20 năm phát triển công nghệ thông tin và triển vọng đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam
Ông Nguyễn Thiện Nhân – Ảnh: TỰ TRUNG
Tuổi Trẻ Online xin giới thiệu toàn văn bài viết.
I. 20 năm phát triển vượt bậc của công nghiệp công nghệ thông tin: Hội tụ công nghệ, trí tuệ người Việt, đầu tư nước ngoài và sự ra đời của ngành kinh tế lớn nhất, có mức tăng trưởng và năng suất lao động cao nhất Việt Nam.
Trước năm 2000, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, viễn thông ở Việt Nam được thống kê riêng. Tuy nhiên, 20 năm qua là quá trình tích hợp, hội tụ của 3 lĩnh vực này ngày càng sâu sắc, giờ đây được coi là ngành công nghiệp điện tử – công nghệ thông tin – truyền thông (gọi tắt là công nghiệp CNTT – TT).
Năm 2000, đóng góp của công nghiệp CNTT – TT chỉ khoảng 0,5% GDP của Việt Nam, với doanh thu 300 triệu USD và số lao động chỉ chiếm khoảng 0,11% tổng số lao động của Việt Nam. Ngành công nghiệp CNTT – TT được coi là ngành kinh tế (cấp 2) nhỏ, thua kém các ngành khác như nông nghiệp, dầu khí, thương mại, xây dựng.
Tuy nhiên sau 20 năm, công nghiệp CNTT-TT đã có bước phát triển nhảy vọt:
• Doanh thu vào năm 2019 là 120 tỉ USD, gấp 400 lần năm 2000, tương ứng mức tăng trưởng bình quân 37%/năm trong suốt 19 năm.
• Số lao động là 1.030.000 người, gấp 20 lần năm 2000, chiếm 1,88% tổng số lao động Việt Nam.
• Năng suất lao động gấp 7,6 lần năng suất lao động bình quân cả nước.
• Đóng góp 14,3% vào GDP của Việt Nam, gấp 28 lần năm 2000 (0,5% GDP).
• Xuất khẩu giá trị 89,2 tỉ USD, chiếm 33,7% xuất khẩu của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu 1 lao động tạo ra 1 năm gấp 18 lần bình quân cả nước.
Như vậy, từ chỗ là một ngành công nghiệp nhỏ bé của Việt Nam vào năm 2000, sau 20 năm công nghiệp CNTT – TT đã trở thành ngành kinh tế (cấp 2) lớn nhất Việt Nam, có mức tăng trưởng cao nhất, có năng suất lao động cao nhất và giá trị xuất khẩu lớn nhất (bảng 1).
Bảng 1: Lao động và đóng góp của một số ngành kinh tế Việt Nam vào GDP năm 2019 [2], [4].
Ngành
Lao động
(triệu
người)
Đóng góp Vào
GDP
NSLĐ
so với
NSLĐ
bình quân Việt Nam
NSLĐ của Công
nghiệp
CNTT-TT
so với các
ngành khác
I. Ngành cấp 2:
1. Thương mại
2. Xây dựng
3. Du lịch, ăn uống
4. Giáo dục Đào tạo
5. Vận tải – kho bãi
6. Công nghệ TT-TT
7. Y tế, chăm sóc sức khỏe
7,28
4,6
2,7
1,98
1,97
1,03
0,612
11,16%
5,94%
3,8%
3,82%
2,78%
14,3%
2,77%
83,8%
70,7%
75,8%
105,2%
77,2%
760%
247%
9 lần
10 lần
9,8 lần
7 lần
9,8 lần
–
3 lần
II. Ngành cấp 1:
1. Nông Lâm Ngư nghiệp
18,8
13,96%
40,58%
18,7 lần
III. Nền kinh tế Việt Nam:
54,66
100%
–
7,6 lần
Qua bảng 1, ta nhận thấy:
• Lao động của ngành CNTT – TT chỉ là 1,03 triệu người, thấp hơn 5 ngành cấp 2 khác nhưng đóng góp vào GDP của Việt Nam là lớn nhất (14,3%). Ngành nông lâm ngư nghiệp – ngành kinh tế cấp 1 với 18,8 triệu lao động – đóng góp 13,96% GDP, thấp hơn ngành CNTT – TT.
