KẾT QUẢ TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở NĂM 2019

Hà Nội, 19/12/2019 – Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được tiến hành vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 theo Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 26/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở lần thứ năm ở Việt Nam kể từ khi đất nước thống nhất vào năm 1975. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thu thập thông tin cơ bản về dân số và nhà ở trên toàn bộ lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phục vụ hoạch định các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và giám sát các Mục tiêu phát triển bền vững mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thu thập thông tin cơ bản về dân số và nhân khẩu học của trên 96,2 triệu người là nhân khẩu thực tế thường trú tại gần 26,9 triệu hộ dân cư sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019. Để bổ sung thông tin đánh giá những biến động về nhân khẩu học như tình hình sinh, chết, di cư của người dân, thông tin về lao động việc làm, điều kiện sống của các hộ dân cư và một số thông tin khác, điều tra mẫu trong Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được thực hiện với quy mô mẫu 9% hộ dân cư trên cả nước (khoảng 8,2 triệu người sinh sống tại hơn 2,3 triệu hộ dân cư). Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn của Tổng điều tra giúp nâng cao chất lượng thông tin, minh bạch quá trình sản xuất thông tin thống kê, rút ngắn thời gian xử lý để công bố sớm kết quả Tổng điều tra và tiết kiệm kinh phí so với các cuộc điều tra và Tổng điều tra theo phương pháp điều tra truyền thống.

Dưới đây là một số chỉ tiêu chính về kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019:
(1) Tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984 người, trong đó, dân số nam là 47.881.061 người, chiếm 49,8% và dân số nữ là 48.327.923 người, chiếm 50,2%. Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin) và thứ 15 trên thế giới. Sau 10 năm, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009 – 2019 là 1,14%/năm, giảm nhẹ so với giai đoạn 1999 – 2009 (1,18%/năm).

( 2 ) Tổng số hộ dân cư trên cả nước là 26.870.079 hộ dân cư, tăng 4,4 triệu hộ so với cùng thời gian năm 2009. Bình quân mỗi hộ có 3,6 người / hộ, thấp hơn 0,2 người / hộ so với năm 2009. Trong quá trình 2009 – 2019, tỷ suất tăng bình quân số hộ dân cư là 1,8 % / năm, thấp hơn 1,2 điểm Xác Suất so với tiến trình 1999 – 2009 và là quá trình có tỷ suất tăng số hộ dân cư thấp nhất trong vòng 40 năm qua .

(3) Mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2, tăng 31 người/km2 so với năm 2009. Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, sau Phi-li-pin (363 người/km2) và Xin-ga-po (8.292 người/km2) .
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng có mật độ dân số cao nhất toàn quốc, tương ứng là 1.060 người/km2 và 757 người/km2. Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là hai vùng có mật độ dân số thấp nhất, tương ứng là 132 người/km2 và 107 người/km2.

( 4 ) Tỷ số giới tính của dân số là 99,1 nam / 100 nữ. Trong đó, tỷ số giới tính khu vực thành thị là 96,5 nam / 100 nữ, khu vực nông thôn là 100,4 nam / 100 nữ. Tỷ số giới tính có sự độc lạ theo những nhóm tuổi, tuổi càng cao tỷ số giới tính càng thấp, cao nhất ở nhóm 0-4 tuổi ( 110,3 nam / 100 nữ ) và thấp nhất ở nhóm từ 80 tuổi trở lên ( 48,6 nam / 100 nữ ). Tỷ số giới tính gần như cân đối ở nhóm 45-49 tuổi ( 100,2 nam / 100 nữ ) và khởi đầu giảm xuống dưới 100 ở nhóm 50-54 tuổi ( 95,9 nam / 100 nữ ) .
( 5 ) Dân số thành thị là 33.122.548 người, chiếm 34,4 % tổng dân số cả nước ; dân số nông thôn là 63.086.436 người, chiếm 65,6 %. Tỷ lệ tăng dân số trung bình năm khu vực thành thị tiến trình 2009 – 2019 là 2,64 % / năm, gấp hơn hai lần tỷ suất tăng dân số trung bình năm của cả nước và gấp sáu lần so với tỷ suất tăng dân số trung bình năm khu vực nông thôn cùng quy trình tiến độ .
