê khai, nộp thuế trị giá gia tăng ngay tại cửa
khẩu.

– Cơ sở kinh doanh buôn chuyến phải kê khai, nộp thuế theo từng chuyến hàng,
tại nơi mua hàng, trước khi vận chuyển hàng đi.

g) Hoàn thuế:

Đối với những đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên trị giá gia
tăng thì không phải hoàn lại thuế. Việc hoàn lại thuế trị giá gia tăng cho
cơ sở kinh doanh chỉ áp dụng đối với đối tượng nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ (thuế đầu ra trừ thuế đầu vào) và trong các trường hợp sau:

– Số thuế đầu vào được khấu trừ thường xuyên lớn hơn số thuế đầu ra;

– Trường hợp cơ sở kinh doanh sáp nhập, giải thể, phá sản, quyết toán thuế
có số thuế trị giá gia tăng đã nộp lớn hơn số thuế phải nộp.

– Có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.

h) Những quy định khác:

Những quy định về quyền hạn, trách nhiệm của người nộp thuế, của cơ quan thu
thuế, xử lý vi phạm luật thuế…, được quy định tương tự như Luật thuế doanh
thu và các luật thuế khác.

i) Về giảm thuế trị giá gia tăng:

Thuế trị giá gia tăng là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu, các cơ
sở kinh doanh chỉ là người thu để nộp vào ngân sách nhà nước, vì vậy, không
quy định thành một chương về giảm thuế trị giá gia tăng đối với các cơ sở
kinh doanh. Nhưng để phù hợp với bước quá độ chuyển từ thuế doanh thu sang
áp dụng thuế trị giá gia tăng, xin đề nghị đưa vào chương tổ chức thực hiện
một điều (Điều 25) quy định giao cho Chính phủ xét giảm thuế trị giá gia
tăng trong một trường hợp đối với cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tải áp dụng
thuế trị giá gia tăng theo phương pháp khấu trừ mà trong những năm đầu bị lỗ
do số thuế trị giá gia tăng phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế suất
thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế trị giá gia tăng phải nộp.
Mức được giảm thuế trị giá gia tăng tương ứng với số bị lỗ được xác định do
nguyên nhân này nhưng tối đa không quá 50% số thuế phải nộp. Căn cứ vào dự
toán của cơ sở kinh doanh, cơ quan Thuế xác định tỷ lệ cho tạm giảm, cơ sở
kinh doanh được tạm giảm thuế theo từng lần kê khai nộp thuế, cuối năm quyết
toán theo thực tế. Thời gian cho giảm thuế theo quy định này được xét từng
năm nhưng tối đa không quá 3 năm kể từ ngày Luật thuế trị giá gia tăng có
hiệu lực thi hành.

II-
DỰ LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

1.
Việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước ta nhằm các mục tiêu,
yêu cầu chủ yếu sau:

a) Ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khắc phục một bước những
nhược điểm, vướng mắc của Luật thuế lợi tức hiện hành ở các điểm chủ yếu sau
đây:

– Khái niệm “lợi tức” thường chỉ được hiểu là lợi tức kinh doanh nên
rất hạn hẹp. Vì vậy cần chuyển sang sử dụng khái niệm “thu nhập” cho
phù hợp với thông lệ chung và có thể bao quát được hết các hình thức, các
khoản thu nhập đã và đang phát sinh, phát triển đa dạng trong kinh tế thị
trường và mở cửa với bên ngoài. Qua đó, vừa phục vụ cho việc quản lý thu
thuế, vừa phục vụ cho việc kiểm soát, quản lý của Nhà nước.

– Về tên gọi của Luật, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, xin đề
nghị tên gọi của Luật này là “Luật thuế thu nhập doanh nghiệp” cho
phù hợp với tình hình thực tế và có thể bao quát được hết các loại hình
doanh nghiệp đã và đang được thành lập, hoạt động theo pháp luật hiện hành
của Việt Nam.

– Tập trung những quy định về thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp vào
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, bảo đảm sự rõ ràng và thi hành thống nhất
trong cả nước. Hạn chế sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài với đầu tư trong
nước, giữa doanh nghiệp quốc doanh với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; bảo
đảm sự bình đẳng trong sản xuất – kinh doanh, phù hợp với chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.