Chính nhờ năng suất lao động của ngành CNTT – TT gấp 7,6 lần năng suất lao động bình quân của cả nước, gấp gần 19 lần năng suất lao động ngành nông nghiệp mà ngành CNTT – TT trở ngành kinh tế (cấp 2) lớn nhất Việt Nam dù chỉ sử dụng 1,03 triệu lao động.
• Giá trị đóng góp của ngành CNTT – TT vào GDP cũng còn lớn hơn tổng giá trị đóng góp của 4 ngành du lịch, giáo dục và đào tạo, vận tải kho bãi và y tế là 13,7% GDP với tổng số lao động là 7,26 triệu người.
Tức là, do năng suất cao gấp 7,6 lần năng suất lao động bình quân cả nước mà 1 triệu lao động CNTT – TT đóng góp vào GDP nhiều hơn 7,28 triệu lao động ngành thương mại, 7,26 triệu lao động của 4 ngành du lịch, giáo dục và đào tạo, y tế và vận tải kho bãi, 18,8 triệu lao động của ngành nông lâm ngư nghiệp và hơn gấp 2 lần đóng góp của 4,6 triệu lao động ngành xây dựng.
Nếu có thể tăng gấp hai lần số lao động ngành CNTT – TT (lên 2 triệu người) thì đóng góp của ngành CNTT – TT có thể đạt gần 30% GDP. Đây chính là triển vọng vô cùng to lớn để tăng trưởng kinh tế bằng năng suất lao động cao dựa trên ngành CNTT – TT.
Năm 2019, xuất khẩu của Việt Nam đạt 264,2 tỉ USD, trong đó xuất khẩu điện thoại, máy vi tính, sản phẩm điện tử là 89,2 tỉ USD; dệt may là 32,85 tỉ USD; giày dép là 18,32 tỉ USD; máy móc, thiết bị khác là 18,3 tỉ USD; nông sản là 16,91 tỉ USD; gỗ và các sản phẩm gỗ là 10,6 tỉ USD. Như vậy, ngành CNTT – TT có giá trị xuất khẩu lớn nhất cả nước, gấp 2,7 lần ngành hàng thứ 2 là dệt may.
Vì sao công nghiệp CNTT-TT của Việt Nam có thể phát triển vượt bậc như vậy? Theo tôi, có một số nguyên nhân chính sau:
1. Nhân lực của Việt Nam cần cù, chịu khó, có trình độ đào tạo cơ bản (trung học phổ thông) tốt. Xếp hạng đánh giá học sinh trung học cơ sở của Việt Nam do quốc tế thực hiện năm 2012 và 2018 ở 3 lĩnh vực – đọc hiểu, khoa học và toán – học sinh ở Việt Nam luôn nằm trong tốp 10 nước cao nhất thế giới (đánh giá PISA).
Đào tạo đại học của Việt Nam cũng có nền tảng cơ bản tốt, còn hạn chế về thực hành. Qua thực tế và huấn luyện bổ sung, đội ngũ kỹ sư Việt Nam làm ở các doanh nghiệp đều nhanh chóng làm chủ các công nghệ tiên tiến.
2. Năng lực toán học của học sinh và sinh viên Việt Nam nhìn chung thuộc nhóm trên trung bình. Các cuộc thi toán quốc tế, đội tuyển Việt Nam thường nằm trong 10 nước có kết quả cao nhất thế giới. Qua 10 năm thực hiện “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học giai đoạn 2010 – 2020”, toán học Việt Nam có số công trình khoa học được công bố năm 2019 gấp 2,5 lần năm 2010, xếp hạng từ thứ 55 trên thế giới năm 2010 đã tăng lên thứ 35 – 40 năm 2019, đứng đầu ASEAN từ 2014.
