(40+ mẫu) Phân tích bài thơ Chiều tối (siêu hay) – THCS Võ Thị Sáu

Tổng hợp trên 400 bài văn phân tích bài thơ Chiều tối hay nhất hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn phân tích Chiều tối hay hơn.

Mục lục

Dàn ý phân tích bài thơ Chiều tối

Dàn ý – mẫu 1

I. Mở bài

1. Xuất xứ

   Nguyên tác bằng chữ Hán. Nhan đề phiên âm là Mộ, dịch sang Việt ngữ là Chiều tối, được trích trong tập Ngục trung nhật kí của Hồ Chí Minh.

2. Chủ đề

   Niềm lạc quan tin yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên của một nhà thơ – chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày

II. Thân bài

– Bức tranh thiên nhiên:

    Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

    Cô vân mạn mạn độ thiên không

    (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

    Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;)

   Trước nhất, bức tranh thơ này được thể hiện theo lối kí họa của nghệ thuật tạo hình phương Đông.

   Hình ảnh cánh chim là trung tâm của câu thơ thứ nhất. Nếu ta chỉ chú ý vào chi tiết cánh chim mỏi thì sẽ gây ấn tượng buồn bã. Thế nhưng điều bất ngờ phá tan cái ấn tượng buồn kia là chi tiết “tìm chốn ngủ”. Cánh chim về rừng tìm chấn ngủ đã gợi cho người đọc một cảm giác bình yên,— cảm giác về tổ ấm.

   Bởi vậy ở đây không phải là cánh chim lạc loài mà là cánh chim bay về tổ ấm.

   Câu thơ thứ hai, từ cô vân là đám mây đơn độc. Đám mây cô độc thường gây cảm tưởng buồn bã. Vẫn theo logic của câu thứ nhất. Ở đây, đám mây không trôi trong tăm tối, mù mịt mà là trôi nhẹ đã tạo cho ta cái ấn tượng ung dung, thanh thản, nên nó là đám mây có chiều kích phóng khoáng.

   Không gian và thời gian vào buổi hoàng hôn trong Nhật kí trong tù thường được diễn tả qua một số bài thơ: Chiều tối, Cảnh chiều hôm.Nhưng trong những bức tranh có phần ảm đạm đó, hình ảnh con người toát lên niềm tin yêu cuộc đời vẫn được thể hiện, đặc biệt là trong bài Chiều tối.

   Vài nét chấm phá đơn sơ đã làm toát lên cái hồn của cảnh vật và gợi lên tư thế ung dung, phóng khoáng của tâm hồn tác giả.

– Tâm trạng của tác giả:

    Cô em xóm núi xay ngô tối,

   Bóng đêm đã làm sáng lên hình ảnh thiếu nữ đang xay ngô bên lò than. Sinh hoạt của con người dưới ánh lửa hồng ấm áp như xua tan bao cảm giác lạnh buồn, quạnh hiu của núi rừng vào đêm.

   Thơ Đường tả cảnh thiên nhiên đẹp — thơ Hồ Chí Minh cũng có nhưng không vắng bóng con người, khiến câu thơ hiện thực hơn. Giữa thôn vắng chỉ thấy bóng “cô em” đang im lặng, cần mẫn xay ngô. Cái động của bức tranh cũng nhịp nhàng, lặng lẽ nhưng chứa đựng sức sống.

    Xay hết, lò than đã rực hồng.

   Tháng mười ở sơn thôn tiết trời lạnh vào buổi tôi. Thiếu nữ trước khi xay ngô đã đốt bếp lửa, từ lúc trời chưa tối cho đến khi “chim mỏi về rừng…”

   Kể từ khi bắt tay vào xay ngô, công việc đã cuốn hút thời gian. Đến khi hết công việc thì bóng đêm đã tràn ngập từ bao giờ!

   Nhà thơ, người quan sát, ắt hẳn đã chứng kiến nhịp bước của thời gian, sác màu từ nhạt đến đậm và cái nền (phông) của bức tranh cũng theo nhịp bước ấy. Sự tương phản màu sắc tỉ lệ thuận với thời gian và cả bóng đêm lẫn bếp lửa. Có như thế ta thấy được cái nhìn tinh tế, cảm xúc của nhà thơ thật nhạy bén: nắm bắt kịp thời và ghi lại thành một bức tranh ở giây phút kì diệu kia.

   “Lò than rực hồng trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh chiều tối, tỏa cái ấm ra theo âm thanh nống ấm của chữ hồng” (theo Lê Trí Viễn)

III. Kết bài

   Trong hoàn cảnh bị đày ải trên đường xa cô độc, mệt mỏi giữa núi rừng nơi đất khách quê người, giữa cảnh hoàng hôn buồn, tác giả nhìn cảnh vật lại thấy ấm áp, tươi vui, nhất là qua ánh lửa hồng chiếu rọi bóng dáng con người đang lao động.

   Điều đó chứng tỏ mọi vui buồn của con người, hầu như không phụ thuộc vào cảnh ngộ riêng. Điều đó cũng phản ánh một tầm hồn dào dạt tình yêu thiên nhiên, một tâm hồn luôn rộng mở và luôn hướng về cuộc sống con người và hồng thơ ấy đầy ắp trữ tình.

Dàn ý – mẫu 2

a) Mở bài

– Giới thiệu tác giả:

  • Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại mà còn là một danh nhân văn hóa của dân tộc.
  • Hồ Chí Minh để lại cho nước nhà một sự nghiệp văn học đồ sộ

– Giới thiệu tác phẩm:

  • Tác phẩm được trích trong tập thơ Nhật Kí trong tù của Bác
  • Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng lớn lao của Hồ Chủ tịch

b) Thân bài

* Hai câu đầu

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụVân mạn mạn độ thiên không

 

– Khung cảnh chiều tối được mở ra với hình ảnh tả thực đầy chất thơ: hình ảnh cánh chim mải miết bay về rừng tìm nơi trú ngụ; những đám mây lờ lững bảng lảng trôi về cuối trời.

– Một không gian mênh mông, rộng lớn nhưng lại thơ mộng, yên bình

– Gợi một buổi chiều tà hiu hắt, ánh nắng chỉ còn le lói phía chân trời.

– Không gian thiên nhiên chính là tấm gương soi phản chiếu nội tâm con người:

– Cánh chim vội vã mang dáng vẻ sự mệt mỏi, nhọc nhằn sau ngày tháng rong ruổi

– Áng mây lững lờ trôi, cô đơn, lẻ loi trên nền trời mênh mông, rộng lớn.

– Bầu trời như được đẩy lên cao hơn xa hơn nỗi lòng con người vì thế cũng như trải dài ra ngút ngàn. Đứng trước thời khắc cuối ngày, lòng người bỗng thấy cô đơn, trống trải; thấy mỏi mệt, bâng khuâng. Và cánh chim sau những phút giây mỏi mệt vẫn được nghỉ ngơi nơi tổ ấm còn người sau những giây phút gông cùm, đọa đày lại phải chịu cảnh ngục tù tăm tối.

– Thế nhưng người ấy lại chẳng một câu than vãn, oán trách mà lại thả hồn vào thiên nhiên cảnh vật để cảm nhận và chấm phá nên những nét tuyệt mĩ nhất của bức tranh cuối ngày.

– Thể hiện tình yêu thiên nhiên rạo rực trong trái tim người chiến sĩ cách mạng

– Trong tâm tưởng người chiến sĩ lúc nào cũng thường trực nỗi nhớ về quê hương, đất nước.

– Ý chí sắt đá, nghị lực phi thường, phong thái ung dung và niềm lạc quan cách mạng của Hồ Chủ tịch. (cánh chim biểu tượng cho cuộc sống tự do)

* Đánh giá, mở rộng:

  • Hai câu thơ vừa mang nét cổ điển, hiện đại với những hình ảnh thơ quen thuộc, bút pháp ước lệ tượng trưng, chấm phá điểm xuyết, không nói về cảnh trời chiều nhưng người đọc vẫn có thể cảm và hình dung ra không gian và nỗi lòng mà câu thơ muốn gửi gắm.
  • Cánh chim không còn là đề tài xa lạ trong thơ cổ thế nhưng cánh chim của Bác lại thật đặc biệt. Nếu như cánh chim của Lý Bạch là cánh chim “điểu cao phi tận” bay vút vào không gian ngút ngàn thì cánh chim của Hồ Chủ tịch lại mang hồn sống, là cánh chim chao liệng không gian, làm chủ không gian, vạn vật.

 

* Hai câu cuối:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túcBao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

– Bức tranh sinh hoạt của con người nơi xóm núi:

– Bóng tối buông xuống phủ lấp không gian

– Hình ảnh cô thôn nữ miền sơn cước hăng say, uyển chuyển với công việc thường nhật: say ngô => vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung, tràn đầy sức sống

– Hình ảnh lò than rực hồng: bừng lên ánh sáng, xua tan bóng tối, sưởi ấm không gian hiu quạnh, lạnh lẽo, vắng vẻ ở ý thơ trên.

– Hình tượng thơ gần gũi, mộc mạc diễn tả chân thực nhịp sống cuối ngày tại miền sơn cước. Qua đó thể hiện tình yêu thương, trân trọng vô bờ của Bác đối với người lao động.

– Hình tượng thơ mang tính chất của sự vận động:

– Thời gian từ chiều tối cho đến tối hẳn

– Cánh chim bay, chòm mây trôi để rồi cũng quy tụ về phía tương lai về ánh sáng.

– Lòng người đi từ chỗ lạnh giá, cô quạnh đến mức ấm nóng, say mê, rạo rực, vui tươi, hồ hởi.

