13. Vận dụng Lục hòa trong đời sống – Kiến Thức Cho Người lao Động Việt Nam

NHỮNG TÂM TÌNH

CÔ ĐƠN

Bạn đang đọc: 13. Vận dụng Lục hòa trong đời sống

Nguyên Minh

Vận dụng Lục hòa trong đời sống

Sáu nguyên tắc hòa kính được đức Phật chỉ dạy từ cách đây hơn 25 thế kỷ. Tuy nhiên, từ xưa nay lại chỉ được vận dụng chủ yếu trong đời sống Tăng đoàn nhằm tạo ra môi trường hòa hợp để chư tăng cùng nhau tu tập. Việc
vận dụng các nguyên tắc này vào cuộc sống mái ấm gia đình cũng như trong hội đồng xã hội có vẻ như còn rất lạ lẫm đối với nhiều người. Điều đó vốn có nguyên do riêng của nó.

Trước hết, những nguyên tắc này có thể nói là quá lý tưởng đối với cuộc sống của những người thông thường, khi chưa có những sự chuẩn bị nền tảng về đạo đức, nhân cách nhất định. Khi tất cả chúng ta chưa hình thành được khuynh hướng tu dưỡng theo một số chuẩn mực đạo đức cơ bản, thì việc vận dụng những nguyên tắc hòa kính vào cuộc sống sẽ rất khó khăn, nếu không nói là sẽ có phần lạ lẫm, không tương thích. Chẳng hạn như, nếu tất cả chúng ta nói đến việc sống hòa hợp và chia sẻ với nhau mọi quyền lợi vật chất, hầu hết những người thông thường đều sẽ thấy là không hài hòa và hợp lý, vì rõ ràng là năng lượng cũng như hiệu suất cao làm việc của mỗi người trong tập thể đều không giống nhau, làm sao có thể chia sẻ đồng đều như nhau? Nguyên tắc này chỉ có thể được gật đầu khi đời sống của mọi người đều dựa trên chuẩn mực của những giá trị ý thức như lòng từ bi, đức nhẫn nhục… mà không phải là các giá trị vật chất nhìn thấy được.

Đời sống của chư tăng trọn vẹn cung ứng được nhu yếu đó. Các vị đều đã buông bỏ đời sống thế tục, buông bỏ mọi gia tài vật chất của trần gian để bước vào đời sống xuất gia. Mục tiêu theo đuổi của các vị không phải là những sự hưởng thụ vật chất tầm thường, mà là sự tôi luyện một ý thức hướng thiện, tu dưỡng mọi đức tính để đạt đến đời sống an vui, giải thoát. Xuất phát từ nền tảng đó, các vị mới có thể đảm nhiệm và thực hành thực tế các nguyên tắc hòa kính một cách tương thích và hiệu suất cao. Đây là nguyên do lý giải vì sao từ xưa đến nay Lục hòa kính chỉ được vận dụng chủ yếu trong Tăng đoàn.

Nhưng điều đó trọn vẹn không có nghĩa là những người thông thường không thể thấy được giá trị tích cực của những nguyên tắc hòa kính. Vấn đề ở
đây là, tất cả chúng ta cần biết vận dụng chúng như thế nào cho tương thích với đời sống thực tiễn của mỗi người, trong mái ấm gia đình cũng như trong hội đồng xã hội.

Trước hết, như đã nói, các nguyên tắc hòa kính là quá lý tưởng trong đời sống thế tục. Và vì quá lý tưởng nên tuy tất cả chúng ta vô cùng ngưỡng mộ, tôn kính nhưng lại rất khó làm theo. Bởi vậy, để vận dụng các nguyên tắc này, tất cả chúng ta nên xem đây là những nguyên tắc, những định hướng để noi
theo mà không phải là những lao lý, khuôn thước phải khép mình vào. Nhận thức theo cách này, tất cả chúng ta sẽ thấy là các nguyên tắc hòa kính đều có thể được vận dụng tốt trong đời sống thế tục.