3. Do GDP đầu người của Việt Nam thấp (thu nhập trung bình thấp) nên chi phí lao động ở Việt Nam thấp so với các nước có thu nhập cao (trên 15.000USD/người/năm) thường là từ 6 đến 10 lần. Đây là điều rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
4. Nhân lực Việt Nam dồi dào, cả ngắn hạn và dài hạn. Với dân số gần 100 triệu người, tỉ suất sinh đạt mức thay thế 20 năm liên tục 2000 – 2020 (bình quân xấp xỉ 2,1 con/1 phụ nữ) và với chính sách dân số mới của Việt Nam từ 2015, duy trì tỉ suất sinh thay thế lâu dài, thì nhiều khả năng Việt Nam có thể duy trì tỉ suất sinh thay thế hơn 10 năm nữa. Tức là, Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có cơ cấu dân số vàng liên tục 30 năm.
5. Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện theo thông lệ quốc tế, môi trường kinh doanh được cải thiện, đối thoại và Chính phủ điện tử ngày càng phát huy tác dụng.
6. Cước phí viễn thông nói chung, đặc biệt là Internet băng rộng cố định của Việt Nam, là rẻ nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương [3].
7. Xã hội Việt Nam ổn định, suốt 45 năm qua (1975 – 2020) không có biến động xã hội theo hướng bất ổn, xung đột chính trị, tôn giáo, dân chủ ngày càng được phát huy, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, uy tín Việt Nam được nâng cao, chương trình xóa đói, giảm nghèo được kết quả quan trọng.
8. Việt Nam nằm ở châu Á, khu vực có dân số lớn nhất thế giới (hơn 4,4 tỉ người, chiếm 58% dân số thế giới), có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất so với các châu lục khác, kết nối giao thông đường thủy và hàng không thuận lợi với thế giới.
Từ các lợi thế trên, Việt Nam đã thu hút được ngày càng nhiều các nhà đầu tư từ các nước, trong đó có lĩnh vực công nghiệp điện tử, CNTT, viễn thông. Ví dụ: Công ty Intel đã đầu tư 1,5 tỉ USD, Công ty LG 1,5 tỉ USD, Microsoft đầu tư hơn 300 triệu USD, Samsung đầu tư 14,8 tỉ USD. Tổng cộng đầu tư nước ngoài ở ngành CNTT-TT trên 20 tỉ USD.
Như vậy, với khoảng 1 triệu lao động trong ngành CNTT – TT năm 2019, giá trị đầu tư nước ngoài trên 1 lao động là khoảng: 20.000 USD/người lao động.
Trong toàn bộ các ngành kinh tế, không kể nông nghiệp và ngành CNTT – TT, tổng đầu tư nước ngoài thực hiện là 133 tỉ USD [3], [4]. So với tổng số lao động trong các ngành có đầu tư nước ngoài (không kể nông nghiệp, CNTT – TT, lao động là công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, lao động trong tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội) năm 2019 là 31 triệu người, thì giá trị đầu tư nước ngoài bình quân 1 lao động là khoảng 4.300 USD/lao động.
Tức là suất đầu tư nước ngoài trên 1 lao động ngành CNTT – TT gấp 4,65 lần suất đầu tư nước ngoài trên 1 lao động của các ngành kinh tế khác (không tính nông nghiệp). Với suất đầu tư cao như vậy, các doanh nghiệp CNTT – TT có các thiết bị công nghệ tiên tiến, sản xuất chủ yếu tự động hóa, do đó năng suất lao động cao.