– Nhãn tự “hồng” khép lại bài thơ có sức lay động, lan tỏa đến toàn bộ ý thơ:

– Ngọn lửa hồng lan tỏa, lấn át bóng đêm; xua đi khoảnh khắc lạnh lẽo buốt giá trong cõi lòng con người. Ngọn lửa ấy thổi bùng lên bao khát vọng, ý chí và quyết tâm người chiến sĩ cách mạng giữa cảnh ngục tù đọa đầy.

– Hai câu thơ đã tô vẽ dáng dấp con người. Con người hiện lên kì vĩ, làm chủ không gian, thời gian, xua đi sự cô đơn, vắng vẻ của thiên nhiên. Bên cạnh đó, ýthơ còn thể hiện sức sống mãnh liệt và khát khao lớn lao của người thi nhân.

c) Kết bài:

  • Khái quát đặc sắc nghệ thuật: sử dụng từ hán ngữ; bút pháp ước lệ tượng trưng: lấy mây điểm trăng; lấy động tả tĩnh, lấy cảnh vật để khắc tạc thời gian, nhấn nhá nỗi niềm con người; nét cổ điển xen lẫn hiện đại…
  • Khái quát giá trị nội dung: Bức tranh thiên nhiên bao la, rộng lớn nhưng vắng vẻ, cô quạnh. Hình tượng con người với sức sống mãnh liệt, ung dung, tự tại giữa gông cùm, xiềng xích.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 1

Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của thế kỷ XX. Ngoài văn chính luận, người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca đáng trân trọng. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ Nhật ký trong tù. Tập thơ này như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật ký trong tù:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa từng khôngCô em xóm núi xay ngô tốiXay hết lò than đã rực hồng”

Tháng 8/1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của bạn bè quốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ khi vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và bị “mười bốn trăng tê tái gông cùm” trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) được xem là áng thơ tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu hoạ về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm “chiều tối”.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa từng không”

Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả “luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày”. Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn” (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết:

Chúng điểu cao phi tậnCô vân độc khứ nhàn

(Chim trời bay đi mấtMây lẻ trôi một mình)

Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Đúng như Tố Hữu đã từng viết “Bác ơi tim Bác mênh thống thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”. Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày”.

Cùng với “Quyện điểu quy lâm”, là “Cô vân mạn mạn”. Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy “mạn mạn”. Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời. Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng khuâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển. Mặc dù câu thơ dịch: “Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó. Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh.

Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Thạc sĩ Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng “Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” là bài thơ của thời Thịnh Đường”.

Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con người lao động:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Sinh thời Hồ Chí Minh chỉ có một ao ước lớn: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của Quốc tế cộng sản.

Câu thơ nguyên bản “Sơn thôn thiếu nữ” dịch là “Cô em xóm núi” đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch. Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Phần lớn người phụ nữ trong cổ thi đều mang nỗi buồn thương man mác vì chiến tranh sinh ly tử biệt hay lỡ dở tình duyên, Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,Hối giao phu tế mịch phong hầu.”

Dịch thơ

“Cô gái phòng the chửa biết sầuNgày xuân trang điểm dạo lên lầuĐầu đường chợt thấy tơ xanh liễuHối để chồng đi kiếm tước hầu.”

Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ “thiếu nữ” gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lao động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa. Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một nhà phê bình nào đó từng nhận xét rằng “Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một “sơn thôn thiếu nữ” thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ”ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động”.

Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) “ma bao túc – bao túc ma hoàn” đã cho ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Đó cũng là lúc mà cô gái kia được quây quần bên mâm cơm ấm cúng của gia đình.

Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được xem là nhãn tự là con mắt thần. Nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ đường người ta gọi là “con mắt thơ” (Thi nhãn hoặc là nhãn tự, chữ mắt) nó sáng bùng lên, nó căn lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫn đầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.

Như vậy chữ “hồng” rất xứng đáng là “ông thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Về nét nghĩa khác, chữ “hồng” còn là biểu hiện của cuộc vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, luôn hướng về ánh sáng. Trong bài thơ Tảo giải, chữ “hồng” ấy cũng đã từng xuất hiện:

“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồngBóng tối đêm tàn sớm sạch không”

Chữ “hồng” ấy với chữ “hồng” trong Chiều tối có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang.

“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;Trong ngục giờ đây còn tối mịt,Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.”

(Trích Nhật ký trong tù)

Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày về thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút. Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:

“Lại thương nỗi đọa đày thân BácMười bốn trăng tê tái gông cùmÔi chân yếu, mắt mờ tóc bạcMà thơ bay cánh hạc ung dung”

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 2

Bên cạnh một sự nghiệp chính trị vẻ vang Hồ Chí Minh còn có một sự nghiệp sáng tác rất mực đồ sộ và đáng quý. Có thể nói rằng xuyên suốt chặng đường cách mạng lắm gian lao, thì việc sáng tác văn thơ dường như đã trở thành một phần không thể thiếu, luôn đồng hành trong suốt hành trình giải phóng dân tộc của Bác. Với lối văn thơ trữ tình chính trị đậm nét, các tác phẩm của Hồ Chí Minh, không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước, đả kích quân thù, mà trong đó còn ẩn chứa những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của vị lãnh tụ vĩ đại. Chiều tối (Mộ) là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh, không chỉ bộc lộ những vất vả khó khăn mà Người đã phải trải qua trong quá trình làm cách mạng mà quan trọng hơn hết qua đó chúng ta thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.

Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, vừa về nước chưa được bao lâu, Hồ Chí Minh lại tiếp tục sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Sau nửa tháng đi bộ, vượt rừng đầy vất vả, khi vừa đặt chân sang biên giới bên kia thì Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác rơi vào cảnh tù đày suốt 13 tháng. Cuộc sống nơi ngục tù cùng với những chuyến chuyển lao đầy vất vả đã được Người ghi lại bằng 134 bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký. Nhận xét về tập thơ này, nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng rất cảm động rằng:

“Lại thương nỗi đọa đày thân BácMười bốn trăng tê tái gông cùmÔi chân yếu mắt mờ tóc bạcMà thơ bay…cánh hạc ung dung”

Chiều tối là bài thơ tiêu biểu nhất trong số 134 bài của tập Ngục trung nhật ký, được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, ấy là vào một buổi chiều nhá nhem tối cuối thu năm 1942, khi Bác đang bị áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo (Trung Quốc). Trước cảnh gông xiềng quấn thân, chân đứng trên miền đất xa lạ, thế nhưng bằng tấm lòng lạc quan, yêu thiên nhiên, con người Hồ Chủ tịch vẫn ngẫu hứng viết nên những vần thơ thực ấm áp, xua tan đi cái tăm tối, hiu quạnh nơi núi rừng sơn cước. Bút pháp chấm phá cổ điển cùng với ý thơ hiện đại đã mang đến cho Chiều tối một diện mạo đặc sắc, thơ không chỉ là những cảm tình ngẫu hứng mà còn ẩn chứa trong đó một vẻ đẹp tâm hồn lớn, những hoài bão, những ước vọng về lý tưởng cách mạng đang phát triển mạnh mẽ.

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Khung cảnh thiên nhiên chiều tối được Bác phác họa qua hai hình ảnh cánh chim và chòm mây- những chất liệu quen thuộc thường thấy trong thơ cổ điển xưa, khi thi nhân miêu tả buổi hoàng hôn. Đọc những vần thơ này, dễ có thể liên tưởng đến hình ảnh nhân vật trữ tình đứng giữa trời đất, tầm mắt hướng vào không trung vô tình bắt gặp cánh chim in đen trên nền trời, cùng với những chòm mây trăng trắng có dáng ánh hồng buổi chiều tà, đó là một khung cảnh nhiều xúc cảm thi vị, cảm giác tự do phiêu lãng ngập tràn. Nhưng mấy ai biết được rằng đằng sau những vần thơ ấy là một người tù với gông đeo nặng cổ, cùm quấn chặt chân. Có thể nói rằng, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn như vậy, nhưng Hồ Chí Minh vẫn có thể ung dung nhìn ngắm mây trời, thì người thi nhân phải có một tinh thần lạc quan tuyệt đối đến nhường nào.

Hai câu thơ đầu của Chiều tối là điển hình cho bút pháp “thi trung hữu họa” trong văn học cổ điển, chỉ hai câu thơ ngắn ngủi đã đủ để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đặc sắc, nhiều ý vị. Trước hết là hình ảnh cánh chim trời, nếu trong thi ca xưa cánh chim bay lạc giữa không trung thường đại diện cho sự cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng. Thì trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim mang màu sắc hiện đại hơn, khi nó có nơi chốn để về sau một ngày dài vất vả kiếm ăn, đó là tổ ấm hạnh phúc. Không chỉ vậy ngoài sự chuyển động của cánh chim, Người còn tinh tế cảm nhận được sự mỏi mệt ẩn chứa trong từng nhịp vỗ cánh. Sở dĩ có được những cảm nhận như vậy là do xuất phát từ tấm lòng đồng cảm của tác giả với cánh chim, như những người đồng cảnh ngộ. Bác cũng vừa trải qua một ngày dài đi bộ đường trường đầy mỏi mệt, đôi chân Bác cũng như đôi cánh chim đang rã rời, chỉ mong sớm được nghỉ ngơi. Chỉ khác là cánh chim ấy đã có chốn về, còn Bác thì chưa biết đến chốn nghỉ ngơi là khi nào, điều ấy cũng dấy lên những xúc cảm buồn tủi trong lòng thi sĩ.