Khi tất cả chúng ta đồng ý Lục hòa kính như là kim chỉ nam của cuộc sống chung giữa mọi người, tất cả chúng ta sẽ luôn hướng đến sự hòa hợp. Ngay cả khi ta chưa thực sự đạt được sự hòa hợp – và không nên đòi hỏi điều đó một
cách tuyệt đối – thì chắc như đinh tất cả chúng ta cũng luôn có thể làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, và quan hệ giữa mọi người với ta cũng ngày
càng gắn bó, cảm thông nhau nhiều hơn.

Trong quan hệ giữa mọi người trong mái ấm gia đình, nếu tất cả chúng ta luôn ý thức
được tiềm năng của đời sống niềm hạnh phúc là sự hiểu biết lẫn nhau, đối lập với mọi bất đồng để cùng nhau xử lý và hướng đến cuộc sống chung hòa hợp, tất cả chúng ta sẽ luôn tránh xa thái độ sống cách biệt, thiếu cảm thông và lãnh đạm lạnh nhạt. Chúng ta biết rằng khi đã cùng chung sống dưới một mái mái ấm gia đình thì không thể có niềm hạnh phúc riêng cho mỗi người nếu mọi người không cùng nhau tạo ra được một môi trường sống hòa hợp và gắn bó. Cách hiểu như thế không phải gì lạ lẫm mà chính là nguyên tắc “thân hòa
cộng trú” tất cả chúng ta đã bàn đến. Hơn thế nữa, tất cả chúng ta còn có thể vận dụng cách hiểu này trong quan hệ với mọi người ở nơi làm việc hay bất cứ tập thể nào mà tất cả chúng ta tham gia.

Thận trọng và khéo léo trong lời nói, hạn chế mọi sự tranh cãi và luôn tôn trọng, lắng nghe người khác, đó chính là khuynh hướng mà tất cả chúng ta phải noi theo khi

thực hiện

“khẩu hòa vô tranh”. Lời nói hòa hợp không
chỉ thiết yếu cho một mái ấm gia đình niềm hạnh phúc, mà cũng là nhân tố thiết yếu
cho bất cứ tập thể hòa hợp nào. Vì thế, nếu tất cả chúng ta có thể luôn noi theo khuynh hướng này trong việc nói năng, tiếp xúc cùng mọi người quanh ta, điều tất nhiên là tất cả chúng ta sẽ góp phần tạo ra môi trường hòa hợp chung cho tất cả mọi người. Cho dù tất cả chúng ta chưa tạo ra được một tập thể trọn vẹn hòa hợp, nhưng sự đóng góp tích cực của khuynh hướng này là không thể phủ nhận.

Quan tâm giúp đỡ và Giao hàng lẫn nhau trong công việc, tạo ra được sự đồng lòng nhất trí trong mọi công việc chung của mái ấm gia đình hoặc tập thể, đó là noi theo nguyên tắc “ý hòa đồng sự” mà tất cả chúng ta đã đề cập đến. Nếu mọi người trong mái ấm gia đình đều noi theo khuynh hướng này, công việc dù có khó khăn đến đâu cũng đều có thể cùng nhau vượt qua, và ngay cả khi có
thất bại cũng không vì thế mà tổn hại đến trung khí trong mái ấm gia đình. Mỗi người đều biết nhận lấy phần nghĩa vụ và trách nhiệm về mình, không đổ lỗi cho nhau nên sẽ không bao giờ có sự trách móc lẫn nhau. Đối với một tập thể, mối quan hệ gắn bó lẫn nhau theo khuynh hướng này cũng là nhu yếu tất yếu để có thể tạo ra được sự hòa hợp và đoàn kết.