Đông Nam Bộ có tỷ suất dân số thành thị cao nhất cả nước ( 62,8 % ), Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ suất dân số thành thị thấp nhất ( 18,2 % ). Các tỉnh có tỷ suất dân số thành thị cao nhất gồm TP. Đà Nẵng, Tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh ( tương ứng là 87,2 %, 79,9 %, 79,2 % ) .
Các tỉnh có tỷ suất dân số thành thị thấp nhất cả nước gồm Bến Tre, Tỉnh Thái Bình, Bắc Giang ( tương ứng là 9,8 %, 10,6 % và 11,4 % ) .
( 6 ) Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung chuyên sâu dân cư lớn nhất của cả nước với 22,5 triệu người, chiếm 23,4 % tổng dân số cả nước. Tây Nguyên là nơi có ít dân cư sinh sống nhất với 5,8 triệu người, chiếm 6,1 % dân số cả nước. Giai đoạn 2009 – 2019, Đông Nam Bộ có tỷ suất tăng dân số trung bình cao nhất cả nước, 2,37 % / năm ; Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ suất tăng dân số trung bình thấp nhất, 0,05 % / năm .
( 7 ) Dân số thuộc dân tộc Kinh là 82.085.826 người, chiếm 85,3 %. Trong 53 dân tộc thiểu số, 6 dân tộc có dân số trên 1 triệu người là : Tày, Thái, Mường, Mông, Khmer, Nùng ( trong đó dân tộc Tày có dân số đông nhất với 1,85 triệu người ) ; 11 dân tộc có dân số dưới 5 nghìn người, trong đó Ơ Đu là dân tộc có dân số thấp nhất ( 428 người ) .
Địa bàn sinh sống đa phần của người dân tộc thiểu số là vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên .
( 8 ) Đến thời gian Tổng tìm hiểu năm 2019, có 16 tôn giáo được phép hoạt động giải trí trên chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. Tổng số có 13,2 triệu người theo tôn giáo, chiếm 13,7 % tổng dân số cả nước. Trong đó, số người theo “ Công giáo ” là đông nhất với 5,9 triệu người, chiếm 44,6 % tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1 % tổng dân số cả nước. Tiếp đến là số người theo “ Phật giáo ” với 4,6 triệu người, chiếm 35,0 % những người theo tôn giáo và chiếm 4,8 % dân số cả nước. Các tôn giáo còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ .
( 9 ) Hầu hết trẻ nhỏ dưới 5 tuổi được ĐK khai sinh, đạt 98,8 %. Kết quả này đã vượt tiềm năng về ĐK khai sinh của Chương trình hành vi vương quốc về ĐK và thống kê hộ tịch quy trình tiến độ 2017 – 2024 ( tiềm năng đến năm 2020 có 97 % trẻ nhỏ dưới 5 tuổi được ĐK khai sinh ). Tuy nhiên, tại những vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, vẫn còn dưới 3 % trẻ nhỏ dưới 5 tuổi chưa được ĐK khai sinh .
( 10 ) Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn là 77,5 %. Có vợ / có chồng là thực trạng hôn nhân gia đình phổ cập với 69,2 % dân số từ 15 tuổi trở lên đang có vợ / chồng. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu là 25,2 tuổi, tăng 0,7 tuổi so với năm 2009, trong đó phái mạnh kết hôn muộn hơn phái đẹp 4,1 năm ( tương ứng là 27,2 tuổi và 23,1 tuổi ) .
( 11 ) Cả nước có 9,1 % phụ nữ trong độ tuổi từ 20-24 kết hôn lần đầu trước 18 tuổi. Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là hai vùng có tỷ suất phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu trước 18 tuổi cao nhất cả nước, lần lượt là 21,5 %, 18,1 % .