Tuy nhiên nhiều hơn hết người ta vẫn thấy được tấm lòng lạc quan, yêu đời, luôn hướng đến những điều tích cực, khi Bác đã tự tìm cho cánh chim nơi chốn để về, Người vẫn nhìn nhận thấy những niềm hạnh phúc, ấm áp nhỏ nhoi trong cảnh sắc thiên nhiên vốn hiu quạnh này. Một hình ảnh tiếp theo ấy là hình ảnh chòm mây trôi lơ lửng trên nền trời xanh nhờ nhờ buổi hoàng hôn, đây cũng là một trong những chất liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển. Hình ảnh chòm mây được rất nhiều thi nhân xưa đưa vào thơ của mình để bộc lộ tinh thần tự do, tự tại, phiêu bồng, thoát ly khỏi thực tại đồng thời một phần cũng bộc lộ sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Ý này cũng phù hợp để nói về tâm trạng của Hồ Chí Minh trong cảnh ngục tù lắm gian truân, tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì vẫn chưa đủ để diễn tả hết vẻ đẹp trong thơ của Bác. Bởi, bên cạnh sự lẻ loi, cô độc của chòm mây, người ta còn nhìn ra tâm hồn lạc quan, thư thái, sự tích cực trong cách nhìn nhận sự vật. Hai từ “mạn mạn” diễn tả sự chậm rãi trong cách di chuyển của chòm mây, chính là thể hiện sự ung dung, thong thả của người chiến sĩ tình dù gông xiềng quấn thân. Hai từ “thiên không” tức là bầu trời quang đãng, sạch sẽ, trong trẻo như chính tấm lòng người chiến sĩ cách mạng, không bị trói buộc giam cầm bởi hoàn cảnh. Tất cả những điều đó đều nhấn mạnh và làm nổi bật tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Hồ Chí Minh trong chuỗi ngày bị giam cầm, có thể nói rằng không gì có thể làm suy sụp đi ý chí ấy, mà chỉ làm cho lý tưởng cách mạng trong lòng Người càng thêm sáng rõ.

Văn học là nhân học, từ hình ảnh cổ điển cánh chim, chòm mây vốn hướng tới cảnh buồn bã, hiu quạnh nhưng trong thơ Bác, chúng lại trở nên đầy tính nhân văn. Cánh chim thì hướng về hạnh phúc, tổ ấm, bộc lộ khát khao được trở về quê hương đoàn tụ với Tổ quốc, còn chòm mây là tinh thần lạc quan, quyết chiến thắng mọi sự cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người, dù rằng ẩn chứa trong đó là nỗi chạnh lòng khi đơn độc nơi xứ người của thi nhân.

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túcMa túc bao hoàn lô dĩ hồng”

Trong hai câu thơ tiếp theo Bác đã hướng ánh nhìn vào khung cảnh cuộc sống của người dân vùng sơn cước. Hình ảnh cô gái xay ngô là một hình đẹp và ẩn chứa nhiều ý vị, khi con người trong lao động trở thành trung tâm của bài thơ. Khác hẳn với hình ảnh con người trong thơ ca truyền thống luôn bị lu mờ, che lấp trước thực cảnh thiên nhiên rộng lớn, ví như cảnh thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Lom khom dưới núi tiều vài chú”, hay của Huy Cận “Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiều”. Thì ở trong thơ Hồ Chí Minh, hình ảnh cô gái xay ngô lại thực rõ nét và ấn tượng, tuy giản dị, đời thường nhưng lại bộc lộ sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ trong công cuộc lao động. Có thể nói rằng hình ảnh thiếu nữ xay ngô chính là dấu ấn cho quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò, vị thế của con người trước thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn, con người làm chủ thiên nhiên và sống chan hòa với thiên nhiên. Tất cả đã làm nên một diện mạo thơ đặc biệt với chất cổ điển đôi nét chấm phá và chất hiện đại làm cốt lõi đầy ấn tượng.

Không chỉ thế trong hình cảnh cô gái xay ngô tối, người ta còn nhìn nhận được những khao khát, mong mỏi của tác giả khi Người luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, về mái ấm yên bình, dẫu gian lao lao vất vả, nhưng ẩn chứa những vẻ đẹp tiềm tàng, mạnh mẽ, đầy hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Ở câu thơ cuối “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, khi cô gái vừa kết thúc công việc xay ngô thì lò than cũng đã rực hồng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. Từ “hồng” đã trở thành nhãn tự cho cả bài thơ hai mươi tám chữ. Thông thường, khi trời từ chiều tối sang tối hẳn có lẽ rằng bài thơ sẽ kết thúc bằng cảnh tượng màn đêm đen kịt bao phủ khắp núi rừng, che phủ đi hình ảnh con người, để lại nỗi cô đơn, lạnh lẽo và mênh mang vô tận. Nhưng ở trong Chiều tối, bóng đêm lại được bắt đầu bằng hình ảnh lò than đã rực hồng “lô dĩ hồng”, như một sự khởi đầu ấm áp, biểu hiện cho cuộc sống ban ngày vừa kết thúc, nhưng cuộc sống sinh hoạt mới thực sự bắt đầu. Chính thế người ta đã chẳng còn nhận thấy sự tối tăm, ảm đạm mà thay vào đó là cảm giác ấm áp, một khung cảnh mới có thể tiếp diễn ngay sau khi cô gái xay xong ngô tối, ấy là cảnh bữa cơm nóng ấm, vui vẻ bên gia đình.

Đặc biệt là từ “hồng” dường như làm rực sáng cả bài thơ, xua đi cái không khí tối tăm, hiu quạnh miền rừng núi, khung cảnh thiên nhiên rộng lớn bỗng chốc thu bé lại bằng hình ảnh một lò than, một mái ấm với những con người lao động nhỏ bé, nhưng đậm nét. Thơ của Hồ Chí Minh luôn tích cực và tươi sáng như thế, Người luôn hướng về ánh sáng, sự sống. Nhìn xa hơn về cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, từ “hồng” cuối bài là ẩn chứa những ý nghĩa xa xăm, hình ảnh cô gái xay ngô tối đầy khó khăn, vất vả, cũng giống như cảnh Bác nặng nhọc gông xiềng quấn thân. Khi cô gái xay xong ngô thì lò than đã rực hồng, là ẩn dụ cho việc Bác sau khi vượt qua cảnh tù đày, chính là ngày cách mạng rực sáng, tương lai còn tươi sáng phía trước. Có thể nói rằng “hồng” còn chính là đại diện cho màu của lý tưởng cách mạng trong người chiến sĩ, ấm nóng, tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh tối tăm để vụt sáng. Ấy chính là chất thép ẩn hiện trong thơ Hồ Chí Minh, tinh tế và nhiều ý vị.

Chiều tối là một trong những tứ thơ hay nhất của Hồ Chí Minh khi có sự hòa quyện đan xen giữa nét cổ điển và hiện đại, tư duy thơ sâu sắc và tinh tế khi lời thơ ngắn gọn súc tích, nhưng ý thơ phong phú và nhiều trường phát triển. Ở Chiều tối, bên cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa hợp với thiên nhiên, ta còn thấy được vẻ đẹp tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, trái tim ấm áp luôn có chất thép ngầm mạnh mẽ, vững vàng và tuyệt đối kiên trung với lý tưởng cách mạng sáng ngời. Trở thành động lực to lớn cho người chiến sĩ bước tiếp con đường giải phóng dân tộc nhiều vẻ vang, nhưng cũng lắm gian lao sau này.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 3

Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ “Chiều tối” nằm trong tập thơ “Nhật kí trong tù” đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.

Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không.”

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”

Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.

Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rừng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.

Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

Dịch thơ:

“Cô em xóm núi xay ngô tối,Xay hết, lò than đã rực hồng.”

Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cố điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó. Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ “bao túc” ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xoay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần. Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.

Nhà văn Nam Cao đã viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được”, để nói rằng, con người ta thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ – một người lúc nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước – vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 4

Nhận xét về tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: “Quy luật thống nhất giữa cách mạng và thơ ca chân chính đã khiến cho Bác Hồ trong khi đào luyện mình thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại đã cùng lúc, ngoài ý muốn của Người, tự chuẩn bị cho mình những điều kiện để trở thành một nhà thơ lớn”. Đây là tập thơ bằng chữ Hán được Bác viết trong thời kì bị chính quyền Tưởng giới Thạch bắt giam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của tập thơ này là bài thơ “Chiều tối”.

“Chiều tối” được sáng tác trong hoàn cảnh Người bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào thời gian cuối mùa thu năm 1942. Khó khăn, thử thách không thể làm chùn bước chân của người chiến sĩ. Bác làm thơ để “ngâm ngợi cho khuây” và cũng là để đợi đến ngày được tự do. Những vần thơ của Người không chỉ “mênh mông bát ngát tình” (Hoàng Trung Thông) mà đó còn là những vần thơ thép, thể hiện một tinh thần thép.

Chỉ bằng bút pháp gợi tả và đôi nét chấm phá của Đường thi, Hồ Chí Minh đã khắc họa lại bức tranh thiên nhiên trên đường chuyển lao qua hai câu đầu của bài thơ:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Chiều tối là khoảng thời gian những chú chim sải cánh bay đi tìm chốn ngủ cho mình sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi. Cánh chim bay trong buổi hoàng hôn gợi lên sự nhỏ bé giữa một không gian rộng lớn của cả cánh rừng. Ta có thể bắt gặp hình ảnh quen thuộc này trong thơ ca truyền thống như câu ca dao: “Chim bay về núi tối rồi” hay trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏiDặm liễu sương sa khách bước dồn”

(Cảnh chiều hôm)

Chiều tà đã buông xuống khép lại một ngày dài để nhường chỗ cho màn đêm và bóng tối ngự trị. Đó là thời gian vạn vật quây quần bên nhau nhưng cũng là thời gian gợi nỗi buồn. Những chú chim đã tìm được nơi chốn để dưỡng sức còn người tù thì không thể tránh khỏi cảm giác chạnh lòng. Bác khao khát có một chốn dừng chân để nghỉ ngơi. Mệt mỏi, cô đơn là vậy nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại ấy không hề kêu than. Bác đối mặt với hoàn cảnh bằng một ý chí và nghị lực phi thường.

