Kiếp sau xin chớ làm người – Câu thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ – Kênh văn học, lời bài hát, status tâm trạng

Kiếp sau xin chớ làm người là một câu thơ ấn tượng trong bài thơ Vịnh Cây Thông của Nguyễn Công Trứ. Ông là một tri thức có tài, có chí, khao khát sự nghiệp công danh, làm quan nhiều lần bị thăng giáng nhưng vẫn trung thành phục vụ triều Nguyễn.Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau khám phá bài thơ này nhé!

Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông

Vịnh Cây Thông là một bài thơ vang danh được phần đông bạn đọc truy lùng của nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Để giúp những bạn hoàn toàn có thể hiểu được những giá trị của bài thơ thì mời những bạn theo dõi bài viết này nhé !

Hai là công trình văn hoá để lại trong ngót trăm bài văn (biểu, tấu những vấn đề quốc kế dân sinh) và thơ phú bằng chữ Nôm. Trong đó đặc sắc nhất là một loạt bài Hát nói khiến cho ông trở nên một người đặt nền tảng cho loại hình nghệ thuật độc đáo Việt Nam mà chúng ta đang đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.

Là người đa tình, ông để lại cho tất cả chúng ta hình mẫu của con người mong ước tự do, tự tại, phóng khoáng. Ông để lại môt thông điệp sống hết mình, vào việc làm, việc gì cũng phải làm giỏi, ngoài việc làm thì đi dạo thoả thích – “ Nhân sinh quý thích chí ”. Ông gợi ý về một nhân cách “ Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông ”. Đừng hiểu danh theo nghĩa tầm thường mà là cái dấu ấn, tên gọi cái nhân cách, phẩm giá và công trạng mà một người hoàn toàn có thể có và nên có. Ông trao lại tình cảm rất đẹp cho người Tràng An :

                                 “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
                          Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.

Người Tràng An là người của kinh kỳ, của Huế, của TP. Hà Nội, thời nay còn là của kinh đô kinh tế tài chính TP HCM và những đô thị lớn. Đừng phụ cái tình cảm đẹp ấy mà hãy sống như những người lịch sự và trang nhã, thanh nhã, văn hoá ( ! ). Có cả một cái tình lớn về thân phận con người còn ám ảnh tất cả chúng ta qua bài thơ Vịnh cây thông .
Ông là người đa đoan. Không phải vì ông có tám vợ và hai mươi bảy con mà vì ông là ví dụ cảm động và đúng mực nhất của hai câu tục ngữ : “ Thiên ma bách chiết ” và “ Lên voi xuống chó ”. Thiên ma bách chiết nghĩa là ngàn lần bị mài giũa, trăm lần bị bẻ gãy. Ông làm quan đến Thượng thư, Tổng đốc, Tham tán quân vụ, Tư nghiệp Văn Miếu, nhưng cũng nhiều lần bị giáng chức, có lần bị cách tuột xuống làm lính thú hoặc bị tống giam chờ xét chém … mà ông vẫn điềm nhiên tự tại .
Ông có một câu thơ biểu lộ cái “ ta ” rất tự thị, rất ngạo nghễ để coi thường mọi đa đoan : “ Người có biết ta chăng thì chớ, Chẳng biết ta ta vẫn là ta ”. Trong bài hát nói Con Tạo đa đoan, ông viết :

                        “Dẫu xuống xuống lên lên mấy độ,
                          Vẫn tri tri trích trích không nao.
                          Càng phong trần danh dự càng cao.
                          Ngẫm con tạo trêu nhau ác thật”     

Vì ông đa tài, đa tình, đa đoan, khiến ta bị ám ảnh hoài nơi cái bài thơ Vịnh cây thông :

                          Kiếp sau xin chớ làm người
                  Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
                          Giữa trời vách núi cheo leo,
                  Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