( 12 ) Tỷ lệ người từ 5 tuổi trở lên bị khuyết tật ở Việt Nam là 3,7 %. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là vùng có tỷ suất người khuyết tật cao nhất cả nước ( 4,5 % ) ; Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là hai vùng có tỷ suất người khuyết tật thấp nhất ( đều bằng 2,9 % ) .
( 13 ) Tổng tỷ suất sinh ( TFR ) là 2,09 con / phụ nữ, dưới mức sinh sửa chữa thay thế. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn duy trì mức sinh không thay đổi trong hơn một thập kỷ qua, xu thế sinh hai con ở Việt Nam là phổ cập. TFR của khu vực thành thị là 1,83 con / phụ nữ ; khu vực nông thôn là 2,26 con / phụ nữ. Phụ nữ có trình độ ĐH có mức sinh thấp nhất ( 1,85 con / phụ nữ ), thấp hơn khá nhiều so với phụ nữ chưa khi nào đi học ( 2,59 con / phụ nữ ). Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có mức sinh thấp nhất cả nước ( 1,39 con / phụ nữ ), TP Hà Tĩnh là tỉnh có mức sinh cao nhất ( 2,83 con / phụ nữ ) .
( 14 ) Tình trạng sinh con ở tuổi chưa thành niên vẫn còn sống sót ở Việt Nam. Trên khoanh vùng phạm vi toàn nước, phụ nữ chưa thành niên ( từ 10-17 tuổi ) sinh con trong 12 tháng trước thời gian tìm hiểu chiếm tỷ trọng 3,3 ‰ ; cao nhất ở Trung du và miền núi phía Bắc ( 9,7 ‰ ) và Tây Nguyên ( 6,8 ‰ ). Đồng bằng sông Hồng có tỷ suất phụ nữ sinh con khi chưa thành niên thấp nhất ( 1,1 ‰ ) .
( 15 ) Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam ( SRB ) có khuynh hướng tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay. SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao ( năm 2018 : 114,8 bé trai / 100 bé gái ; năm 2019 : 111,5 bé trai / 100 bé gái ). Tỷ số này cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng ( 115,5 bé trai / 100 bé gái ) và thấp nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long ( 106,9 bé trai / 100 bé gái ) .
( 16 ) Việt Nam đã đạt được nhiều văn minh trong nỗ lực chăm nom sức khỏe thể chất bà mẹ trẻ nhỏ. Tỷ suất chết trẻ nhỏ dưới 1 tuổi và tỷ suất chết trẻ nhỏ dưới 5 tuổi đều giảm mạnh trong vòng hai thập kỷ qua. Tỷ suất chết của trẻ nhỏ dưới 1 tuổi ( IMR ) là 14 trẻ tử trận trên 1000 trẻ sinh sống, giảm hơn 50% so với cách đây 20 năm. Khu vực thành thị có tỷ suất chết trẻ nhỏ dưới 1 tuổi thấp hơn khu vực nông thôn ( tương ứng là 8,2 và 16,7 trẻ nhỏ tử trận trên 1000 trẻ nhỏ sinh sống ). Tỷ suất này của trẻ nam cao hơn trẻ nữ 3,8 điểm phần nghìn ( IMR của nam là 15,8, IMR của nữ là 12,0 trẻ tử trận / 1000 trẻ sinh sống ) .
Tỷ suất chết của trẻ nhỏ dưới 5 tuổi ( U5MR ) của Việt Nam năm 2019 là 21,0 trẻ nhỏ dưới 5 tuổi tử trận / 1000 trẻ sinh sống, giảm hơn 50% so với năm 1999 ( 56,9 trẻ nhỏ dưới 5 tuổi tử trận / 1000 trẻ sinh sống ). Tuy vậy, vẫn còn khoảng cách lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn : U5MR của khu vực nông thôn cao gấp hơn hai lần ở khu vực thành thị ( tương ứng là 25,1 và 12,3 trẻ nhỏ dưới 5 tuổi tử trận / 1000 trẻ sinh sống ) .