Giữa không gian bao la ấy còn có sự góp mặt của những chòm mây trôi lững lờ, cô đơn, lẻ loi. So với nguyên tác thì bản dịch đã dịch thiếu chữ “cô” làm ý thơ không diễn đạt được sự đơn lẻ của chòm mây trên tầng không. Không chỉ có cánh chim mà cả chòm mây cũng mang cảm giác cô độc. Phải là một con người có tình yêu thiên nhiên và lòng yêu đời tha thiết thì Bác Hồ mới thấy được cái hồn của cảnh vật.

Bức tranh thiên nhiên núi rừng buổi chiều tà được gợi tả qua một vài chi tiết nổi bật đã làm hiện lên một tâm hồn thi sĩ. Tâm hồn ấy giao hòa và cảm thông với vạn vật bởi giữa vạn vật và bản thân người thi sĩ có sự tương đồng. Tay chân bị xiềng xích, gông cùm kìm kẹp nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ cho mình phong thái ung dung, đĩnh đạc. Nếu không phải là một người có tinh thần thép kiên cường và một tinh thần lạc quan thì có lẽ Người đã không hướng hồn mình ra thế giới bên ngoài để ngắm nhìn, cảm nhận chúng. Ta có thể dễ dàng nhận thấy những thi liệu thơ Đường được sử dụng trong hai câu thơ: Thời gian chiều tối, hình ảnh cánh chim, chòm mây, những thi liệu cổ này đều gợi một nỗi buồn hiu hắt, quạnh vắng cho cả chính chủ thể trữ tình và người đọc. Đồng thời những hình ảnh ước lệ đó cũng diễn tả sự vận động tinh tế của thời gian, cảnh vật khi chiều tà buông xuống nơi đất khách.

Nếu hai câu thơ đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên núi rừng thì hai câu thơ sau miêu tả khung cảnh sinh hoạt của cuộc sống con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túcBao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tốiXay hết lò than đã rực hồng)

Dấu hiệu của cuộc sống con người đã xuất hiện đẩy lùi đi nỗi buồn của người tù. Con người là chủ thể, trung tâm của bức tranh sinh hoạt này. Bác đã có cái nhìn từ bao quát toàn cảnh đến chi tiết, từ xa đến gần, từ bầu trời xuống mặt đất để thấy được cuộc sống con người xóm núi. Vòng quay của cối xay ngô cứ lặp đi lặp lại đều đều qua từ ngữ “ma bao túc”, “bao túc ma hoàn” cho thấy những vòng quay cứ nối tiếp nhau diễn tả cuộc sống lao động vất vả, cực nhọc của con người. Biện pháp nghệ thuật điệp liên hoàn đầu cuối này cũng thể hiện sự tuần hoàn của thời gian, vũ trụ. Người thiếu nữ nơi rừng núi đang làm công việc xay ngô trở thành tâm điểm mà Bác hướng tới. Nếu thơ ca xưa lấy thiên nhiên làm chủ thể thì trong thơ Bác, con người là chủ thể. Hình ảnh cô gái miền sơn cước đang chuẩn bị bữa tối cho gia đình bên bếp lửa là một hình ảnh đẹp và toát lên vẻ khỏe khoắn của cô sơn nữ. Cuộc sống lao động, mưu sinh của con người thật đáng trân trọng.

Thời gian lúc này đã chuyển hẳn sang tối, tuy ở bản phiên âm không có một chữ “tối” nhưng người đọc đều có thể nhận ra trời đã tối hẳn bởi nhìn thấy lò than “rực hồng”. “Hồng” là nhãn tự, là điểm bừng sáng của bài thơ, hình tượng thơ có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, từ lụi tàn đến sự sống, từ cô đơn đến sum vầy, quây quần. Hình ảnh lò than “rực hồng” là hình ảnh giản dị nhưng hàm chứa đầy ý nghĩa. Nó gợi nên bao sự ấm áp, xua tan đi sự lạnh lẽo của núi rừng và nỗi cô đơn của con người. Lò than ấy cũng thắp sáng lên một niềm tin cách mạng mãnh liệt, cách mạng nhất định sẽ thắng lợi.

Nhà tù Tưởng Giới Thạch không làm khô cằn được tâm hồn của Bác. Ngay cả khi bị đày đọa về thể xác, Bác vẫn hướng tâm hồn mình ra ngoại giới để hòa hợp, cảm thông với tạo vật và con người. Người đã quên đi nỗi cực khổ của mình để vui với niềm vui nho nhỏ, bình dị của người dân lao động. Vẻ đẹp của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng bừng sáng. Bài thơ đã thể hiện chủ nghĩa lạc quan cách mạng vô cũng mãnh liệt, mạch thơ và hình tượng thơ luôn vận động hướng về sự sống và ánh sáng. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Hồ Chí Minh. Ngoài ra, sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại cũng góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của tác phẩm.

“Chiều tối” cho thấy tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng và tâm hồn của người thi sĩ đã quyện hòa làm một. Mỗi vần thơ của Bác đều mang chất thép, một chất thép được toát ra từ tư tưởng của người chiến sĩ vĩ đại. Chẳng vậy mà nhà thơ Tố Hữu đã viết về Bác với những câu thơ chứa chan cảm xúc:

“Lại thương nỗi đọa đày thân BácMười bốn trăng tê tái gông cùmÔi chân yếu, mắt mờ, tóc bạcMà thơ bay cánh hạc ung dung”

(Theo chân Bác)

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 5

“Tháp mười đẹp nhất bông senViệt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, một nhà chính trị kiệt xuất, một con người đầy trách nhiệm mà còn là một thi nhân có trái tim ấm áp. Những vần thơ Bác viết luôn chất chứa những nỗi niềm và tâm tư của một người vì nước, vì dân. Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất tinh thần và phong cách Hồ Chí Minh, đó là bài thơ Chiều tối (Mộ).

Chiều tối là bài thơ số 31 trong tập thơ nổi tiếng Nhật ký trong tù. Bài thơ được viết năm 1942 trong một lần chuyển lao của Bác.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa, tầng không”

Bức tranh thiên nhiên hiện lên vương chút buồn thi vị. Cánh chim trời sau ngày dài đập cánh, bay đi kiếm ăn cũng mỏi mệt trở về nơi rừng sâu tìm chốn nghỉ ngơi. Giữa khoảng không rộng lớn của đất trời, cánh chim nhỏ bé chao nghiêng dẫu có mỏi mệt, nhọc nhằn vẫn cố gắng vươn mình bay về tìm nơi nương náu. Cánh chim chiều về mang cả một nỗi sầu khắc khoải khôn nguôi. Phải chăng cánh chim ấy cũng chính là đôi chân của người tù chốn ấy, vẫn miệt mài từng bước tìm con đường giải phóng cho quê hương, vẫn khát khao ngày được trở về đặt chân trên đất mẹ thân yêu. Người tù ấy dẫu cho có đau đớn, mỏi mệt vẫn chưa bao giờ thôi khao khát được tự do, được sải cánh bay như cánh chim chiều giữa thế giới bao la.

“Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Thời khắc của hoàng hôn gợi biết bao nỗi buồn xa xăm, đặc biệt là đối với những người mang nỗi sầu xa xứ. Lúc này đầy, dường như nỗi lòng thi nhân đượm bao nỗi buồn khôn tả. Bởi thế, mà cảnh trong mắt Người gợi buồn, gợi nhớ biết bao. Cánh chim chiều mỏi mệt, áng mây cô độc, bơ vơ trôi nhẹ giữa tầng không. Cảnh đẹp mà yên bình đấy nhưng sao đượm buồn đến thế. Phải chăng vì chính lòng người mang nặng nỗi sầu thương, bởi:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Con người dù mạnh mẽ và lý trí đến đâu cũng sẽ có những lúc yếu lòng, mỏi mệt. Bác cũng thế, chiều về là thời điểm mà ai cũng quây quần bên bữa cơm gia đình áp áp, vậy mà một mình người đang cô độc nơi tù ải xa xôi, chốn đất khách quê người sao mà khỏi thiết tha, sao mà không chạnh lòng được cơ chứ? Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết dường như đang cuộn trào trong tâm khảm thi nhân.