Tóm lại, lý do vì sao năng suất lao động của ngành CNTT – TT ở Việt Nam cao gấp 7,6 lần năng suất lao động của cả nước và ngành đóng góp 14,3% GDP Việt Nam là:
• Lao động được chọn lọc, trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên.
• Đầu tư nước ngoài rất lớn. Suất đầu tư nước ngoài tính cho 1 lao động là 20.000 USD, cao gấp 4,65 lần bình quân các ngành khác.
• Đội ngũ doanh nhân trẻ, kỹ sư Việt Nam quyết tâm, năng động, sáng tạo, làm chủ nhanh công nghệ mới.
• 1 triệu lao động CNTT – TT (chiếm 1,88% lao động Việt Nam).
Năng suất lao động gấp 7,6 lần bình quân cả nước.
Đóng góp 14,3% GDP Việt Nam.
II. Cách mạng công nghiệp 4.0 và trí tuệ nhân tạo – thời cơ lớn nhất của thời đại trong việc đột phá tăng năng suất lao động và thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế và xã hội.
Từ thực tế phát triển (không đồng đều) của nhân loại, các nhà khoa học gọi sự phát triển của nhân loại từ năm 1760 đến nay là thời kỳ các cuộc cách mạng công nghiệp, khởi đầu từ nước Anh giữa thế kỷ 18. Các cuộc cách mạng công nghiệp:
– Đã dựa trên các thành tựu về khoa học, công nghệ tương ứng (tri thức) với trình độ ngày một nâng cao, sự ứng dụng các khoa học và công nghệ để tạo ra:
• Vật liệu mới
• Công cụ mới (thay thế và bổ sung cho bàn tay con người, sức cơ bắp con người, các giác quan con người, khả năng suy nghĩ của con người)
• Phương pháp, công nghệ mới
• Nguồn năng lượng mới được sử dụng.
– Từ đó tạo ra:
• Thiết bị máy móc và các hệ thống sản xuất mới
• Hệ thống thương mại, dịch vụ
• Hệ thống vận tải
• Hệ thống thông tin liên lạc
Dẫn đến:
• Năng suất lao động xã hội tăng
• Của cải tích lũy tăng (các hệ thống hạ tầng kĩ thuật và xã hội, tài sản cá nhân)
• Quá trình toàn cầu hóa ngày càng mở rộng
• Thay đổi trong môi trường làm việc
• Hệ thống ngân hàng, tài chính
• Hệ thống giáo dục
• Hệ thống y tế
• Hệ thống xử lý chất thải
• Hệ thống năng lượng quốc gia
• Thay đổi trong đời sống gia đình
• Thay đổi quan hệ xã hội
• Thay đổi môi trường tự nhiên
• Biến đổi khí hậu.
– Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1, từ năm 1760 đến khoảng 1870, về mặt khoa học chủ yếu là dựa trên các thành tựu về vật lý, hóa học, tạo ra sắt, thép với quy mô lớn và năng suất cao, máy hơi nước, máy dệt, xe lửa, tàu thủy chạy bằng máy hơi nước, thúc đẩy hệ thống giáo dục, y tế phát triển, ra đời các ngân hàng.
Về mặt kỹ thuật, có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 1 là “Giai đoạn cơ khí hóa”, kéo dài khoảng 110 năm.
– Cách mạng công nghiệp lần thứ 2, từ 1870 đến 1945, về mặt khoa học chủ yếu dựa trên các thành tựu về vật lý (vật lý điện tử, nhiệt động học), hóa học (hóa dầu), gia công cơ khí chính xác, tạo ra động cơ đốt trong, động cơ điện, nhà máy điện, hệ thống truyền tải điện, khai thác dầu, khí, công nghiệp ôtô, máy bay, xe lửa điện, điện tín và điện thoại, tên lửa, tàu ngầm, sản xuất hàng loạt.
Về mặt kỹ thuật, có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là “Giai đoạn điện khí hóa”, kéo dài khoảng 75 năm (các khoa học và ứng dụng gắn với cơ khí hóa vẫn tiếp tục phát triển).