Tỷ số tử trận mẹ ( MMR ) là 46 ca trên 100.000 trẻ sinh sống, giảm 23 ca so với năm 2009. Kết quả này cho thấy Việt Nam sẽ đạt được tiềm năng về giảm tỷ số tử trận mẹ sớm hơn so với kế hoạch đề ra trong Kế hoạch hành vi vương quốc triển khai Chương trình nghị sự năm 2030 ( 45 ca / 100.000 trẻ sinh sống đến năm 2030 ) .
( 17 ) Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 73,6 tuổi ; trong đó, tuổi thọ của phái mạnh là 71,0 tuổi, của phái đẹp là 76,3 tuổi. Từ năm 1989 đến nay, tuổi thọ trung bình của Việt Nam liên tục tăng, từ 65,2 tuổi năm 1989 lên 73,6 tuổi năm 2019. Chênh lệch về tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ qua hai cuộc Tổng tìm hiểu gần nhất phần nhiều không biến hóa, duy trì ở mức khoảng chừng 5,4 năm .
( 18 ) Phần lớn những trường hợp chết xảy ra trong 12 tháng trước thời gian Tổng tìm hiểu là do bệnh tật ( 90,9 % ). Ngoài yếu tố bệnh tật, tai nạn thương tâm giao thông vận tải là nguyên do số 1 dẫn tới tử trận. Tỷ lệ người chết vì tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải cao gấp gần bốn lần so với tỷ suất người chết vì tai nạn đáng tiếc lao động ( tương ứng là 4,3 % và 1,1 % ). Tỷ lệ chết vì tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải ở phái mạnh cao gấp hơn ba lần ở phái đẹp ( 5,9 % so với 1,8 % ) .
( 19 ) Mặc dù dân số liên tục tăng nhưng di cư đang có tín hiệu giảm cả về số lượng và tỷ suất. Người di cư có xu thế lựa chọn điểm đến di cư trong khoanh vùng phạm vi quen thuộc của họ. Trong số 88,4 triệu dân từ 5 tuổi trở lên, số người di cư là 6,4 triệu người, chiếm 7,3 %. Trong đó, di cư giữa những tỉnh chiếm tỷ suất lớn nhất, 3,2 %, cao hơn di cư trong huyện ( 2,7 % ) và di cư giữa những huyện ( 1,4 % ) .
Đông Nam Bộ là điểm đến lôi cuốn nhất so với người di cư, tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng. Có đến 1,3 triệu người nhập cư đến vùng Đông Nam Bộ, chiếm hơn hai phần ba tổng số người di cư giữa những vùng trên cả nước. Phần lớn người nhập cư đến Đông Nam Bộ là người của vùng Đồng bằng sông Cửu Long ( 710,0 nghìn người, chiếm 53,2 % ) ; phần nhiều người nhập cư đến Đồng bằng sông Hồng là những người đến từ vùng Trung du và miền núi phía Bắc ( 209,3 nghìn người, chiếm 61,2 % ) .
( 20 ) Toàn quốc có 12 tỉnh có tỷ suất di cư thuần dương, nghĩa là người nhập cư nhiều hơn người xuất cư. Trong đó, tỉnh Tỉnh Bình Dương có tỷ suất di cư thuần dương cao nhất ( 200,4 ‰ ) với hơn 489 nghìn người nhập cư nhưng chỉ có khoảng chừng 38 nghìn người xuất cư khỏi tỉnh này trong 5 năm trước. Như vậy, cứ 5 người từ 5 tuổi trở lên ở tỉnh Tỉnh Bình Dương thì có 1 người đến từ tỉnh khác. Tiếp theo là Thành Phố Bắc Ninh, thành phố Hồ Chí Minh và Thành Phố Đà Nẵng với tỷ suất di cư thuần lần lượt là 85,3 ‰, 75,9 ‰ và 68,4 ‰ .