“Thiếu nữ xóm núi xay ngô tốiNgô xay vừa xong lò than đã đỏ”

Từ bức tranh thiên nhiên rộng lớn nhưng lạnh lẽo, thấm đượm nỗi buồn, Bác đã hướng sự chú ý đến bức tranh cuộc sống bình dị mà ấm áp vùng sơn cước. Hình ảnh người thiếu nữ xay ngô không chỉ gợi ra những nhịp vận động đầy khỏe khoắn mà còn khắc họa vẻ đẹp của con người, họ đẹp trong chính công việc lao động bình dị. Bức tranh chiều tối được nhìn từ xa đến gần, từ không gian rừng núi rộng lớn tĩnh mịch đến không gian làng bản nhỏ bé nhưng ấm áp tình người. Cũng chính hơi ấm nơi cuộc sống bình dị ấy đã thắp lên trong tim người thi sĩ tình yêu cuộc sống, niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Từ “hồng” trong câu thơ cuối được coi là nhãn tự của bài thơ, không chỉ thắp sáng cả bài thơ mà còn thể hiện được tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng vào tương lai của đất nước.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn mà cô đọng, giàu giá trị biểu cảm. Điều đặc biệt tạo nên giá trị của bài thơ không chỉ từ nội dung giàu tính nhân văn mà còn từ nét đẹp trong nghệ thuật biểu hiện. Đó là sức mạnh biểu đạt tình cảm của ngôn từ, là sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu cổ điển và tinh thần hiện đại. Đó là sự vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, tả cảnh ngữ tình…. Bài thơ đã thực sự trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc đóng góp vào thành tựu đồ sộ của nền văn học nước nhà.

Chiều tối không chỉ thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu thiết tha với cuộc đời của người thi sĩ mà bộc lộ tinh thần lạc quan, yêu đời ngay trong nghịch cảnh của người chiến sĩ, nhà cách mạng Hồ Chí Minh.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 6

Bác Hồ khi xưa đã từng nói rằng: “Làm thơ ta vốn không ham/ Nhưng mà trong ngục biết làm chi đây/ Ngày dài ngâm ngợi cho khuây/ Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”. Trong lời giãi bày bác vốn không ham làm thơ, nhưng khoảng thời gian trong ngục làm thơ ngâm ngợi để vơi đi nỗi buồn, đồng thời làm thơ cũng là để thể hiện ý chí sắt đá của người chiến sĩ cách mạng. Trong tập Nhật kí trong tù ta không thể không nhớ đến bài thơ Chiều tối, tác phẩm được sáng tác khi bác chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ đã làm bật lên tinh thần kiên cường của người tù cách mạng.

Mở đầu tác phẩm mở ra khung cảnh, bức tranh thiên nhiên chiều tối:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Bức tranh chiều tối được gợi lên từ hai hình ảnh: cánh chim, chòm mây. Cánh chim vốn là thi liệu quen thuộc trong thơ xưa như: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan) hay “Chim hôm thoi thót về rừng” (Nguyễn Du). Những cánh chim thường gợi về nỗi cô đơn, gợi nhắc, gợi nhớ về một quãng thời gian nào đó. Còn cánh chim trong thơ bác lại xuất hiện hoàn toàn khác, sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi, chúng trở về tìm chốn nghỉ ngơi. Chúng bay đi có mục đích, phương hướng, không hề vô định như trong thơ cổ. Cánh chim ấy gợi liên tưởng về sự tương phản với hoàn cảnh của bác. Chòm mây trên trời cô đơn, lững lờ trôi giữa không gian mênh mông, cái cô độc của chòm mây cũng như chính sự cô đơn, lẻ loi của Bác. Bức tranh thiên nhiên không còn dừng lại ở miêu tả bề ngoài mà nó còn là bề sâu của tâm cảnh, ta thấy được tình yêu thiên nhiên của người tù. Bằng những quan sát hết sức tinh tế Bác đã nắm bắt được cái thần, cái hồn của cảnh vật, một không gian chiều mơ màng, thanh bình. Không chỉ vậy ta còn thấy được nỗi cô đơn, mệt mỏi của người tù nhân, khi phải trải qua một hành trình dài, di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng đằng sau nỗi cô đơn ấy còn là một bản lĩnh kiên cường, sắt đá của người chiến sĩ.

Bức tranh của Bác không dừng lại ở đó, từ không gian của thiên nhiên, người tù di chuyển điểm nhìn để thấy hơi thở của cuộc sống sinh hoạt bình dị, đời thường mà vô cùng ấm áp:

Cô em xóm núi xay ngô tốiXay hết, lò than đã rực hồng.

Đến đây con người đã trở thành trung tâm của bức tranh. Hiển hiện trong khung cảnh sinh hoạt là người thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Hình ảnh chân thực, bình dị và vô cùng đời thường nhưng lại lấp lánh tỏa sáng. Đó là ánh sáng của tuổi trẻ, của sức sống hừng hực nơi người con gái; ánh sáng tỏa ra từ công việc lao động bình dị; đồng thời còn là vẻ đẹp của mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên: con người là trung tâm, là chủ thể của vũ trụ. Trước thiên nhiên bao la con người không bị lu mờ mà được làm rõ nổi bật hơn.

Câu thơ cuối là sự kết hợp hài hòa giữa nét vẽ cổ điển và nét vẽ lãng mạn. Tính cổ điển được thể hiện ở bút pháp dùng ánh sáng để nói bóng tối. Hình ảnh lò than rực hồng, tỏa rạng một khoảng không gian đã tái hiện thành công bóng tối bao phủ xung quanh đây. Nhưng đồng thời đây cũng là câu thơ hết sức hiện đại. Chữ hồng là nhãn tự của bài thơ, làm bừng sáng cả không gian tăm tối đang bao trùm. “Hồng” thể hiện sự vận động theo hướng từ chiều đến tối, từ lạnh lẽo đến ấm áp (ấm của sự sống, của sinh hoạt lao động con người), từ sự cô đơn đến sum họp và từ nỗi buồn đến niềm vui. Đây là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng thể hiện niềm tin, lạc quan vào tương lai tương sáng của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. Bút pháp gợi tả thiên nhiên giản dị, tự nhiên mà vô cùng chân thực. Có sự đan xen, hòa quyện một cách nhuần nhuyễn giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.

Chiều tối đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người nơi núi rừng hoang dã. Đằng sau bức tranh ấy là vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh: luôn mang trong mình tinh thần lạc quan, tin tưởng dù gặp khó khăn vẫn luôn tin rằng ánh sáng đang đợi dân tộc, đất nước nơi cuối con đường.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 7

“Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ 2/8/1942 đến 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đày đọa khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có một số bài ghi lại những thời khắc đáng nhớ trong ngày: Buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một nỗi niềm trong những tháng ngày “ác mộng”.

“Chiều tối” (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong “Nhật ký trong tù”. Bài thơ số 32 là bài “Đêm ngủ ở Long Tuyền”. Vậy, bài “Chiều tối” ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10/1942.

Đây là nguyên tác bài thơ:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,Cô vân mạn mạn độ thiên không,Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.

Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chỗ dừng chân…của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, đọc qua tưởng như chỉ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.

Hai câu đầu tả bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ “động” cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm cây trú ẩn, một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang lững lờ trôi (mạn mạn). Câu trúc hai câu thơ đăng đối, âm điệu thơ nhẹ, thoáng buồn. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng man mác. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh đã thoáng hiện tâm cảnh. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy chưa thể hiện được chữ “cô” trong “cô vân” nhưng khá hay:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa từng không”.

Hai câu thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều chỉ 2 nét phác họa (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,… nhớ về một cánh chim bay trong “Truyện Kiều”: “Chim hôm thoi thót về rừng”; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:

“Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏiDặm liễu sương sa, khách bước dồn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Trở lại bài “Chiều tối”, áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc! Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba.

Tiếp theo câu cuối 3 – 4 từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người nơi núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túcBao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.

Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ba chữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được lấy lại “bao túc ma hoàn…” ở đầu câu 4, động tác nhịp nhàng xay ngô, vừa diễn tả sự chuyển động vòng tròn của cái cối đá xay ngô thủ công. Đức tính cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đã làm cho thơ liền mạch và có về nhạc điệu. Câu thơ địch: “Cô em xóm núi xay ngô tối”, với 2 chữ cô em đã làm lạc phong cách thơ Hồ Chí Minh; chữ “tối” thêm vào đã làm cho ý thơ lộ, còn đâu nữa ý tại ngôn ngoại trong bài thơ chữ Hán này?

Sự vật như nối liếp theo dòng chảy thời gian mà xuất hiện: Khi ngô xay xong than đã rực hồng, sáng bừng lên, vô cùng ấm áp. Khi màn đêm đã bao mịt mùng, lò than đỏ rực lên, cảnh vật ấy thu hút tâm trí người tù đang bị giải đi. Buồn biết bao cảnh bếp lạnh tro tàn! ấm áp biết bao một ngọn đèn, một bếp hồng trong đêm lạnh. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm đoàn tụ gia đình, nó đã làm vơi đi bao nỗi cô đơn tĩnh mịch. Hướng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, khi chân tay mang nặng xiềng xích, bị giải đi trong chiều tối, Bác đã tìm thấy nơi nương tựa tâm hồn mình. Hình như nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan. Một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên con đường đi đày xa xứ trong màn đêm buông xuống. Cảm hứng thơ dào dạt chất nhân bản. Cái bình dị mà đầy chất thơ. Chất thơ ấy là hồn người và tình người. Hai nét vẽ về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là hai nét vẽ bình dị, ấm áp, khoẻ và trẻ trung, làm thơ Bác có sự hoà hợp giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại vẻ trung bình dị.

Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường khổ ải, lưu đày người chiến sĩ cách mạng trong “Nhật ký trong tù” hầu như ít cảm thấy cô đơn, tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh hoàng hôn gió rét căm, vượt lên gian khổ. Người xúc động hướng tới một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước:

“Gió sắc tựa gươm mài đá núi,Rét như dùi nhọn chích cành câyChùa xa chuông giục người nhanh bước,Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay”.

(Nam Trân dịch)

Có lúc trong cảnh bị cùm trói “Thừa cơ rét rệp xông vào đánh” mà Người vẫn “thoát ngục” tìm được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: “Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần” (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp, bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà Bác gắn bó, mến yêu suốt đời.