– Cách mạng công nghiệp lần thứ 3, từ 1945 đến 2010, về mặt khoa học dựa trên thành tựu của nhiều ngành khoa học: vật lý (bán dẫn, lase, hạt nhân, lượng tử), hóa học (vô cơ, hữu cơ, hóa sinh, na nô), sinh học (công nghệ gen), thiên văn học, khoa học vũ trụ, khoa học sức khỏe, toán học, khoa học kinh tế, tạo ra các thiết bị vi điện tử, lase, máy tính điện tử, Internet, hệ thống điều khiển tự động, người máy, tàu vũ trụ, tầu ngầm hạt nhân và nhà máy điện hạt nhân, vật liệu na nô, điện gió, điện mặt trời…
Về mặt kỹ thuật, có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 3 là “Giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và Internet”, kéo dài khoảng 65 năm (các khoa học và ứng dụng gắn với điện khí hóa vẫn tiếp tục phát triển).
– Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 – từ 2010, chưa biết bao giờ kết thúc và chuyển sang cách mạng công nghiệp lần thứ 5. Có thể dự báo kết thúc khoảng 2065 – 2070 (kéo dài khoảng 55 – 60 năm).
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, 4.0, về khoa học dựa trên tất cả các ngành khoa học và ứng dụng khoa học gắn với quá trình cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa – tin học hóa và Internet (đã diễn ra trong 250 năm 1760 – 2010), đồng thời dựa trên các lĩnh vực khoa học mới như: quang lượng tử, vật lý hạt nhân; giải mã và biến đổi gen; ngôn ngữ học; trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây, dữ liệu lớn; chuỗi khối; Internet vạn vật… từ đó tạo ra các thiết bị thông minh được nhúng trí tuệ nhân tạo, có thể tự động kết nối với nhau, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để điều khiển các hoạt động của thiết bị.
Các thiết bị, máy móc được trang bị cảm biến ánh sáng, nhiệt độ, âm thanh, hóa chất, camera với bộ nhớ lớn, từ đó các thiết bị, máy móc có thể nhận dạng môi trường xung quanh, có thể nhận ra các quan hệ nhân quả, có thể học (học máy), từ đó có thể tác động trở lại môi trường, người đang giao tiếp một cách tối ưu (theo mục tiêu đã được đặt ra).
Ôtô không người lái, máy bay không người lái, dịch tự động các ngôn ngữ, thiết bị hiểu tiếng nói, hoạt động theo lệnh lời nói và trả lời bằng lời nói và công nghệ in 3 chiều (3D) là một số sản phẩm tiêu biểu của giai đoạn đầu Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (2010 – 2020).
Các doanh nghiệp sử dụng các công nghệ mới của giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có khả năng cung cấp các giải pháp mới cho nhu cầu của các ngành kinh tế và toàn xã hội, phục vụ người dân một cách hiệu quả cao, từ đó có lợi nhuận lớn và phát triển rất nhanh.
Bảng 2 cho thấy 10 doanh nghiệp có doanh số lớn nhất toàn cầu ở 2 thời điểm năm 2006 và 2016.