Tìm việc / mở màn việc làm mới hoặc theo mái ấm gia đình / chuyển nhà là những nguyên do di cư hầu hết. Có 43,0 % người di cư đang phải sống trong những căn nhà thuê mượn, gấp gần tám lần tỷ suất này của người không di cư. Các địa phương có nhiều khu công nghiệp lôi cuốn đông lao động đại trà phổ thông là những nơi có tỷ suất người di cư phải thuê / mượn nhà cao nhất, như : Thành Phố Bắc Ninh, Tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ. Trong đó, Tỉnh Bình Dương là tỉnh có tỷ suất người di cư phải thuê / mượn nhà cao nhất cả nước ( 74,5 % ). Bên cạnh đó, một số ít địa phương khác cũng có tỷ suất này khá cao ( từ 40-50 % ) gồm có : Thái Nguyên, Hưng Yên, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh và Long An .

(21) Sau 30 năm, tỷ lệ dân số thành thị tăng 14,3 điểm phần trăm, từ 20,1% năm 1989 lên 34,4% năm 2019. Tốc độ tăng dân số thành thị bình quân năm giai đoạn 2009 – 2019 là 2,64%/năm, thấp hơn tốc độ tăng dân số thành thị của giai đoạn 1999 – 2009 (3,4%/năm). Yếu tố di cư góp phần làm dân số khu vực thành thị tăng thêm 1,2 triệu người, chiếm 3,5% dân số thành thị; sự “chuyển mình” từ xã thành phường/thị trấn của nhiều địa phương trong cả nước góp phần chuyển 4,1 triệu người đang là cư dân nông thôn thành cư dân thành thị, tương đương 12,3% dân số thành thị của cả nước năm 2019.

Như vậy, Việt Nam đã không đạt được cả hai tiềm năng về đô thị hoá đến năm năm ngoái và 2020 theo Chương trình tăng trưởng đô thị vương quốc được Thủ tướng nhà nước phê duyệt trên góc nhìn về tăng tỷ suất dân số khu vực thành thị .

(22) Trong 10 năm qua, giáo dục phổ thông đã có sự cải thiện rõ rệt về việc tăng tỷ lệ đi học chung và đi học đúng tuổi. Trong đó, bậc trung học phổ thông có sự cải thiện rõ ràng nhất. Tỷ lệ đi học chung của cấp tiểu học là 101,0%, cấp trung học cơ sở (THCS) là 92,8% và trung học phổ thông (THPT) là 72,3%. Tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp này lần lượt là 98,0%, 89,2% và 68,3%.
Việt Nam hiện có 8,3% trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đến trường, giảm 12,6 điểm phần trăm so với năm 1999 và giảm 8,1 điểm phần trăm so với năm 2009 (năm 1999: 20,9%; năm 2009: 16,4%). Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường ở khu vực nông thôn cao hơn gần hai lần khu vực thành thị (9,5% so với 5,7%). Cấp học càng cao, tỷ lệ này càng lớn: Cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng 1 em không được đến trường; con số tương ứng ở cấp THCS là gần 7 em, ở cấp THPT là 26 em.

( 23 ) Hơn một phần ba dân số từ 15 tuổi trở lên đạt trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên ( 36,5 % ), tăng gần hai lần so với năm 2009 ( 20,8 % ). Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ này của khu vực thành thị cao hơn hai lần so với khu vực nông thôn ( lần lượt là 54,0 % và 27,0 % ) .
( 24 ) Toàn quốc có 80,8 % dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ trình độ kỹ thuật ( CMKT ). Tỷ lệ dân số có CMKT đã tăng 5,9 điểm Phần Trăm so với năm 2009 .
( 25 ) Gần 88 % dân số trong độ tuổi từ 25-59 tham gia lực lượng lao động ; trong đó tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động cao nhất ở nhóm tuổi 25-29 ( 14,3 % ) và giảm nhẹ ở nhóm 30-34 ( 14,2 % ). Dân số ở nhóm tuổi trẻ ( nhóm 15-19 tuổi và nhóm 20-24 tuổi ) và nhóm tuổi già ( từ 60 tuổi trở lên ) đều chiếm tỷ trọng tham gia lực lượng lao động thấp ( dưới 10 % ) .