“Chiều tối” – một bài thơ đáng yêu: màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một hồn thơ “bát ngát tình”. Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 8

Theo Nhật ký trong tù, trên đường chuyển lao từ nhà ngục Tĩnh Tây đến nhà ngục Thiên Bảo, Bác làm năm bài thơ mà Chiều tối là bài thứ ba trong chùm thơ đó. Như tên gọi, bài thơ là bức tranh vẽ cảnh hoàng hôn.

Chiều tối này không giống như bất kỳ chiều tối nào. Đây là cảnh chiều tối qua đôi mắt của người tù Hồ Chí Minh “tay bị trói, cổ đeo xích” đang bị lính áp giải ngang qua một vùng sơn dã. Ngày đã hết mà người tù vẫn phải cất bước. Nhà giam mới còn xa, nỗi vất vả còn nhiều. Bài thơ hình thành trong hoàn cảnh nghiệt ngã ấy:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

(Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,Cô vân mạn mạn độ thiên không.)

Chim bay về tổ là biểu tượng được dùng để diễn tả cảnh hoàng hôn thường thấy trong thơ cổ điển, nhưng cánh chim ở đây không chỉ là một nét vẽ bình thường. Dường như lúc chiều tối người tù ngước mắt nhìn lên bầu trời, chợt thấy cánh chim mỏi mệt đang cố bay về tổ ấm và chòm mây chầm chậm trôi ngang lưng trời. Cái nhìn của nhà thơ không đơn thuần là cái nhìn thưởng thức mà còn gửi vào đó sự lưu luyến, trìu mến của một tấm lòng yêu thương vô hạn. Cánh chim nhỏ bé kia như có linh hồn, có đời sống riêng tư. Cả ngày kiếm ăn vất vả, chiều tối nó mệt mỏi trở về rừng tìm nơi trú ngụ để sớm mai lại bay đi. Người tù cũng mỏi mệt sau một ngày vất vả lê bước đường trường. Có sự hòa hợp, cảm thông giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật thiên nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy chính là tình yêu thương sâu xa của Bác dành cho mọi sự sống trên đời.

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không. Nguyên văn chữ Hán đẹp như một câu thơ Đường: Cô vân mạn mạn độ thiên không. Chòm mây này không có sắc thái phong lưu, nhàn tản, gợi nên sự cô độc thanh cao như trong thơ cổ: Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu) mà nó chỉ đơn giản là chòm mây lãng đãng trôi trên nền trời lúc bóng chiều đang sẫm lại, tô thêm vẻ mênh mông, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Phải có một tâm hồn ung dung, thư thái thì người tù mới có thể tạm quên sự đau đớn của thể xác để dõi theo một cánh chim, một chòm mây giữa bầu trời lúc hoàng hôn như vậy.

Chòm mây ấy khiến không gian trở nên vô tận và thời gian như ngừng trôi. Hơn thế, chòm mây cũng như đang mang tâm trạng của con người. Nó cô đơn và lặng lẽ, ẩn chứa nỗi buồn trong cảnh chia lìa: cánh chim mải miết bay về rừng xanh, còn chòm mây trôi nhẹ như muốn ở lại giữa tầng không bát ngát.

Cảnh chiều tối nơi sơn dã là như vậy. Cánh chim nhỏ nhoi, chòm mây cô độc. Chim bay, mây trôi. Bầu trời bao la không giới hạn. Người xưa cho đó là cách lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh, rất tinh vi. Tuy bài thơ không tả màu sắc, âm thanh mà người đọc vẫn cảm thấy khung cảnh rừng núi lúc chiều tối thật âm u, hiu quạnh. Hai câu thơ thấm thía nỗi buồn vì cảnh buồn và người buồn, vì cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong sum họp, chòm mây đơn độc lơ lửng trên không trung gợi thân phận lênh đênh trôi dạt nơi đất khách quê người, vì không biết tới bao giờ người tù mới được tự do như cánh chim và chòm mây kia?!

Tuy vậy, hai câu thơ trên cũng thể hiện bản lĩnh kiên cường của người tù thi sĩ, bởi vì nếu không có ý chí, nghị lực, không có phong thái ung dung tự chủ và sự tự do hoàn toàn về tinh thần thì không thể viết những câu thơ về thiên nhiên sâu sắc và tinh tế như thế trong hoàn cảnh khắc nghiệt của thân phận tù đày.

Đến hai câu thơ cuối, bức tranh chiều tối bỗng có những nét chấm phá bất ngờ: Giữa rừng núi, âm u, một lò lửa bỗng rực hồng, soi sáng hình ảnh thiếu nữ đang chuẩn bị bữa ăn tối cho gia đình:

Cô em xóm núi xay ngô tối,Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.)

Nếu trong hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện ra qua những nét vẽ phần nào mang tính chất ước lệ thì ở hai câu thơ này, hình ảnh người phụ nữ lao động lại được tác giả miêu tả chân thực và sinh động. Bài thơ chuyển từ bức tranh thiên nhiên thành bức tranh đời sống. Đấy là xu hướng vận động trong cấu trúc của bài thơ, là logic hình tượng thơ và nó cũng phản ánh cái logic lớn trong tâm hồn tác giả. Điều lạ là những câu thơ tả thực gần như văn xuôi ấy lại có một sức sống lạ thường. Sức sống ấy toát lên từ hình ảnh khỏe khoắn của người thiếu nữ hay từ ánh lửa rực hồng của lò than ?! Hình ảnh cô gái xay ngô trở thành trung tâm của bức tranh. Với nét vẽ đậm, khỏe, nhà thơ đã đặt con người vào vị trí chủ thể, đẩy lùi cảnh vật ra phía sau làm nền. Tư thế của cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và cuộc sống lao động càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Nó đem lại cho người tù hơi ấm của sự sống cùng niềm vui và hạnh phúc trước cuộc sống bình dị của những con người tuy vất vả mà tự do.

Trời sắp tối. Buổi tối là thời khắc sum họp gia đình nhưng kẻ lữ thứ là người tù vẫn chưa biết dừng chân nơi đâu. Người tù đã quên nỗi cô quạnh, u buồn của cảnh ngộ mình để chia sẻ với niềm vui nho nhỏ đời thường của người dân lao động, với bếp lửa hồng nơi xóm núi. Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật thu dần vào một điểm là lò than đỏ rực rồi tỏa hơi ấm theo âm thanh nồng đượm của chữ hồng. Chữ hồng kết thúc bài thơ thật tự nhiên mà cũng thật bất ngờ. Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái chấm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa chấm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người tù đang cất bước trên con đường xa thẳm.

Hình ảnh cô gái và bếp lửa hồng gợi tả cảnh gia đình sum họp. Thấp thoáng trong những hình ảnh ấy là ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của con người đang lưu lạc xa nhà, xa quê hương đất nước. Đấy là tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng đã vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để đồng cảm với niềm vui đời thường. Bài thơ đã vận động từ ánh chiều âm u, tăm tối đến ánh lửa rực hồng, ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Nó cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời và tình yêu thương nhân dân của một con người vĩ đại.

Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu xưa cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã đời thường), ở đây chủ yếu là gợi tả chứ không phải là miêu tả, cho nên rất cô đọng và hàm súc.

Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả vừa gợi cảm (quyện điểu, cô vân). Chữ hồng trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là con mắt của thơ (thi nhãn) hoặc là nhãn tự (chữ có mắt). Với chữ hồng, bài thơ không còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa, mà chỉ thấy màu đỏ đã ánh lên trong bóng đêm, trên thân hình và công việc quen thuộc của cô sơn nữ đáng yêu kia.

Chiều tối có vẻ đẹp giản dị mà sâu sắc. Bài thơ diễn tả phong cảnh thiên nhiên và đời sống một cách chân thật, hàm súc, đồng thời thể hiện một khía cạnh vĩ đại của tâm hồn Hồ Chí Minh Ià lòng nhân ái đạt đến độ quên mình. Người làm thơ trong tình cảnh khốn khó vẫn để tâm hồn mình hướng tới thiên nhiên cùng niềm hạnh phúc đơn sơ của con người. Vàng nào đổi được phút giây xúc động trước cảnh chiều tối như phút giây này của trái tim vĩ đại Hồ Chí Minh?!

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 9

Nguyễn Ái Quốc không chỉ là một nhà văn hóa, một anh hùng dân tộc lỗi lạc mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Người đã để lại một sự nghiệp văn chương phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách và sâu sắc về tư tưởng. Trong đó bài thơ “Mộ” là một ví dụ. Bài thơ “Mộ” (“Chiều tối”) của Nguyễn Ái Quốc thể hiện được tình yêu thiên nhiên và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không.Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

Bức tranh thiên nhiên được thể hiện trong bối cảnh không gian quen thuộc không gian rừng già mênh mông và bầu trời rộng lớn mà tác giả kiến mục trên con đường áp giải từ nhà ngục Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không.”

(“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”)

Tác giả đã sử dụng bút pháp pháp có tính chất chấm phá, điểm xuyết chứ không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ khi miêu tả thiên nhiên, cảnh vật. Hình ảnh cánh chim trong lúc hoàng hôn cho thấy điều này. Tác giả đã lấy không gian để gọi thời gian bởi hình ảnh cánh chim bay về rừng già gợi ra thời điểm chiều muộn.

Khi một ngày lao động vất vả kết thúc, cánh chim bay về rừng già tìm một chốn nghỉ ngơi. Mặt khác, tác giả đã thả hồn mình vào trong cánh chim vì thế mà cánh chim mới có tâm trạng “mỏi”. Điều này cũng tương tự như nhà thơ trên con đường dài.