Bảng 2: 10 công ty có doanh thu lớn nhất thế giới 2006 và 2016 [5]
Năm 2006
Năm 2016
Tên Công ty
Doanh thu (Tỉ USD)
Tên Công ty
Doanh thu (Tỉ USD)
1. Exxon Mobill (dầu khí)
320
1. Apple (công nghệ)
590
2. GE (công nghệ: ôtô, cơ khí, điện tử)
230
2. Google (công nghệ)
560
3. GAZ Prom (dầu khí)
205
3. Microsoft (công nghệ)
530
4. Microsoft (công nghệ)
200
4. Berkshire Hathaway (tài chính)
513
5. City Group (ngân hàng)
195
5. Exxon Mobill (dầu khí)
500
6. Bank of America (ngân hàng)
195
6. Amazon (công nghệ)
490
7. Royal Dutch Shell (dầu khí)
195
7. Facebook (công nghệ)
475
7. Royal Dutch Shell (dầu khí)
195
7. Facebook (công nghệ)
475
8. BP (dầu khí)
192
8. Johnson & Johnson (CN, dược)
460
9. Petro China (dầu khí)
185
9. GE (công nghệ)
440
10. HSBC (ngân hàng)
185
10. China Mobill (công nghệ)
420
5 công ty dầu khí, 3 ngân hàng, 2 công ty công nghệ
8 công ty công nghệ, 1 công ty tài chính, 1 công ty dầu khí
Như vậy, chỉ trong 10 năm, 2006 (trước 2010) và 2016 (sau 2010), các công ty dựa trên công nghệ mới đã chiếm 8/10 công ty có doanh thu lớn nhất thế giới, trong khi 2006 có tới 8/10 công ty dầu khí, ngân hàng là các công ty có doanh thu lớn nhất.
Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), theo dự báo của các tổ chức tư vấn quốc tế, sẽ đem lại gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành nghề và kéo theo tăng tỉ suất lợi nhuận so với trường hợp không ứng dụng trí tuệ nhân tạo (bảng 3).
Việc gia tăng tỉ suất lợi nhuận do áp dụng trí tuệ nhân tạo từ 6% đến 21% là rất đáng kể với các doanh nghiệp, là thời cơ để các doanh nghiệp cạnh tranh, mở rộng thị phần, tăng trưởng nhanh hơn. Ngược lại, các doanh nghiệp không áp dụng trí tuệ nhân tạo sẽ mất dần năng lực cạnh tranh, nguy cơ bị đào thải khỏi thị trường.
Có thể nói, việc ứng dụng rộng rãi, triệt để trí tuệ nhân tạo sẽ tạo nên đột phá về tăng năng suất lao động ở tất cả các lĩnh vực và vì thế mà tăng năng suất lao động toàn xã hội.
Bảng 3: Dự báo mức gia tăng tỉ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp ở các ngành khi áp dụng trí tuệ nhân tạo có bài bản, so với khi không áp dụng trí tuệ nhân tạo (Mckinsey Global Institute)
Các ứng dụng các công nghệ 4.0 mới trải qua 10 năm đầu tiên trong chu kỳ phát triển khoảng 55 – 60 năm, do đó còn quá sớm để nhận ra đầy đủ các công nghệ tạo đột phá cho phát triển cho giai đoạn này.
Tuy nhiên. đến nay một số nghiên cứu nhận định rằng: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó có vai trò đặc biệt của trí tuệ nhân tạo, sẽ tạo ra mức tăng năng suất lớn hơn mức tăng năng suất của tất cả 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước đó đem lại trong 250 năm.
Về mặt kỹ thuật, có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là “Giai đoạn phổ cập trí tuệ nhân tạo”. Đây chính là thời cơ phát triển vượt bậc cho các nước, các doanh nghiệp sớm có chiến lược nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo thực sự hiệu quả và là nguy cơ tụt hậu, thua cuộc trong cạnh tranh của các nước, các doanh nghiệp không nhận thức đúng về vai trò của nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
III. Thời cơ và triển vọng đột phá về tăng năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 2020 – 2045
Trong 50 nước đã công bố chiến lược phát triển trí tuệ nhân tạo, có 7 nước thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp (2020): Pakistan (GDP/người 1.482 USD), Ấn Độ (1.877 USD), Kenya (2.075 USD), Tunisia (3.295 USD), Philippines (3.373 USD), Việt Nam (3.498 USD), Indonesia (4.038 USD). Điều đó chứng tỏ mức độ thu nhập đầu người cao không phải là điều kiện tiên quyết để triển khai nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Theo chúng tôi, 7 điều kiện để có thể nghiên cứu, phát triển ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân tạo (TTNT) là:
1. Quốc gia có nền tảng công nghiệp CNTT – TT tương đối mạnh, đã số hóa cơ bản tài nguyên dữ liệu quốc gia.
2. Có nguồn nhân lực phong phú, trình độ ngày càng cao, đặc biệt trong lĩnh vực toán học, CNTT – TT và TTNT.
3. Quốc gia có chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng TTNT hợp lý.
4. Hình thành hệ sinh thái TTNT của quốc gia, với một số trung tâm công nghệ 4.0 và TTNT của đất nước làm động lực.
5. Phát triển 1 số trung tâm máy tính hiệu năng cao, đạt trình độ quốc tế (siêu máy tính).
6. Hợp tác quốc tế mạnh mẽ về đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng TTNT, thu hút đầu tư nước ngoài về nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ 4.0 và TTNT.
7. Coi trọng xuất khẩu các sản phẩm và dịch vụ công nghệ 4.0 trong đó có các sản phẩm, giải pháp ứng dụng TTNT.
Đối chiếu với tình hình đất nước hiện nay, từ bài học của 20 năm phát triển vượt bậc Công nghiệp CNTT – TT, chúng tôi thấy Việt Nam đang có nhiều tiền đề quan trọng để nhanh chóng tạo nên 7 điều kiện để phát triển và ứng dụng hiệu quả TTNT, tạo đột phá tăng năng suất lao động của đất nước và đổi mới mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
1. Chúng ta có nền tảng CNTT – TT tương đối mạnh để thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0, bước vào “Giai đoạn phổ cập TTNT” trong 25 năm tới. Hiện nay, công nghiệp CNTT – TT là ngành kinh tế lớn nhất Việt Nam, đóng góp 14,3% GDP.
Có thể dự báo đến 2025, tỉ trọng này sẽ trên 22%. Việt Nam đã bắt đầu triển khai dịch vụ viễn thông 5G từ 2020, là một trong 10 nước đầu tiên trên thế giới. Số thuê bao điện thoại di động trên 100 triệu dân đã vượt 100% từ năm 2009, hiện nay là 140%. Có 70 triệu người sử dụng Internet, chiếm 72% dân số.
Yếu kém của Việt Nam ở đây là chưa số hóa đầy đủ các tài nguyên dữ liệu quốc gia và của các doanh nghiệp, tổ chức. Tuy nhiên, tháng 6.2020 Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình quốc gia về chuyển đổi số của Việt Nam.
Theo Fobes Việt Nam, giá trị kinh tế số của Việt Nam từ 2015 đến 2019 đã tăng 4 lần, từ 3 tỉ USD lên 12 tỉ USD.
2. Nguồn nhân lực sẽ tiếp tục là một lợi thế của Việt Nam trong quá trình “phổ cập TTNT”, mặc dù giai đoạn đầu 2020 – 2025 còn nhiều khó khăn do thiếu hụt nhân lực có chất lượng.
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 700 người làm việc ở lĩnh vực TTNT, trong đó có 300 chuyên gia, còn ở nước ngoài có khoảng 900 người Việt Nam đang làm việc ở lĩnh vực này.
Năng lực đào tạo đại học ngành CNTT – TT của Việt Nam hiện nay là hơn 51.000 sinh viên/năm, đào tạo nghề (cao đẳng, trung cấp) ngành CNTT – TT là hơn 68.000 học viên/năm, tổng cộng là khoảng 120.000 học viên, sinh viên/năm. Nếu chưa tính tới việc tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo thì đến năm 2030, Việt Nam sẽ có thêm hơn 1,2 triệu nhân lực CNTT – TT, tức là gấp 2 lần số nhân lực CNTT – TT hiện nay.