– Hệ thống hóa những quy định ưu đãi về thuế thu nhập đối với các doanh
nghiệp thuộc các khu vực, các thành phần kinh tế vào Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, bảo đảm sự rõ ràng trong thực hiện và phù hợp với định hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tiết
kiệm để dành cho đầu tư phát triển.

Như vậy, “Luật thuế thu nhập doanh nghiệp” được ban hành sẽ thay thế cho
Luật thuế lợi tức, thay thế cho các quy định về thuế lợi tức trong Luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế cho các quy định về thuế lợi tức trong
Luật khuyến khích đầu tư trong nước…

b) Ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp với định hướng cải cách
đồng bộ các loại thuế khác trong cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế
(như thuế trị giá gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế sử
dụng đất nông nghiệp…) tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng hợp tác
kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới (như gia nhập các khu
vực mậu dịch tự do, thu hút đầu tư nước ngoài có hiệu quả, thực hiện các
hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam ký kết với các nước) nhằm phát
triển kinh tế trong nước.

c) Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, từ ngày có hiệu lực thi hành sẽ được áp
dụng chung đối với các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Riêng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc
đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì không hồi
tố đối với những dự án đầu tư đã được cấp giấy phép trước ngày có hiệu lực
thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, có nghĩa là, các dự án đầu tư nước
ngoài đã được cấp giấy phép trước ngày có hiệu lực thi hành Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp thì vẫn được tiếp tục thực hiện việc nộp thuế lợi tức, nộp
thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài như đã ghi trong giấy phép, theo đúng
quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

2.
Nội dung chủ yếu của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp:

a) Đối tượng áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp:

Ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp để thay cho Luật thuế lợi tức. Cho
nên, tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đang áp dụng
thuế lợi tức nay chuyển sang áp dụng theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp này mở rộng thêm đối với thu nhập của tổ
chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp, trừ thu nhập từ bán sản phẩm lương thực
do mình sản xuất ra, gồm lúa, ngô, khoai, sắn.

Như vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành kỳ này sẽ áp dụng chung
cho cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp đầu tư trong
nước thuộc mọi thành phần kinh tế, nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong sản xuất
kinh doanh để phát triển.

b) Căn cứ tính thuế:

Căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập chịu thuế và thuế suất.

– Thu nhập chịu thuế:

Thu nhập chịu thuế của cơ sở kinh doanh bao gồm thu nhập chịu thuế từ các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của cơ sở kinh doanh, kể cả thu nhập
từ nước ngoài và thu nhập chịu thuế khác:

+ Thu nhập chịu thuế từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của cơ sở kinh doanh
được xác định bằng (=) doanh thu tính thuế trừ (-) các khoản chi phí hợp lý,
hợp lệ có liên quan đến thu nhập chịu thuế trong kỳ. Đối với các cơ sở kinh
doanh, thu nhập chịu thuế gồm thu nhập chịu thuế thu được ở trong nước và
thu nhập chịu thuế thu được ở ngoài nước.

Đối với công ty nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì thu nhập
chịu thuế của các cơ sở thường trú được xác định bằng (=) tổng doanh thu của
cơ sở thường trú có nguồn gốc phát sinh từ hoạt động tại Việt Nam trừ (-)
các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ có liên quan đến thu nhập chịu thuế trong
kỳ, trong đó bao gồm cả chi phí phục vụ cho việc quản lý hoạt động kinh
doanh do công ty nước ngoài phân bổ cho cơ sở thường trú ở Việt Nam, theo
quy định của Chính phủ Việt Nam.

+ Thu nhập chịu thuế khác bao gồm các khoản thu nhập có tính chất thường
xuyên và thu nhập bất thường khác, như: chênh lệch về mua bán chứng khoán;
lãi từ cho thuê tài sản; lãi từ tiền gửi; lãi từ cho vay vốn; lãi bán ngoại
tệ; kết dư cuối năm về các khoản dự phòng, lãi về nhượng bán, thanh lý tài
sản; thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xóa sổ nay đòi được; các khoản nợ
phải trả nhưng không xác định được chủ; các khoản thu nhập từ kinh doanh của
những năm trước bị bỏ sót nay phát hiện được; các khoản thu nhập khác.