“Năm mươi ba cây số một ngàyÁo mũ dầm mưa, rách hết giày”

(“Sơ đáo Thiên bảo ngục” – Hồ Chí Minh)

Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh tròn mây đơn độc chứng tỏ một tâm trạng khác của nhà thơ. Chữ “cô” trong câu văn được dịch thành “chòm” có vẻ như đã đánh mất sức biểu đạt tâm trạng. Nó không chỉ là một đám mây đơn thuần đang lững lờ trôi mà nó còn trơ trọi, cô độc trên bầu trời cao rộng. Con người cũng vậy thôi, khi đất nước còn đang nô lệ có ai lại thấy an yên, vui vầy, hạnh phúc. Với một tâm hồn yêu nước lớn lao như Hồ Chí Minh thì điều này càng khó hơn. Qua đây, ta thấy được sự hòa hợp tuyệt đối giữa con người với tiên thiên nhiên.

Hai câu thơ sau giọng thơ và hình ảnh thơ và sự thay đổi hoàn toàn. Không gian trở nên gần gũi hơn và thời gian bắt đầu về tối:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

(“Cô em xóm núi xay ngô tối,Xay hết, lò than đã rực hồng.”)

Bối cảnh chuyển về điểm nhìn của cuộc sống con người. Con người trở thành chủ thể. Hơn nữa,chủ thể ấy còn là “sơn thôn thiếu nữ” – một hình ảnh rất quen thuộc đối với con người ở vùng núi. Khoảng thời gian về tối nhưng dường như nó không gọi nên sự hiu quạnh mà bức tranh thật ấm áp với hình ảnh lò than rực hồng ánh sáng.

Ánh sáng ấy như xua tan bóng đêm, không khí lạnh, sự hiu quạnh của núi rừng mà ta bắt gặp trong 2 câu thơ trước đó. Từ “ma bao túc” lặp lại ở cuối câu thơ thứ nhất và đấu câu thơ thứ hai tạo ra một vòng tuần hoàn liên tục giống như một chuỗi nhịp điệu đều đặn của người con gái.

Cô gái bản như đang hăng say lao động vừa tràn đầy sức sống vừa tràn đầy niềm vui cống hiến. Nhãn tự “hồng” rất đặc biệt, nó thể hiện nét phong cách trong văn chương Nguyễn Ái Quốc – luôn luôn hướng về ánh sáng, về tương lai. Bếp than hồng là cảnh thực nhưng lại mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Nó biểu tượng cho cuộc đấu tranh trường kỳ của dân tộc. Bếp than âm ỉ cháy mỗi đêm và đợi đến một lúc nào đó khi thời cơ chín muồi nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa rực rỡ nhất. Nguyễn Ái Quốc gửi mọi niềm tin, sự lạc quan vào trong cuộc đấu tranh của dân tộc. Và điều này đã thực sự được chứng minh trong lịch sử sau đó.

Tóm lại, bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh có nhiều đặc sắc nghệ thuật: giàu màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại, ngôn từ phong phú giàu sức gợi, nội dung mới mẻ, diễn đạt giản dị mà sâu sắc… Qua đó tác phẩm diễn tả bức tranh thiên nhiên, bức tranh tâm trạng và bức tranh lòng người của một bậc đại trí, đại dũng. Thơ Hồ Chí Minh vẫn luôn thể hiện được niềm tin vào công lý và khát vọng Chân – Thiện – Mỹ.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh – không chỉ là một người con vĩ đại của dân tộc mà khi nhắc đến cái tên ấy trong lòng mỗi người đều có những cảm xúc riêng. Bác không chỉ là một nhà chính trị tài ba lỗi lạc, một vị cha già giàu lòng nhân ái, yêu thương mà Bác còn nhà một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Tố Hữu từng viết:

“Vần thơ của Bác vần thơ thépMà vẫn mênh mông bát ngát tình”

Thật vậy, thơ Bác là sự kết tinh tình cảm của một trái tim lớn thiết tha với dân tộc. Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ như thế, tiêu biểu cho phong cách thơ của Người. Phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh khi Bác đang bị bắt và giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo mới thấy được hết giá trị của nó.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây lơ lửng giữa tầng không”

Những buổi hoàng hôn thường mang dư vị buồn, bởi vậy, những con người xa quê mang nỗi nhớ da diết khi chiều tối lại càng thêm nhớ thêm thương. Cánh chim trên bầu trời kia sau ngày dài kiếm ăn mỏi mệt, bay nặng nề trên không trung về tổ ấm của mình để nghỉ ngơi. Chòm mây cũng nhỏ bé vô định giữa khoảng không bao la rợn ngợp. Chòm mây lơ lửng trôi nhẹ nhàng, bình yên đến vậy mà sao gợi nỗi buồn mênh mang.

Phải chăng thiên nhiên ấy đang chất chứa nỗi lòng của người tù cách mạng đang một mình đơn độc giữa núi rừng bạt ngàn nơi đây, lấy cánh chim với đám mây kia làm người bạn tâm giao gửi gắm nỗi lòng. Thiên nhiên dường như mang hồn cốt nỗi lòng của thi nhân, có khi cũng mỏi mệt đó nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là khát khao trở lại quê hương như cánh chim kia tự do bay về tổ ấm của mình sau hành trình dài mỏi mệt.

“Cô em xóm núi xay ngô tốiXay hết lò than đã rực hồng”

Nếu hai câu trên là khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, cô đơn, lẻ loi, thì hai câu cuối mang dáng dấp của sự sống con người. Bức tranh ấy được trọn vẹn và sống động hơn bao giờ hết. Cảnh vật và con người hòa quyện vào nhau. Giữa núi rừng ấy là hình ảnh người con gái xay ngô tối đầy tập trung, siêng năng, miệt mài.

Bên ánh lửa giữa bầu trời đêm, cô gái hăng say làm việc. Một bức tranh sinh hoạt bình dị, đời thường mà khoẻ khoắn, gợi nét sinh động trong đời sống nhân dân. Giữa thiên nhiên bao la, cô em trở nên nổi bật và hấp dẫn lạ thường. Phải chăng đó là niềm mong ước của Bác gửi gắm vào những vần thơ về niềm tin vào một ngày đất nước hoà bình, nhân dân được bình yên, tự do lao động, tăng giá sản xuất chẳng còn nỗi lo mất nước.

“Xay hết lò than đã rực hồng”

Chữ “hồng” trở thành nhãn tự của bài thơ, chỉ một từ thôi mà nó chất chứa bao nhiêu ý nghĩa. Ánh than hồng xua tan đi màn đêm giá lạnh, xua tan nỗi cô độc của người tù nhân chốn xa xôi. Ánh than hồng là ánh sáng của cách mạng, là niềm tin vào tương lai, ánh than hồng chất chứa niềm hy vọng, sưởi ấm, thắp lên ngọn lửa tin yêu, lòng yêu nước thiết tha, hướng về sự sống, về ngày mai tốt đẹp. Ánh than hồng thật ấm áp, thân thương như tấm lòng Bác vậy.

Bài thơ chỉ bốn câu thôi mà sao nhiều ý vị đến vậy. Từ trong gông cùm, trong đau thương nhọc nhằn, Bác vẫn không hề bi quan, chán nản mà trái lại rất lạc quan, luôn hướng đến niềm vui, hướng đến sự sống với bao hy vọng. Bác không ngại vất vả gian nan, quên đi đau khổ của thực tại mà viết nên những vần thơ quá đỗi đẹp đẽ và thương yêu.

Nếu trong văn chính luận, văn phong Bác sắc sảo, chắc chắn, giàu sức thuyết phục với những lý lẽ chính xác, khách quan thì trong thơ Bác lay động lòng người bởi sự bình dị mà sâu sắc. Sự kết hợp vô cùng nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và nét hiện đại giúp thơ Bác mang một phong cách riêng, độc đáo, tài hoa.

Đọc bài thơ “Chiều tối”, em càng thêm khâm phục Bác, càng trân quý tự do và hoà bình hôm nay. Và tự hứa với lòng, dù trong khó khăn thử thách của cuộc sống vẫn không nản chí, giữ vững tinh thần lạc quan và niềm tin tất thắng ngày ngày phấn đấu nỗ lực hơn để xứng đáng là thế hệ trẻ bản lĩnh, tài năng như cách sống của Người.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 11

Chiều tối” là bài thơ ra đời trong khoảng thời gian đầu khi bác ở trong tù. Cũng trong thời gian đầu ấy, đã có nhiều bài thơ Bác ghi lại ảnh “trên đường”chuyển lao (“Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết ngày”). Mới đến nhà lao Thiên Bảo) và bài này cũng nằm trong mạch các bài thơ “Đi đường”ấy. Bài thơ thể hiện một phong cách nghệ thuật nhất quán là sự thống nhất trong đa dạng của tập “Nhật kí trong tù”.Đó chính là sự vận động của hình tượng thơ, trong thơ Bác bao giờ cũng từ bóng tối hướng ra ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Điều này cũng được thể hiện rõ trong bài thơ “Chiều tối “.