Nói đến nguyên tắc “giới hòa đồng tu”, tất cả chúng ta thường nghĩ ngay đến sự số lượng giới hạn trong khoanh vùng phạm vi những người xuất gia. Tuy nhiên, khái niệm này thật ra trọn vẹn có thể – và cần phải – lan rộng ra để vận dụng vào đời sống thế tục. “Giới” không chỉ là giới luật của người xuất gia, mà có thể được hiểu rộng hơn như là mọi khuôn thước, chuẩn mực mà những người trong một mái ấm gia đình hay tập thể phải tuân theo. Hiểu theo cách này thì trong mọi môi trường, mọi thực trạng, tất cả chúng ta đều có những “giới” khác
nhau để tuân theo. Khi tham gia giao thông, ta phải tuân thủ luật đi đường; khi làm việc phải tôn trọng những pháp luật về bảo đảm an toàn lao động;
khi về nhà phải tuân theo nền nếp hoạt động và sinh hoạt chung trong mái ấm gia đình… Tất cả những chuẩn mực, khuôn thước đó đều là “giới”, bởi vì nếu mọi người
trong cùng một môi trường, thực trạng mà không nghiêm túc tuân theo những chuẩn mực, khuôn thước ấy thì điều tất yếu là tập thể đó sẽ phải bị rối loạn, xung đột. Chẳng hạn, khi có người tham gia giao thông không đúng
luật, khi có người cùng làm việc lại vi phạm pháp luật về bảo đảm an toàn lao động, hoặc khi trong mái ấm gia đình có người không tuân theo nền nếp hoạt động và sinh hoạt chung… tất cả đều sẽ là nguyên do gây ra trộn lẫn và không an tâm cho những người khác chung quanh họ. Vì thế, môi trường nào cũng đều có những “giới” nhất định cần phải tuân theo.

Mặt khác, khái niệm “tu” cũng không chỉ dành riêng cho người xuất gia. Theo nguồn gốc chữ Hán, tu (修) có nghĩa là sửa chữa thay thế, là kiểm soát và điều chỉnh sự sai lầm đáng tiếc, làm cho trở nên tốt hơn, triển khai xong hơn. Hiểu theo nghĩa như vậy thì tất cả tất cả chúng ta cũng đều đang tu, không chỉ là các vị xuất gia. Chỉ có điều là các vị xuất gia tu học theo điều kiện kèm theo và môi trường, chí hướng thoát trần của họ. Còn tất cả chúng ta chỉ tu để sửa chữa thay thế, vô hiệu dần những sai lầm đáng tiếc, khuyết điểm trong đời sống của mình mà thôi.

Như vậy, “giới hòa đồng tu” cũng là một nguyên tắc vô cùng tích cực đối với đời sống thế tục của tất cả chúng ta. Nếu mọi người trong mái ấm gia đình hay một tập thể đều nghiêm túc tuân thủ, tôn trọng những khuôn thước, nền nếp hay chuẩn mực chung và cùng khuyến khích nhau sửa chữa thay thế mọi sai lầm đáng tiếc, khuyết điểm, thì mái ấm gia đình hay tập thể đó chắc như đinh sẽ sớm trở thành một môi trường hòa hợp, gắn bó mọi người với nhau để cùng văn minh.

Hai nguyên tắc sau cuối là “kiến hòa đồng giải” và “lợi hòa đồng quân” có vẻ như rất khó đạt được sự tán thành của quan điểm thế tục. Trong khi mọi người đều cho rằng vốn liếng tri thức là gia tài của mỗi cá thể, thì đối với việc chia sẻ kiến thức và kỹ năng tất nhiên không phải ai cũng có thể
đồng ý chấp thuận. Hơn thế nữa, yếu tố đặt ra là nếu tất cả chúng ta gật đầu việc chia
sẻ kiến thức và kỹ năng trong khi những người khác lại không làm như thế thì sao?
Mặt khác, làm sao tất cả chúng ta có thể chia sẻ đồng đều quyền lợi với mọi người nếu như những người khác không chịu nỗ lực góp sức tương đương với chúng ta? Câu vấn đáp ở đây là: tất cả chúng ta cần phải thuyết phục mọi người thấy
được giá trị chân thật của đời sống không nằm ở các giá trị vật chất, và vì thế mà cái gọi là “thiệt thòi” về mặt vật chất chưa hẳn đã là thua thiệt. Nhưng làm thế nào để thuyết phục những người khác tin cậy và thực thi theo những nguyên tắc mà tất cả chúng ta cho là đúng đắn? Chúng ta sẽ đề cập đến nội dung này trong phần tiếp theo đây bàn về

Tứ nhiếp pháp


bốn giải pháp thu phục lòng người.