+ Doanh thu tính thu nhập chịu thuế của cơ sở kinh doanh là tổng số tiền bán
hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch vụ, bao gồm cả các khoản mà doanh
nghiệp được hưởng, như: phụ thu, trợ giá, tiền thưởng phục vụ. Trường hợp có
doanh thu bằng ngoại tệ thì phải được quy đổi từ ngoại tệ ra đồng Việt Nam
theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm
thu ngoại tệ.

+ Chi phí hợp lý hợp lệ:

Các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được trừ để tính thu nhập chịu thuế đã được
ghi rõ tại Điều 8 của Dự Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm các khoản
chủ yếu như: Khấu hao tài sản cố định; chi phí về nguyên, nhiên, vật liệu,
năng lượng, hàng hóa thực tế đã sử dụng cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có
liên quan đến doanh thu và thu nhập chịu thuế trong kỳ được tính theo mức
tiêu hao và giá cả thực tế xuất kho; tiền lương; tiền công, các khoản mang
tính chất tiền lương, tiền công phải trả theo quy định của Nhà nước; các
khoản chi phí khác như tiền điện, tiền nước, điện thoại, sửa chữa tài sản,
thuê dịch vụ kiểm toán, tiền đóng bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm lao động, nộp kinh phí công đoàn, trả lãi tiền đi vay,
các khoản dự phòng theo chế độ quy định, chi phí tiêu thụ… Riêng các khoản
chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại trong sản xuất – kinh doanh được
tính vào chi phí theo mức tối đa không quá 2% trên tổng chi phí. Các khoản
chi phí khác (như công tác phí, hội nghị khách hàng, lễ tân khánh tiết, tư
vấn, đóng góp khác) được khống chế tối đa không quá 5% tổng chi phí. Đối với
kinh doanh thương nghiệp, tổng chi phí để xác định mức khống chế như nói
trên không bao gồm giá mua vào của hàng hóa bán ra…

Để tránh lợi dụng trốn thuế, và góp thúc đẩy việc thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, đề nghị ghi rõ trong Luật này là không được tính vào chi phí hợp
lý hợp lệ các khoản chi phí như: Các khoản chi phí không phát sinh trong
thực tế; các khoản chi không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp pháp; các
khoản nộp phạt; các khoản chi không liên quan đến doanh thu tính thuế và thu
nhập chịu thuế trong kỳ; các khoản chi do các nguồn vốn khác đài thọ.

– Thuế suất:

Tiếp thu ý kiến các đại biểu Quốc hội, để bảo đảm động viên thuế thu nhập
doanh nghiệp không thấp hơn thuế lợi tức trước đây và tạo sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các ngành nghề, thuộc các thành phần
kinh tế, đề nghị thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% trên tổng thu
nhập chịu thuế của từng doanh nghiệp.

Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trước đây, nộp thuế lợi tức
theo thuế suất 25%, nhưng còn phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
theo thuế suất 5%, 7%, 10% tùy theo từng dự án đầu tư. Nay, nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp theo thuế suất 32% sẽ không còn phải nộp thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài nữa, như vậy, vẫn bảo đảm mức động viên tương đương như
trước đây.

Đối với các doanh nghiệp trong nước kinh doanh trong các ngành sản xuất, vận
tải, xây dựng, trước đây, nộp thuế lợi tức theo thuế suất 25% hoặc 35%, nay,
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo thuế suất chung là 32%. Trong đó, nhiều
doanh nghiệp đã kinh doanh có lãi khá lớn, có thể nộp được thuế theo thuế
suất 32% (như các doanh nghiệp thuộc ngành xi măng, hàng không, bưu điện,
chế biến thủy sản, xây dựng…); nhưng cũng còn một số doanh nghiệp có khó
khăn, có thể chưa nộp được đủ thuế theo thuế suất 32% (như một số doanh
nghiệp thuộc ngành cơ khí, dệt may, vận tải và dịch vụ công cộng…). Vì
vậy, để giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp này trong thời gian đầu mới
chuyển từ thuế lợi tức sang áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp, đề nghị ghi
vào Điều 9 của Dự Luật thuế thu nhập doanh nghiệp một điểm quy định là: “Đối
với các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải có khó khăn, được áp dụng
thuế suất 25% trong thời gian tối đa là 03 năm đầu theo quy định của Chính
phủ, kể từ ngày Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực thi hành
”.
Hết thời gian được hưởng thuế suất 25% sẽ áp dụng thuế suất chung là 32%.