Trong bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng xa lạ có gì như thoáng buồn ẩn chứa những liên tưởng mơ hồ:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây lơ lửng giữa tầng không)

Câu thơ mang màu sắc của cổ thi bởi bút pháp miêu tả chấm phá và những thi liệu quen thuộc của thơ cổ xưa. Không nói đến thời gian chính xác nhưng hình ảnh “cánh chim”đủ sức diễn tả không gian còn mang ý nghĩa thời gian. Hai câu đầu diễn tả cảnh vật trong một buổi chiều tối. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất minh hoạ vừa nhớ đến tứ thơ quen thuộc của thi ca cổ điển. Sự mệt mỏi của cánh chim sự cô đơn của đám mây chiều là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù tha phương. Trong lúc mệt mỏi ấy người tù vẫn dành cho thiên nhiên một tình yêu lớn, người đã vẽ lên bức tranh đẹp và đậm chất cổ điển. Đó là biểu tượng của một buổi chiều tà, một chiều thu êm ả nhưng cảnh vật thoáng vẻ buồn, mệt mỏi và đơn chiếc.

Cảnh ấy có sự hài hoà với lòng người. Rõ ràng đó chính là sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm trạng con người được thể hiện khá đậm nét. Song hình tượng thơ không dừng lại ở đó mà có sự vận động rất độc đáo. Từ một bức tranh thiên nhiên, lời thơ đã chuyển sang một bức tranh sinh hoạt bình dị.

Thời gian từ chiều muộn đã chuyển sang chiều tối. Cảm xúc của con người không còn thoáng buồn nữa mà đã thấy vui. Không gian cũng bừng sáng lên màu đỏ “rực hồng” của lò than:

Cô em xóm núi xay ngô tốiXay hết lò than đã rực hồng.

Hình ảnh cô gái xay ngô tối trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ, toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh sống động. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn: “Ma bao túc”,”bao túc ma” hành động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng kì diệu chính là ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà vào nhịp điệu trong cuộc sống. Buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, song đêm tối không lẽo âm u mà bừng sáng bằng ngọn lửa hồng.

Từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ “Chiều tối” là sự vận động của tứ thơ từ nỗi buồn sang niềm lạc quan, từ bóng tối ra ánh sáng. Hai câu trên cảnh buồn và lòng cũng không vui. Cảnh ấy, tình ấy thể hiện ở hình ảnh cánh chim mỏi mệt về rừng và chòm mây cô đơn chầm chậm trôi qua lưng trời. Hai câu thơ lại là một niềm vui thể hiện ở hình ảnh ánh lửa hồng bỗng rực sáng lên.Ánh lửa hồng là niềm vui của con người làm tan đi cái cô đơn, mệt mỏi tàn lụi của buổi chiều nơi núi rừng hiu quạnh. Đó cũng chính là nét cổ điển nhưng vẫn khá hiện đại của bài thơ.

Sự vận động của hình tượng thơ từ thiên nhiên quạnh vắng đến con người lao động, đến sự sống đến ánh sáng và tương lai được thể hiện hết sức tự nhiên, giàu cảm xúc. Sự vận động này trong tư tưởng Hồ Chí Minh nằm xuyên suốt trong các bài thơ của tập “Nhật kí trong tù”.

Bài thơ kết lại bằng chữ “hồng “chính là nhãn tự của bài thơ thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ”hồng”đó. Nó thể hiện niềm tin tưởng ý chí, nghị lực kiên cường của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh của ngọn lửa hồng mang lại cho người đọc cảm giác ấm áp và niềm vui. Ngọn lửa của sự sống vẫn còn lung linh tươi sáng và sưởi ấm mãi muôn đời.

Bài thơ vừa mang phong vị cổ điển vừa có phẩm chất hiện đại, dào dạt cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên và những con người lao động bình dị mà cao đẹp. Cảnh chiều tà vùng sơn cước trong cái nhìn của người tù trên đường lưu đày sự chuyển đổi của thời gian, cảnh vật…. đã làm cho bức tranh “chiều tối”không kết thúc với bóng đêm u tối, với cái buốt lạnh của núi rừng mà ấm sáng bởi ngọn lửa hồng – ngọn lửa của một trái tim, một tấm lòng yêu sự sống, yêu đời, yêu đất nước và lòng thương người vô hạn.

Phân tích bài thơ Chiều tối – Mẫu 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người chiến sĩ quốc tế luôn mang trong mình tình yêu quê hương đất nước và khát khao giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác dành cho sự nghiệp cách mạng không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Cảm hứng thi sĩ đến bất cứ lúc nào với người chiến sĩ cộng sản dù cho khi bị giam bắt, tù đày nhưng không thể giam cầm được tâm hồn của Người. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm được sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của Hồ Chí Minh.

Vào tháng 8 năm 1942 Bác sang Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, sau nửa tháng đi bộ đến Túc Vinh tỉnh Quảng Tây và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt mười ba tháng, những tháng ngày bị tù đày ấy Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” bằng chữ Hán với số lượng 134 bài. Trong đó bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 khi Người bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo năm 1942. Trong khoảnh khắc chiều tà mênh mông cùng với tâm hồn thi nhân đã tạo cảm hứng để người tù sáng tác gửi gắm vào thơ ca tâm trạng, tình cảm của mình. Nổi lên trong bài thơ là hình ảnh thiên nhiên và con người lao động nơi đất khách quê người.

“Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng mang đậm chất cổ điển của thi pháp phương Đông Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều đã về. Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng Giang” của Huy Cận là hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”. Từ “quyện” trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, là định ngữ cho danh từ “điểu”, được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “Chim mỏi”. Nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời. Trong khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của mình. Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng. Đối lập là nếu con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm. Tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.

Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Tuy nhiên mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người khách băn khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột tả được ý nghĩa của từ “cô”. Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám mây đã từng xuất hiện trong thơ Lý Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời cao.

Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật. Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc được tâm hồn thi nhân.

Trên nền cảnh của thiên nhiên hình ảnh con người bỗng hiện lên trong thơ Bác. Con người ở đây là thiếu nữ đang lao động giữa chốn núi rừng mênh mông như một điểm sáng làm cho bức tranh đời sống trở nên có hồn có thần sắc vui tươi hơn:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túcBao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tốiXay hết lò than đã rực hồng)

Hình ảnh con người và cuộc sống được nối tiếp hiện lên qua hai câu thơ. Thiếu nữ ở đây là người con gái (bé gái) trong lứa tuổi dưới thanh nữ chứ không phải như bao bài phân tích khác là cô gái. Hình ảnh bé gái đang xay ngô trong đêm tối là để hô ứng với cánh chim cô đơn, lẻ loi bên trên cô độc đối diện với cối xay. Ngòi bút của Bác hướng đến sự vận động của con người. Đây là một nét hiện đại, mới mẻ trong thơ Hồ Chí Minh. Thiếu nữ miền sơn cước toát giữa núi rừng mênh mông không những không bị hòa tan với thiên nhiên mà nổi bật chói lòa trong không gian ấy. Không giống như những bài phân tích khác tôi nhận thấy qua cấu trúc liên miên đối ở các từ “ma bao túc” câu trên và “bao túc ma hoàn” câu dưới cho thấy con người ở đây đang phải lao động vất vả, nặng nề, triền miên, kéo dài trong đêm. Trong mạch vận động của của thời gian ở nguyên tác không hề nhắc đến chữ “tối” nhưng với bản dịch thơ người dịch cho thêm vào làm mất đi sự thú vị của ý thơ, khiến cho câu thơ mất đi nét đẹp của ý tại ngôn ngoại không cần nhắc đến nhưng vẫn hiện ra là một đêm tối bao phủ. Trong câu thơ “Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” theo tôi đó là sự nối tiếp công việc, kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới, nhà thơ đã dùng hình ảnh bếp lửa được đốt lên để nói sự vận động của thời gian. Từ xưa nay đa số mọi người đều hiểu theo nghĩa là hồng tính từ, làm sáng rực lên hình ảnh con người trong đêm nhưng theo nguyên tác chữ Hán đó hồng của động từ mang ý nghĩa hành động là đốt để đối với từ “ma” (xay). Đây là hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán, nếu không cẩn thận tìm hiểu sẽ khiến cho mọi người nhầm lẫn với ý nghĩa khác. Qua hình ảnh con người trong đêm cho thấy cuộc sống nơi đây cơ cực, khó khăn khiến cho tác giả đồng cảm, đồng điệu. Bác đã dùng vòng xoay của cối xay để nói lên tâm trạng nặng nề của mình, dùng hình ảnh bé gái để nói lên cảm nhận cuộc sống. Nam Cao đã từng viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” nhưng đối với Hồ Chí Minh thì đi ngược lại với điều đó. Bác là một con người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến vô cùng không chỉ là đối với nhân dân Việt Nam mà còn là biết bao những con người cơ cực trên hành tinh này. Đúng như Tố Hữu đã từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”.

Bài thơ là thành công của nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và sự cách tân hiện đại trong ý thơ. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được coi là nhãn tự, là con mắt thần của tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc được Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối”. Đồng thời chữ “hồng” ấy cũng thể hiện cho niềm tin, hy vọng của Bác vào một tương lai tươi sáng ở ngày mai, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng. Dù ở trong hoàn cảnh ngục từ nhưng con người ấy không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, số phận. Trong thơ Hồ Chí Minh luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ hồng được xuất hiện rất nhiều lần như trong bài “Tảo giải” hiện lên: “Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn sớm sạch không” hay có câu Bác viết: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” đó là sự lạc quan, niềm tin của Bác vào con đường cách mạng nước nhà, vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.

Như vậy chỉ với 28 câu thơ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ với trái tim thép người chiến sĩ, bài thơ đã làm xúc động người đọc trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống và sự cảm thông, thương yêu con người của vị cha già dân tộc. Con người Bác là tấm gương sáng để cho biết bao thế hệ đồng bào Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

chieu-toi.jsp

Các loạt bài lớp 11 khác