(26) Lực lượng lao động đã tốt nghiệp THPT trở lên chiếm 39,1%, tăng 13,5 điểm phần trăm so với năm 2009; đã được đào tạo có bằng, chứng chỉ (từ sơ cấp trở lên) chiếm 23,1% (ở khu vực thành thị cao gấp 2,5 lần khu vực nông thôn, tương ứng là 39,3% và 15,6%).
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ cao nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng (31,8%) và Đông Nam Bộ (27,5%); thấp nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long (13,6%).

( 27 ) Tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên ở mức thấp, 2,05 %. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn thấp hơn gần hai lần so với khu vực thành thị ( tương ứng là 1,64 % và 2,93 % ). Hầu hết người thất nghiệp có độ tuổi từ 15-54 ( chiếm 91,7 % người thất nghiệp ). Lao động trẻ từ 15-24 tuổi là những người thất nghiệp nhiều nhất, chiếm gần 50% tổng số lao động thất nghiệp cả nước ( 44,4 % ) .
( 28 ) Giai đoạn 2009 – 2019, tỷ trọng việc làm theo ngành có sự di dời rất tích cực theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy hải sản và tăng tỷ trọng lao động trong khu vực Công nghiệp, kiến thiết xây dựng và Thương Mại Dịch Vụ. Tỷ trọng lao động có việc làm trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy hải sản giảm liên tục trong những năm qua, từ 53,9 % năm 2009 xuống còn 46,3 % năm năm trước và đạt 35,3 % vào năm 2019. Lần tiên phong, số lao động thao tác trong khu vực Thương Mại Dịch Vụ cao hơn số lao động thao tác trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy hải sản vào năm 2019. Với đà chuyển dời này, “ Tỷ lệ lao động thao tác trong nghành công nghiệp và dịch vụ ” sẽ sớm đạt ngưỡng 70 % như tiềm năng đề ra trong Nghị quyết số 23 / NQ-TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về xu thế thiết kế xây dựng chủ trương tăng trưởng công nghiệp vương quốc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 .
( 29 ) Nhóm nghề lao động giản đơn lôi cuốn nhiều nhân lực nhất trong nền kinh tế tài chính với tỷ suất 33,2 %. So với 10 năm trước đây, tỷ trọng lao động làm việc làm giản đơn đã giảm mạnh ( giảm 7,1 điểm Xác Suất ). Các nhóm “ dịch vụ cá thể, bảo vệ và bán hàng ”, “ thợ thủ công và những thợ khác có tương quan ” và “ thợ lắp ráp và quản lý và vận hành máy móc thiết bị ” cũng là những nhóm nghề lôi cuốn nhiều lực lượng lao động, tương ứng là 18,3 %, 14,5 % và 13,2 % tổng số lao động đang thao tác .
( 30 ) Tại thời gian 0 giờ ngày 01/4/2019, hầu hết những hộ dân cư đều có nhà ở và đang sống trong những ngôi nhà vững chắc hoặc bán vững chắc. Chỉ còn 1.244 hộ không có nhà để ở ( chiếm 0,47 phần mười nghìn tổng số hộ ), tương tự với 4.108 người. Đa số hộ không có nhà tại là những hộ sống ở ghe, thuyền, … không đủ điều kiện kèm theo về cấu trúc của ngôi nhà / nhà ở để ở ( ba bộ phận : tường, mái, sàn ). Ngoài ra, có 310 người long dong cơ nhỡ tại 10 tỉnh, thành phố đã được tích lũy thông tin trong cuộc Tổng tìm hiểu này, đây là những người không có nhà ở .
Như vậy, có tổng số 4.418 người hiện không có nhà ở trên toàn nước. Sau 10 năm, thực trạng hộ không có nhà ở đã giảm 10 lần, từ mức 4,7 phần mười nghìn năm 2009 xuống còn 0,47 phần mười nghìn năm 2019. Tỷ lệ hộ sống trong những ngôi nhà thiếu bền vững và kiên cố hoặc đơn sơ chiếm một phần nhỏ ( 6,9 % ), giảm 8,2 điểm Xác Suất so với năm 2009. Tỷ lệ này ở khu vực nông thôn cao hơn gần 8 điểm Xác Suất so với khu vực thành thị ( lần lượt là 9,7 % và 1,8 % ) .