Không thể hiểu bốn câu thơ đầy hào khí này mà không lướt qua cuộc sống tam đa của ông như trên. Có phải vì có quá nhiều nếm trải, thăng trầm cay đắng, mà ông chối bỏ thân phận làm người để xấu đi khuyên ta làm một cuộc luân hồi ngược. Từ kiếp người vượt qua cả kiếp cầm kiếp thú, thậm chí còn là con đại bàng bay cao chín tầng mây, con cá côn ngoài biển Đông đùa giỡn với sóng gió, con mãnh sư oai hùng chốn sơn lâm, ông mong ước hạ xuống làm cây thông của loài thực vật. Không phải. Ông là người ham sống, sống hết mình với mọi cung vật. Ngày nay theo kim chỉ nan nhân loại học, bảo ông là “ type ” người – thông – thái cũng được ; bảo ông là loại người giỏi giang – khôn khéo càng rõ ; mà bảo ông có gien của loại người rong chơi cũng đúng .
Cứ như bài thơ Đời người thấm thoắt :

                  ” Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi,
                   Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi.
                   Nhắn con tạo hoá xoay thời lại,
                   Để khách tang bồng rộng đất chơi.”

thì xem ra ông rất lưu luyến cuộc sống, cuộc người của một trang khách tang bồng. Chẳng qua ông đã rất từng trải, thấy chán vạn hạng ngươì ti tiện, èo uột, nịnh hót, gian dối lọc lừa, đố kỵ, bất nhân, tất bật, bạc ác. Nên ông khuyên ta chớ làm thân phận nhỏ nhen của loại người ấy, mà ông chỉ rõ trong bài Nhân tình thế thái :

                  ” Thế thái nhân tình gớm chết thay,
                   Lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy.
                   Hễ khôn điều lợi khôn thành dại,
                   Đã có đồng tiền dở cũng hay.
                   Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
                   Hẳn hoi không hết một bàn tay.
                   Suy ra chi kỹ chi hơn nữa,
                   Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.”

Rõ ràng ông muốn nói ngược theo thủ pháp mà ca dao tục ngữ vẫn dùng. Nói chớ làm người, thật ra lại là muốn bảo hay làm người đi mà làm một con người cho xứng danh với cái danh trong núi sông, trời đất. Ông thường nói một cách hào hùng về vai trò kẻ sĩ, về chí khí anh hùng, nợ tang bồng, chí đàn ông. Làm kẻ sĩ là con người :

                  ” Kinh luân khởi tâm thượng,
                   Binh giáp tàng hung trung
                   Vũ trụ chi gian giai phận sự,
                   Nam nhi giáo thử thị hào hùng.”

(Tài trị nước cầm quân đã chứa chất trong lòng. Mọi việc trong vũ trụ đều là phận sự của mình. Kẻ nam nhi được như thế mới thật hào hùng). Trong bài Chí nam nhi và Chí khí anh hùng, ông đều nhắc lại:

                 ”  Chí những toan dời núi lấp sông,
                   Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
                   Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
                   Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”

Người anh hùng, đấng đàn ông, con người sống trên cõi đời này phải học ở cây thông cái khí phách trượng phu. Ông rất tích hình ảnh cây tùng ( thông ). Tương truyền trước khi mất ông bảo người nhà khi ông chết thì khênh cái nhà tranh ra chỗ khác rồi đào huyệt nơi nền nhà và chôn ông ở đó, bên mồ trồng cho ông một cây thông. Trong tâm tưởng của Nho gia bao đời, cây thông là hình tượng của kẻ trượng phu mà phẩm chất là cứng cỏi, hùng vĩ, ngay thật .
Trên đây chúng tôi đã san sẻ đến những bạn bài thơ Vịnh Cây Thông đầy giá trị và mang đậm phong thái của nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Hãy cùng nhau theo dõi và đừng quên san sẻ bài viết này của chúng tôi đến mọi nguwoif nhé ! Cảm ơn những bạn rất nhiều !