– Kế thừa một số điểm quy định trong Luật thuế lợi tức, Luật khuyến khích
đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đề nghị ghi vào Điều
9 của Dự Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các điểm quy định như sau:

Đối với doanh nghiệp thuộc ngành Dầu khí và khai thác tài nguyên quý hiếm
thì có thể áp dụng thuế suất cao hơn 32%, nhưng tối đa không quá 50% thu
nhập chịu thuế phù hợp với từng dự án, từng doanh nghiệp.

Đối với các dự án đầu tư mới vào ngành nghề, vùng kinh tế cần khuyến khích
đầu tư thì có thể được hưởng mức thuế suất ưu đãi là: 15%, 20%, 25% trong
thời gian tối đa không quá 60 tháng kể từ khi có thu nhập chịu thuế. Trường
hợp đặc biệt, cần khuyến khích đầu tư, Chính phủ có thể cho phép kéo dài
thời gian được hưởng thuế suất ưu đãi. Hết thời gian được hưởng mức thuế
suất ưu đãi, sẽ áp dụng thuế suất chung là 32%. Quy định như vậy nhằm khuyến
khích mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào những
lĩnh vực, địa bàn theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước trong thời
kỳ tới.

Thu thuế bổ sung: Thuế lợi tức hiện hành không thu thuế bổ sung đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà chỉ thu thuế lợi tức bổ sung đối
với các doanh nghiệp trong nước. Trong đó mới tập trung thu được với một số
doanh nghiệp thuộc một số ngành như Hàng không, Bưu chính viễn thông, Ngân
hàng, Xi măng… Số thu hằng năm vào khoảng trên 100 tỷ đồng. Nay, xét thấy
các doanh nghiệp này cũng không còn thu được lãi cao như trước đây, đồng
thời, để khuyến khích các cơ sở kinh doanh sử dụng lợi nhuận thu được để tái
đầu tư, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề nghị không thu thuế thu
nhập doanh nghiệp bổ sung nhằm góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh
doanh.

c) Kê khai nộp thuế, quyết toán thuế:

Để quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp theo đúng luật, việc kê khai, nộp
thuế, quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định như sau:

– Doanh nghiệp có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh chế độ sổ sách kế toán,
chứng từ hóa đơn, theo quy định của Nhà nước đối với từng đối tượng, ngành
nghề.

– Kê khai đầy đủ doanh thu, chi phí, thu nhập chịu thuế theo đúng chế độ do
Bộ Tài chính quy định.

– Nộp đầy đủ, đúng hạn tiền thuế, tiền phạt (nếu có) vào ngân sách nhà nước
theo thông báo của cơ quan Thuế.

– Về kê khai, nộp thuế: để phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta, xin đề
nghị quy định việc kê khai, nộp thuế đối với doanh nghiệp là các tổ chức và
doanh nghiệp là cá nhân, hộ cá thể, như sau:

Hằng năm, cơ sở kinh doanh căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh của năm
trước và kế hoạch kinh doanh của năm tiếp theo, tự kê khai doanh thu, chi
phí, thu nhập chịu thuế theo mẫu của cơ quan Thuế và nộp cho cơ quan trực
tiếp quản lý thu thuế trong thời hạn chậm nhất là ngày 25 tháng 01. Cơ quan
Thuế kiểm tra tờ khai xác định số thuế tạm nộp cả năm, có chia ra từng quý
để thông báo cho doanh nghiệp tạm nộp thuế trong từng quý và quyết toán cả
năm theo năm dương lịch. Trong năm, nếu hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp có sự thay đổi lớn thì doanh nghiệp phải báo cáo để cơ quan
Thuế xem xét điều chỉnh số thuế tạm nộp từng quý.