( 31 ) Diện tích nhà ở trung bình đầu người là 23,2 mét vuông / người, tăng 6,5 mét vuông / người so với năm 2009. Khoảng hơn một phần ba số hộ ( chiếm 34,4 % ) sống trong những ngôi nhà / căn hộ chung cư cao cấp có diện tích quy hoạnh trung bình đầu người từ 30 mét vuông / người trở lên. Vẫn còn gần 7 % hộ dân cư ( tương ứng với khoảng chừng 7,7 triệu người ) đang sống trong những ngôi nhà có diện tích quy hoạnh chật hẹp dưới 8 mét vuông / người. Trong đó, tỷ suất hộ sống trong những ngôi nhà / căn hộ chung cư cao cấp có diện tích quy hoạnh trung bình đầu người dưới 8 mét vuông ở Đông Nam Bộ là cao nhất ( 16,3 % ), ở Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là thấp nhất ( 3,8 % ) .
( 32 ) Hiện có 11,7 % hộ dân cư đang sống trong những ngôi nhà / căn hộ đi thuê / mượn, tăng 4,6 điểm Phần Trăm so với năm 2009 ( năm 2009 là 7,1 % ). Đặc biệt, tại những địa phương đông dân cư và tập trung chuyên sâu nhiều khu công nghiệp, tỷ suất hộ sống trong những ngôi nhà / căn hộ đi thuê / mượn cao hơn những địa phương khác như Tỉnh Bình Dương ( 56,5 % ), thành phố Hồ Chí Minh ( 32,8 % ), TP Bắc Ninh ( 27,0 % ), Thành Phố Hà Nội ( 15,8 % ). Tỷ lệ hộ sống trong những ngôi nhà thuê / mượn ở khu vực thành thị cao gấp gần 3,5 lần so với khu vực nông thôn .
( 33 ) Đa số những hộ dân cư đang sống trong những ngôi nhà / căn hộ chung cư cao cấp được kiến thiết xây dựng và mở màn đưa vào sử dụng từ năm 2000 đến nay ( 76,8 %, tương tự 20,6 triệu hộ ). Trong đó, 37,1 % hộ sống trong những ngôi nhà / nhà ở mới được thiết kế xây dựng trong vòng 10 năm trước thời gian Tổng tìm hiểu ( tương ứng khoảng chừng 10 triệu hộ ), thấp hơn 1,2 triệu hộ so với năm 2009. Tuy vậy, trên cả nước vẫn còn gần 195 nghìn hộ ( tương ứng 0,7 % số hộ có nhà ở ) đang sống trong những ngôi nhà đơn sơ được kiến thiết xây dựng và đưa vào sử dụng lần đầu trong vòng từ 21 đến 44 năm và trên 19 nghìn hộ ( tương ứng 0,07 % số hộ có nhà ở ) đang sống trong những ngôi nhà đơn sơ được kiến thiết xây dựng và đưa vào sử dụng lần đầu từ 45 năm trở lên. Điều này cho thấy, mặc dầu thực trạng nhà tại của hộ dân cư đã được cải tổ trong thời hạn qua nhưng vẫn còn những hộ phải sống trong những ngôi nhà có chất lượng kém với tuổi thọ quá dài so với mức độ bảo đảm an toàn theo lao lý .
( 34 ) Điều kiện ở và hoạt động và sinh hoạt của hộ dân cư cũng được cải tổ rõ ràng, có 99,4 % hộ sử dụng điện lưới thắp sáng, tăng 3,3 điểm Phần Trăm so với năm 2009 .
Tỷ lệ hộ dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh là 97,4 %, trong đó 52,2 % hộ sử dụng nguồn nước máy. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 99,6 %, ở khu vực nông thôn là 96,3 % .
Tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh ( hố xí tự hoại và bán tự hoại ) là 88,9 %, tăng gần 35 điểm Tỷ Lệ so với năm 2009 .
