3. 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu CNXHKH.
3. 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu CNXHKH.
a. Về mặt lý luận:
Hoàn chỉnh việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin:
– Nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin là phải chú ý cả ba bộ phận hợp thánh nó. Nếu không chú ý nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển CNXH KH sẽ làm cho triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị Mác – Lênin dễ chệch hướng chính trị – xã hội, trước hết và chủ yếu là chệch hướng bản chất, mục tiêu là CNXH, CNCS, giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Trang bị những nhận thức chính trị – xã hội:
– Nghiên cứu, học tập CNXH KH có ý nghĩa trang bị những nhận thức chính trị – xã hội và phương pháp luận khoa học cho Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trình bảo vệ và xây dựng CNXH.
– Có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về CNXH: để có niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh cách mạng; để vận dụng sáng tạo và phát triển đúng đắn lý luận về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
– Trí thức, thế hệ trẻ là lực lượng xã hội có nhiều trí tuệ, nhiều khả năng và tâm huyết trong quá trình xây dựng CNXH. Nếu chỉ thuần túy chú trọng về khoa học và công nghệ, phi chính trị, hay mơ hồ về chính trị thì khó có thể đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Định hướng chính trị – xã hội:
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học góp phần định hướng chính trị – xã hội cho hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân trên mọi lĩnh vực, cho sự ổn định và phát triển của xã hội luôn đúng với bản chất, mục tiêu của CNXH, CNCS; tức là qua từng nấc thang phát triển, tính chất XHCN, CSCN của mọi lĩnh vực của xã hội thể hiện ngày càng rõ hơn và hoàn thiện hơn.
Đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch về CNXH:
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng làm cho ta có căn cứ nhận thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với Đảng, Nhà nước, chế độ ta; chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân tộc và nhân loại tiến bộ.
b. Về mặt thực tiễn:
Nghiên cứu, học tập CNXH KH giúp chúng ta nhận thấy khoảng cách nhất định giữa lý luận với thực tiễn.
Bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc biệt là các khoa học xã hội, bao giờ cũng có khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất là những dự báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học lại càng thấy rõ những khoảng cách đó. Trên thực tế, chưa có nước nào xây dựng hoàn chỉnh CNXH. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cùng với thoái trào của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, lòng tin vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin của nhiều người có giảm sút.
Vì thế, nghiên cứu, học tập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học càng khó khăn trong tình hình hiện nay và cũng có ý nghĩa chính trị cấp bách.
Chỉ có bản lĩnh vững vàng và sự sáng suốt, kiên định chủ động sáng tạo tìm ra những nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ và của những thành tựu to lớn trước đây cũng như của những thành quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới có thể đi tới kết luận chuẩn xác rằng: không phải do chủ nghĩa xã hội – một xu thế xã hội hoá mọi mặt của nhân loại; cũng không phải do chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học… làm các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng.
Trái lại, chính là do các nước xã hội chủ nghĩa đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin… đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đó có chủ nghĩa tư bản; đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội trong một số đảng cộng sản và sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.
Thấy rõ thực chất những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học; đồng thời được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp tục sự iệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng XHCN.
Chủ nghĩa xã hội khoa học góp phần quan trọng việc giáo dục niềm tin khoa học cho nhân dân vào mục tiêu, lý tưởng XHCN và con đường đi lên CNXH.
Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức khoa học, thông qua giáo dục, hoạt động thực tiễn mà niềm tin được hình thành, phát triển. Niềm tin khoa học là sự thống nhất giữa nhận thức, tình cảm, ý chí và quyết tâm trở thành động lực tinh thần hướng con người đến hoạt động thực tiễn một cách chủ động, tự giác, sáng tạo và cách mạng.