Nếu Việt Nam có kế hoạch phát triển nhân lực tốt, hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, thực hiện đại học chia sẻ và hợp tác với nước ngoài để đào tạo có chất lượng cao, thì đến 2045 chúng ta có thể có 3,5 triệu người làm việc trong CNTT – TT và TTNT, trong đó hơn nửa triệu người làm việc về TTNT.
Việt Nam vừa hoàn thành “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học 2010 – 2020”, đưa xếp hạng toán học Việt Nam từ vị trí 55 trên thế giới lên thứ 35 – 40, đứng đầu các nước ASEAN từ 2014.
Ngày 22-12-2020, Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học 2021 – 2030”. Đây là tiền đề rất quan trọng để hình thành “Hệ sinh thái toán học Việt Nam”, làm tiền đề rất cơ bản cho “Hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo Việt Nam”.
3. TP.HCM đã xây dựng đề án “Thành phố Thủ Đức trở thành đô thị sáng tạo, tương tác cao”, là thành phố kinh tế tri thức, thành phố TTNT lớn Việt Nam, với dân số hiện nay là hơn 1 triệu người và quy hoạch tới 2035 sẽ là hơn 2 triệu người.
Ngoài tài nguyên 4.0 hiện có của thành phố Thủ Đức hiện nay như Khu công nghệ cao TP.HCM (thành công nhất hiện nay với tổng đầu tư từ các doanh nghiệp khoảng 8 tỈ USD, xuất khẩu 2020 khoảng 20 tỈ USD, 42.000 lao động chất lượng cao, đang triển khai xây dựng giai đoạn 2 mở rộng thêm khoảng 160 ha (công viên Khoa học), cụm đại học (Đại học quốc gia TP.HCM, Trường đại học Sư phạm kỹ thuật TP.HCM, Trường đại học Nông lâm TP.HCM, Đại học Fulbright) với hơn 100.000 sinh viên và hơn 2.000 tiến sĩ là giảng viên), Khu đô thị mới Thủ Thiêm với Trung tâm tài chính khu vực của Việt Nam, hệ thống giao thông thuận tiện (đường bộ, tàu điện ngầm, cảng container lớn nhất Việt Nam – Tân Cảng, sân bay Long Thành và Tân Sơn Nhất), Công viên lịch sử – văn hóa dân tộc (100ha), sân golf Thủ Đức (300ha).
Sẽ có thêm các hạ tầng 4.0 mới: Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất Việt Nam, Công viên phần mềm Quang Trung thành phố Thủ Đức, Trung tâm tính toán hiệu năng cao (siêu máy tính) hiện đại nhất ASEAN, Nhà hát giao hưởng, nhạc và vũ kịch, Trung tâm triển lãm quốc tế.
Thành phố Thủ Đức là thành phố kinh tế tri thức, là cửa ngõ của TP.HCM để kết nối, lan tỏa, hợp tác với Đồng Nai và Bình Dương tạo nên vùng công nghiệp 4.0 lớn nhất của Việt Nam. Giai đoạn 25 năm phát triển sắp tới của Việt Nam 2020 – 2045 nằm trọn vẹn trong hơn nửa đầu giai đoạn “Phổ cập TTNT” của nhân loại với đột phá chưa từng có về tăng năng suất lao động.
Với kết quả, bài học của 20 năm phát triển vượt bậc Công nghiệp CNTT – TT, chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ tạo được phát triển đột phá về năng suất lao động và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
Nguồn:
1. Sách trắng Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2010: NXB Thông tin và Truyền thông 2010.
2. Sách trắng Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2019: Bộ Thông tin và truyền thông, 2020.
3. Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới 2030 và 2045: Bộ Khoa học và công nghệ Việt Nam, CSIRO, 2019.
4. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, 2020.
5. “National Strategy for Artificial Intelligence”, www.msit.go.kr, March 2020.
Ông Nguyễn Thiện Nhân: Giải ngân chậm nhưng không biết ai chịu trách nhiệm