Tiện nghi hoạt động và sinh hoạt của hộ dân cư đã được cải tổ với 91,9 % hộ có sử dụng ti vi ; 91,7 % hộ có sử dụng điện thoại cảm ứng ( cố định và thắt chặt, di động ) hoặc máy tính bảng ; 30,7 % hộ có sử dụng máy vi tính ( gồm có máy để bàn, máy tính ) .
Ngoài những thiết bị hoạt động và sinh hoạt nghe nhìn đã đề cập ở trên, những thiết bị Giao hàng hoạt động và sinh hoạt cơ bản khác cũng được phần đông hộ dân cư sử dụng và tăng đáng kể so với năm 2009. Tăng cao nhất là tỷ suất hộ sử dụng tủ lạnh, tăng 48,9 % ( năm 2009 : 31,6 %, năm 2019 : 80,5 % ) ; tiếp đến là tỷ suất hộ sử dụng máy giặt, tăng 37,3 % ( năm 2009 : 14,9 %, năm 2019 : 52,2 % ) và tỷ suất hộ sử dụng điều hòa nhiệt độ tăng 25,5 % ( năm 2009 : 5,9 %, năm 2019 : 31,4 % ) .
Đa số những hộ dân sử dụng phương tiện đi lại giao thông vận tải cá thể có động cơ ( mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện điện, xe máy điện và xe hơi ) cho mục tiêu hoạt động và sinh hoạt của hộ ( 88 % ). Tỷ lệ hộ sử dụng phương tiện đi lại này ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn ( tương ứng là 91,8 % và 85,9 % ) .
Các tỉnh, thành phố có tỷ suất này cao nhất là thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Bình Dương, TP. Đà Nẵng, Tây Ninh ( trên 94 % tại mỗi tỉnh ) .
Tổng kết lại, 10 năm qua, mặc dầu gặp nhiều khó khăn vất vả, thử thách nhưng dưới sự chỉ huy của Đảng, quản trị của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả mạng lưới hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, quốc gia ta đã đạt được những thành quả quan trọng trên những nghành nghề dịch vụ : y tế, giáo dục, việc làm và điều kiện kèm theo sống của dân cư. Quy mô dân số nước ta tăng với vận tốc chậm hơn so với quá trình 10 năm trước. Trình độ dân trí đã được cải tổ, thời cơ đi học theo đúng độ tuổi lao lý của trẻ nhỏ ngày càng được bảo vệ, tỷ suất trẻ nhỏ ngoài nhà trường giảm mạnh ; tỷ lệ dân số có trình độ CMKT tăng mạnh. Sức khỏe của người dân đặc biệt quan trọng là sức khỏe thể chất của bà mẹ và trẻ nhỏ được tăng cường. Tỷ lệ người khuyết tật giảm ; tuổi thọ của người dân tăng cao ; tỷ suất chết của trẻ nhỏ và tỷ số tử trận mẹ giảm mạnh. Vấn đề xử lý việc làm và nâng cao năng lượng cạnh tranh đối đầu cho người lao động được chú trọng. Chuyển dịch cơ cấu tổ chức ngành kinh tế tài chính đang diễn ra can đảm và mạnh mẽ ở Việt Nam theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong khu vực Công nghiệp, thiết kế xây dựng và Dịch Vụ Thương Mại và giảm tỷ trọng lao động trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy hải sản. Nhà ở và điều kiện kèm theo sống của những hộ dân cư đã được cải tổ rõ ràng, đặc biệt quan trọng ở khu vực thành thị. Hầu hết những hộ dân cư đều có nhà ở và đa phần sống trong những loại nhà vững chắc và bán vững chắc ; tỷ suất hộ không có nhà ở giảm mạnh ; tỷ suất hộ được sử dụng điện lưới và nguồn nước hợp vệ sinh tăng mạnh ; tỷ suất hộ có những thiết bị hoạt động và sinh hoạt văn minh ship hàng đời sống cũng tăng cao .
Thành quả trên sẽ tạo thêm động lực để tất cả chúng ta hiện thực hóa khát vọng về một quốc gia Việt Nam thịnh vượng, phồn vinh và niềm hạnh phúc. / .