#1 Du lịch Quế Sơn, Khám phá vùng đất Quế Sơn từ A đến Z
Rồi làng gốm Sơn Thắng thuộc xã Quế An, một làng gốm nổi tiếng với những sản phẩm thủ công hết sức phong phú đa dạng sẽ tiếp tục làm nao lòng bất cứ một du khách khó tính nào. Độc đáo nhất là người thợ thủ công khi làm gốm đã không dùng bàn xoay như những làng gốm khác, sản phẩm được nung chín bằng lửa rơm chứ không phải là củi.
Những cảnh quan thiên nhiên vẫn còn những nét hoang sơ, môi trường sinh thái trong lành, các món ăn dân dã của đồng nội, đậm đà nghĩa tình vùng quê, với những con người chân chất, hiền hoà mến khách, một vùng đất có truyền thống văn hoá và lịch sử cách mạng anh hùng lâu đời… Những điều này sẽ là điều kiện lý tưởng để du lịch Quế Sơn chuyển mình phát triển trong giai đoạn mới, xứng tầm với cảnh quan xinh đẹp, mê hoặc lòng người – món quà quý mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vùng đất này.
Làng gốm Quế An còn được gọi theo cái tên hết sức bình dân khác là làng lò nồi. Cách đây hơn 15 năm, làng gốm hưng thịnh với hơn 100 hộ dân, vài chục nghệ nhân sản xuất gốm. Các sản phẩm đất nung thủ công như lu, ảng, nồi, niêu, ấm… của làng gốm nổi tiếng bền đẹp, góp mặt khắp các khu chợ trong và ngoài huyện.
Bà Võ Thị Sương – người giữ lửa làng nghề gốm Quế An
Ông Võ Danh Hoàng (thôn Thắng Tây, xã Quế An) chia sẻ: “Nhờ nghề gốm này mà nuôi sống cả làng thời ấy. Người ta gánh bộ đi khắp nơi từ chợ trong huyện, có khi vượt qua mấy đồi núi, đường mòn sâu để đến các vùng sâu, xa như Hiệp Đức, Nông Sơn, Phước Sơn…
Chiếc nồi đất được đắp theo từng khối đất sét tạo hình
Thời ấy, chủ yếu là đổi đồ gốm lấy các loại lương thực như bắp, lúa, hạt mít phơi khô… Người ta thường bảo nhau gốm Quế An (gốm Sơn Thắng xưa) gánh một đôi gốm dù vỡ mất một gánh vẫn lời. Giờ đây mỗi khi nhắc đến một thời huy hoàng của làng gốm Quế An, thế hệ chúng tôi chỉ có thể nhìn chúng qua ký ức của mình mà thôi”.
Những chiếc nồi gốm đang chờ mang đi phơi
Chưa ai làm giàu bằng nghề này, nhưng nó có thể nuôi sống được nhiều gia đình qua cơn khốn khó. Theo ông Hoàng, đất sét nơi đây mềm, khi nung có độ bền cao và khó nứt, đất sét có màu xanh trứng sáo phải đào sâu 1.2-1.5m mới lấy được. Người ta phải đi tới vùng giáp ranh với xã Quế Phong để mua đất sét, thuê người gánh hơn 1km mang về.
Bây giờ đi khắp thôn Thắng Tây không dễ gì “ngửi” được mùi đất, nhìn được những nồi, niêu… phơi đầy sân. Hiện nay, tại thôn Thắng Tây chỉ còn duy nhất hộ bà Võ Thị Sương vẫn còn đang cố gắng giữ lửa làng nghề.
Niêu sắc thuốc
Bà Võ Thị Sương cho biết: “Lý do mà tôi theo nghề này cũng bởi cái duyên, niềm yêu thích của mình với nghề truyền thống quê hương. Dù giờ giấc, công sức bỏ ra nhiều nhưng vì đã quá mê hương đất, hương gốm quê hương mà tôi không đành bỏ”.
Mỗi ngày, bà bắt đầu công việc từ 7 giờ sáng sau khi đã chuẩn bị xong cơm nước cho cả ngày, thời gian còn lại hoàn toàn là dành cho niềm yêu thích của mình. Có lúc khách đặt quá nhiều, bà phải thức đến khuya để hoàn thành sản phẩm.
Những nồi gốm đang được phơi trước khi đem vào lò nung
Hiện nay bà Sương sản xuất 7 loại sản phẩm từ đất sét trên quê hương bà gồm trả lớn, om lớn, om cầu với giá bỏ sỉ 18 ngàn/cái, khách mua lẻ thì bán 25 ngàn/cái; om chè, trả chung với giá 14 ngàn/cái; om nhỏ, trả nhỏ giá bán 5 ngàn/cái. Trung bình mỗi ngày bà kiếm được 300 ngàn.
Những khối đất sét được bà Sương nhào nặn kỹ càng thành khối trước khi làm nồi
Mỗi ngày bà có thể làm được 20 cái loại lớn, 40 cái loại trung và 60 cái loại nhỏ. Nhìn bàn tay thoăn thoắt, đôi chân nhanh nhẹn trên bàn xoay mới thấy hết được niềm đam mê của bà dành cho sản phẩm quê hương.
Có những lúc đơn đặt hàng nhiều đến mức làm không xuể, bà phải hồi lại khách để đảm bảo làm đủ cho người đặt trước. Nhu cầu thị trường ngày càng lớn khi mà các khu du lịch, nhà hàng, khách sạn ngày càng chuộng các sản phẩm truyền thống để trang trí hay chế biến món ăn…
Sản phẩm vừa thành hình
Bà Sương cho biết: “Giờ chỉ còn mỗi tôi làm gốm này thôi, ngày trước đơn đặt hàng nhiều thì còn nhờ những người già trong thôn đến làm. Nhưng giờ tuổi các cụ cũng đã cao, mắt mờ nên cũng chưa biết tính sao. Dù tôi cũng cố gắng thuyết phục nhiều người cùng thôn theo nghề, sẵn sàng chỉ họ công việc cũng như nhường mối làm ăn để duy trì làng nghề nhưng chẳng ăn thua. Bây giờ mọi người đều bỏ nghề để theo làm ở các khu công nghiệp nên làng nghề ngày càng đìu hiu và cũng do thu nhập khó khăn”.