Đối với cá nhân, hộ cá thể sản xuất, kinh doanh thuộc loại hộ nhỏ, hộ buôn
chuyến và các hộ sản xuất, kinh doanh khác chưa thực hiện chế độ sổ sách kế
toán, hóa đơn thì thực hiện nộp thuế hằng tháng theo thông báo của cơ quan
Thuế. Số thuế phải nộp hằng tháng được tính trên thu nhập chịu thuế. Thu
nhập chịu thuế được xác định theo tỷ lệ trên trị giá gia tăng phù hợp với
quy định trong Luật thuế giá trị gia tăng. Tỷ lệ thu nhập chịu thuế trên trị
giá gia tăng do cơ quan Thuế điều tra, ấn định phù hợp với từng ngành, nghề
sản xuất, kinh doanh. Các đối tượng này nộp thuế hàng tháng theo thông báo
của cơ quan Thuế, không phải quyết toán thuế cả năm.

Đối với cá nhân, hộ kinh doanh buôn chuyến phải kê khai nộp thuế theo từng
chuyến hàng, tại nơi mua, trước khi vận chuyển hàng đi.

Đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam,
nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân ở
Việt Nam chi trả thu nhập phải có trách nhiệm khấu trừ tiền thuế theo tỷ lệ
do Bộ Tài chính quy định tính trên tổng số tiền chi trả và nộp số tiền thuế
đã khấu trừ vào ngân sách nhà nước cùng thời điểm chuyển trả tiền cho tổ
chức, cá nhân nước ngoài.

Về việc kê khai, nộp thuế: Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, các doanh
nghiệp chưa thực hiện được tốt chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn, phương tiện
thông tin về tình hình và số liệu qua ngân hàng, bưu điện, hệ thống máy tính
còn rất hạn chế thì việc thực hiện phương pháp tự khai, tự nộp thuế cần
triển khai dần từng bước. Trước mắt, đề nghị là các doanh nghiệp có trách
nhiệm tự kê khai, tự tính thuế theo mẫu do cơ quan Thuế hướng dẫn, nhưng
phải nộp thuế theo thông báo của cơ quan Thuế để bảo đảm cho cơ quan Thuế
theo dõi, nắm được kịp thời tình hình chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của các
doanh nghiệp.

d) Những quy định khác:

Những quy định về quyền hạn, trách nhiệm của người nộp thuế, của cơ quan
Thuế; xử lý vi phạm Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; khiếu nại về thuế;
trách nhiệm của các cấp, các ngành trong chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, v.v.; được quy định tương tự như Luật thuế
lợi tức và các luật thuế khác.

e) Miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp:

Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, động viên trực tiếp vào
thu nhập của các doanh nghiệp, cho nên cần thiết phải có một chương quy định
về miễn thuế, giảm thuế.

Kế thừa những quy định về miễn thuế, giảm thuế đã quy định trong Luật thuế
lợi tức trước đây và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tế của nước ta; để
bảo đảm công bằng hợp lý trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư,
dự Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định các trường hợp miễn thuế, giảm
thuế như sau:

– Miễn thuế, giảm thuế cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
mới thành lập:

+ Doanh nghiệp sản xuất mới thành lập được miễn thuế 2 năm đầu kể từ khi có
thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong thời gian không
quá 2 năm tiếp theo. Riêng các doanh nghiệp mới thành lập ở miền núi, hải
đảo, và vùng có khó khăn khác thì thời gian giảm thuế không quá 4 năm tiếp
theo.

+ Doanh nghiệp sản xuất mới thành lập thuộc các dự án ưu đãi đầu tư được
miễn thuế 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế
phải nộp trong thời gian không quá 4 năm tiếp theo. Nếu đầu tư vào miền núi,
hải đảo và vùng có khó khăn khác thì thời gian được miễn thuế không quá 4
năm kể từ năm có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong
thời gian không quá 9 năm tiếp theo.

Doanh nghiệp kinh doanh, dịch vụ mới thành lập, thuộc dự án ưu đãi đầu tư,
được giảm 50% số thuế phải nộp trong thời gian từ 1 đến 2 năm đầu kể từ khi
có thu nhập chịu thuế. Nếu đầu tư vào vùng miền núi, hải đảo và vùng có khó
khăn khác thì được miễn thuế từ 1 đến 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu
thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong thời gian từ 1 đến 5 năm tiếp
theo.

– Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bỏ thêm vốn đầu tư mở rộng quy
mô kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ thì được miễn
thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm của năm tiếp theo do
đầu tư mới này mang lại.

– Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ di chuyển đến miền núi, hải đảo
thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 3 năm đầu, kể từ
khi có thu nhập chịu thuế ở nơi mới di chuyển đến.

– Miễn thuế cho một số trường hợp khác:

+ Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập chịu thuế do thực
hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học;

+ Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập chịu thuế do thực
hiện các hợp đồng dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp;

+ Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập chịu thuế từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp dành riêng cho lao động
là người tàn tật và hộ cá thể có thu nhập thấp;

+ Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập chịu thuế từ hoạt
động dạy nghề dành riêng cho người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa, người dân tộc thiểu số, đối tượng tệ nạn xã hội phải cải tạo, và hoạt
động dạy nghề kèm cặp tại xưởng, tại gia đình thường xuyên có dưới 10 học
viên.

Việc miễn thuế, giảm thuế theo các quy định nói trên được áp dụng cho các cơ
sở kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, các hình thức sản xuất, kinh
doanh ở các ngành, nghề. Nhưng chỉ được áp dụng đối với các cơ sở kinh doanh
thực hiện đúng chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ và nộp thuế theo
phương pháp kê khai. Không áp dụng đối với các cơ sở kinh doanh nộp thuế
khoán hàng tháng hoặc khấu trừ thuế tại nơi chi trả thu nhập.

Về
thời điểm thi hành hai Luật thuế:

Luật thuế trị giá gia tăng là một Luật thuế mới rất phức tạp trong hướng dẫn
và tổ chức thực hiện, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp tuy có tính kế thừa
của Luật thuế lợi tức nhưng hai Luật thuế này có diện áp dụng rộng hơn
trước, có số thu chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách nhà nước, cho nên, để
thi hành được hai Luật thuế này phải chuẩn bị kỹ cho cả người nộp thuế,
người thu thuế và các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành. Những
công việc trọng tâm phải tập trung chuẩn bị là:

– Cần có thời gian cho các doanh nghiệp, các đối tượng nộp thuế quán triệt
đầy đủ nội dung hai Luật thuế mới, có phương án, kế hoạch sản xuất, kinh
doanh; sắp xếp, bố trí lại các yếu tố sản xuất, chi phí, giá thành, giá bán
để thực thi được hai Luật thuế một cách thuận lợi.

– Phải sửa đổi các luật có liên quan để thi hành đồng bộ với Luật thuế trị
giá gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, như: Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật ngân sách nhà nước, Luật
đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này.

– Ban hành các văn bản dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
hai Luật thuế mới này. Trong khi đó, việc hướng dẫn lập dự toán ngân sách
nhà nước năm 1998 phải thực hiện ngay từ tháng 6 năm 1997 để kịp trình Quốc
hội vào tháng 10 năm 1997. Việc hướng dẫn lập dự toán ngân sách nhà nước có
nhiều nội dung phức tạp ảnh hưởng đến tỷ lệ điều tiết ngân sách giữa các cấp
ngân sách, nên cần có thời gian để điều chỉnh cho phù hợp.

– Tổ chức tập huấn về hai Luật thuế mới cho hàng vạn cán bộ ngành Thuế,
ngành Hải quan, và cho hàng triệu đối tượng nộp thuế; tuyên truyền phổ biến
hai Luật thuế và chuẩn bị các điều kiện vật chất về mẫu biểu, tờ khai, hóa
đơn, biên lai thuế, lập bộ thuế, tổ chức đăng ký, điều tra phân loại các đối
tượng nộp thuế; quyết toán thu nộp thuế doanh thu, thuế lợi tức để chuyển
sang áp dụng thuế trị giá gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp…

Với khối lượng công việc như nêu trên, nếu hai Luật thuế này được thông qua
thì cần có thời gian khoảng hơn một năm để chuẩn bị triển khai thực hiện bảo
đảm đạt kết quả. Vì vậy, Chính phủ đề nghị hai Luật thuế này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999.

Trên đây là những nội dung cơ bản của Dự Luật thuế trị giá gia tăng và Dự
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính phủ xin trình Quốc hội xem xét, quyết
định.

 

 

Lưu tại
Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội