Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay: Quan điểm và những định hướng chính sách

Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay: Quan điểm và những định hướng chính sách

Để góp thêm phần trao đổi học thuật, bài viết này tập trung chuyên sâu làm rõ : 1 ) một số ít quan điểm tăng trưởng nông nghiệp, nông thôn và xử lý yếu tố nông dân ; 2 ) tình hình yếu tố nông nghiệp, nông dân và nông thôn lúc bấy giờ và 3 ) yêu cầu một số ít khuynh hướng và chủ trương cho tăng trưởng vững chắc nông nghiệp và nông thôn .

1. Một số quan điểm về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn

1.1.Về khái niệm nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Theo nghĩa thông thường, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất sử dụng đất đai và sinh vật làm ra sản phẩm nông nghiệp. Cách định nghĩa này chỉ dừng lại ở sản xuất nông nghiệp truyền thống.Tuy nhiên, nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu của xã hội với nông nghiệp càng cao. Nông nghiệp không chỉ đơn thuần là sản xuất ra các sản phẩm tươi sống mà còn bao gồm cả khâu chế biến, marketing và tiêu thụ nông sản. Do vậy, sản phẩm cuối cùng của nông nghiệp không đơn thuần là nông sản (agro-products) mà thực phẩm nông sản (agrofoods) (Đỗ Kim Chung, 2002). Do đó, nông nghiệp cần được định nghĩa ở phạm vi rộng hơn. Nông nghiệp là ngành sản xuất – kinh doanh làm ra thực phẩm nông sản, bao gồm cả sản xuất nông nghiệp, chế biến, marketing và phân phối các thực phẩm nông sản.

Chủ thể của các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp là nông dân. Theo nghĩa thông thường, nông dân là những người tham gia sản xuất nông nghiệp. Trên thực tế, rất nhiều nông dân, ngoài việc tham gia vào sản xuất nông nghiệp vẫn tham gia vào các hoạt động kinh tế khác như sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn và dịch vụ. Nông thôn càng phát triển thì cơ cấu ngành nghề trong nông thôn càng đa dạng. Do đó, khái niệm về nông dân cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn . Nông dân là những người dân sống ở nông thôn làm các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ khác nhau tuỳ theo khả năng và lợi thế so sánh của họ.

Khu vực của nền kinh tế tài chính mà trong đó những hoạt động giải trí sản xuất kinh doanh thương mại nông nghiệp được thực thi là nông thôn. Nông thôn là khu vực khác với thành thị về khoảng trống, hoạt động giải trí kinh tế tài chính, đặc thù hội đồng và sinh thái xanh. Nông thôn gắn liền với đời sống, tập tục và truyền thống văn hoá của một hội đồng. Về phương diện kinh tế tài chính, nông thôn gồm có cả những nghành kinh tế tài chính, xã hội, môi trường tự nhiên, văn hoá, tài nguyên vạn vật thiên nhiên, tổ chức triển khai và thể chế, công nghiệp và hạ tầng cơ sở. VÌ thế tăng trưởng nông thôn phải gồm có tăng trưởng cả kinh tế tài chính, xã hội, tổ chức triển khai và thiên nhiên và môi trường .

1.2. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân

Có mốt số quan điểm cho rằng : khi xã hội tăng trưởng và đạt đến trình độ một nước công nghiệp thì : 1 ) nông nghiệp kém phần quan trọng hơn, dẫn chứng là tỷ trọng thu nhập quốc dân ( GDP ) của nông nghiệp trong nền kinh tế tài chính sẽ giảm xuống ; 2 ) hầu hết nông dân sẽ biến thành đại nông và sẽ hết hoặc rất ít tiểu nông, nông nghiệp đa phần là sản xuất quy mô lớn ; 3 ) kinh tế tài chính tăng trưởng thì tỷ trọng của lao động nông nghiệp sẽ giảm, một đại bộ phận dân cư nông nghiệp sẽ giảm, một đại bộ phận dân cư nông thôn sẽ không làm nông nghiệp nữa, do đó vị thế chính trị của nông dân hoàn toàn có thể giảm ; 4 ) nông thôn sẽ tân tiến như thành thị ( có nhà cao tầng liền kề, có những kiến trúc, quy hoạch, khoảng trống kiến trúc như thành thị ), nghĩa là sẽ mất đi cái cảnh “ làng ta cảnh sắc hữu tình, dân cư đông đúc như hình con long ” ; 5 ) văn hoá nông thôn chuyển dần từ văn hoá hội đồng, tộc họ sang văn hoá đô thị theo kiểu “ đèn nhà ai, nhà ấy rạng ”. Những quan điểm này đang Open và được bộc lộ tập trung chuyên sâu ở những thiên lệch trong hoạch định chủ trương tăng trưởng nông nghiệp và nông thôn. Liệu những quan điểm đó là đúng ? Thực tiễn tăng trưởng nông nghiệp và nông thôn ở những nước tăng trưởng và đang tăng trưởng đã chứng tỏ những quan điểm trên không tương thích với sự tăng trưởng chung. Kết quả nghiên cứu và phân tích thực tiễn và tổng kết lý luận về tăng trưởng nông thôn đã chỉ ra rằng, những quan điểm trên là không tương thích vì những nguyên do sau :

Thứ nhất, khi xã hội phát triển, nông nghiệp càng quan trọng, mặc dù tỷ trọng GDP của nông nghiệp trong nền kinh tế giảm xuống. Vị thế của nông nghiệp cũng đồng nghĩa với vị thế của nông dân, không chỉ nhìn vào giá trị GDP. Nông nghiệp trở nên đa chức năng. Nông nghiệp chẳng những có các chức năng kinh tế (cung cấp lương thực thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho công nghiệp), mà còn có chức năng văn hoá (bảo tồn các giá trị truyền thống thông qua các sản phẩm từ nông nghiệp), chức năng xã hội (sự liên kết phụ thuộc lẫn nhau của các nhóm xã hội, các cộng đồng thông qua sản xuất và trao đổi các sản phẩm nông nghiệp) và chức năng môi trường (quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên như: đất, nước, sinh vật và không khí). Nông nghiệp sẽ bảo tồn các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể mà hàng nghìn năm qua con người đã tích luỹ được. Nông nghiệp cân bằng các vấn đề xã hội, bằng chứng là các sự bất ổn của xã hội đều bắt đầu từ nông thôn trước. Nông nghiệp và nông thôn che phủ tới 90% tài nguyên đất, 100% tài nguyên rừng, 95% tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2006). Do đó, nếu chủ thể của nông nghiệp là nông dân không được nhìn nhận đúng thì chúng ta có phát triển ổn định và bền vững?

Thứ hai, khi xã hội phát triển và đạt đến trình độ một nước công nghiệp, thì không phải hầu hết nông dân sẽ biến thành đại nông, mà vẫn còn rất nhiều tiểu nông. Ngay ỏ những nươc phát triển, một xã hội nông thôn vẫn đa dạng, gồm có tầng lớp nông dân đại nông, trung nông, tiểu nông và cả những người làm thuê nông nghiệp (landless farmers). Thực tế chỉ chưa đầy 20% các hộ nông dân chuyển thành kinh doanh đại nông, phần lớn là trung nông và tiểu nông. Một đặc trưng phổ biến trong nông thôn là sự chấp nhận lực lượng lao động nông nghiệp không đất để bổ sung cho thị trường sức lao động. Đặc điểm này vừa là khách quan và vừa là tất yếu. Là khách quan vì không phải tất cả nông dân có kỹ năng như nhau. Có nhiều nông dân rất thành thạo việc canh tác cấy trồng, song cũng có một bộ phận nông dân chưa thật giỏi quản lý cây trồng, vật nuôi. Những người này đi làm thuê để kiếm sống thì tốt hơn là có đất để canh tác. Vì thế, nỗ lực để cho nông dân phát triển thành đại nông không thuần tuý dựa vào biện pháp hành chính, mà phải thông qua cơ chế thị trường, nhất là các thị trường đất đai và lao độngmà chúng ta hay miễn cưỡng khi nói đến vì nó “phạm phải” điều “cấm kỵ trước đây”.

Thứ ba,khi xã hội phát triển thì không phải tỷ trọng của lao động nông nghiệp (theo nghĩa rộng) sẽ giảm đi, không phải một đại bộ phận cư dân nông thôn sẽ không làm nông nghiệp nữa, vị thế chính trị của nông dân vẫn không hề giảm. Điều này đã thấy rất rõ ở các nước phát triển như: Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Canada… Điều quan trọng là quan niệm thế nào là làm nông nghiệp. Nông nghiệp theo cách nhìn mới là quá trình sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, từ khâu nuôi trồng trên đồng ruộng, tới sản phẩm bày trên bàn ăn của người tiêu dùng. Có thể tỷ trọng những người trực tiếp tham gia cày cuốc, cấy trồng sẽ giảm, nhưng tỷ trọng những người tham gia vào quá trình làm ra nông sản thực phẩm sẽ không giảm. Tỷ lệ này ở Pháp, Canada… vẫn không giảm trong vài thập kỷ qua. Mặt khác do làm ra các sản phẩm nuôi sống con người, quản lý lượng lớn tài nguyên của quốc gia (đất, nước, rừng…) nên vị thế chính trị của nông dân càng ngày càng quan trọng.

Thứ tư,khi xã hội phát triển, thì nông thôn sẽ phát triển, nhưng nét hiện đại của nông thôn vẫn không như thành thị. Nông thôn vẫn giữ nguyên cái không gian làng xã, gắn với cấu trúc dân cư phản ánh nét văn hoá riêng của từng tộc người, từng cộng đồng. Cái hiện đại sẽ là hệ thống hạ tầng, hiện đại của kiến trúc làng xã chính là đưa về cấu trúc kiến trúc mang bản sắc văn hoá phù hợp với từng cộng đồng và các căn nhà được trang bị một cách phù hợp với nhu cầu và tập quán của cộng đồng cư dân. Điều đáng lo ngại hiện nay là: do thiếu chỉ đạo và thiếu hướng dẫn nên nhiều làng quê đang được bê tông hoá, nhà ống, ngay cả các khu định cư mới của đồng bào dân tộc ở các công trình thủy điện Sơn La, Yaly, Na Hang… người dân tộc được cấp nhà mặt tiền mặt hậu, gần nhau san sát, đúng như văn hoá kiến trúc của người Kinh. Chúng ta nên định hướng quy hoạch và phát triển nông thôn theo từng vùng, miền phù hợp với văn hoá của tộc người và cộng đồng. Những nơi làm tốt đã và đang trở thành các điểm du lịch nhân văn – sinh thái. Nếp nhà rông của người dân Tây Nguyên mang hình lưỡi rìu – công cụ mà họ gắn bó với rừng bao đời nay. Trái lại, mái nhà tranh của cư dân Bắc Bộ mang hình con thuyền úp ngược – công cụ mà cư dân của nền văn minh sông nước dùng, úp ngược lại khi có mùa đánh bắt bội thu.

Thứ năm, khi xã hội phát triển thì không phải văn hoá nông thôn chuyển dần từ văn hoá cộng đồng, tộc họ sang văn hoá đô thị theo kiểu “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Cấu trúc cộng đồng nông thôn được dựa trên quan hệ tộc họ, các tộc họ liên kết nhau lại, sống chung một dải đất, thờ chung một “thành hoàng” (như ở đồng bằng), chung một “mẫu mẹ” như ở trung du, chung một Yang (như ở Tây Nguyên), chung một thần núi, thần rừng… như ở các vùng núi. Lòng tin có giá trị kinh tế và xã hội đặc biệt. ”Yên tâm đi, cả làng thuộc vào họ nhà này cả”. Điều này không thể có được ở thành phố. Do cùng một họ, cư dân nông thôn có thể tạo ra sự thống nhất cao trong cộng đồng, văn hoá cộng đồng sẽ kết gắn họ lại.

2.Một số vấn đề đặt ra của nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam hiện nay.

2.1.Nông nghiệp

Nông nghiệp nước ta vẫn là ngành sản xuất quan trọng của nền kinh tế tài chính. Nông nghiệp tao ra 85 % việc làm dân cư nông thôn và là nguồn sinh kế kiếm sống của hơn 70 % dân số cả nước. Trong thời hạn qua, nông nghiệp, đặc biệt quan trọng là lương thực thực phẩm tăng khá, đã góp thêm phần to lớn vào việc bảo vệ bảo mật an ninh lương thực và góp thêm phần quan trọng không thay đổi chính trị, xã hội của quốc gia. Đến năm 2008, sản lượng lương thực ( quy thóc ) đạt 25,4 triệu tấn, trong đó lương thực có hạt ( lúa, ngô ) 42,9 triệu tấn, riêng lúa đạt 38,73 triệu tấn ; sản lượng rau, đậu thực phẩm đạt 12 triệu tấn ; quả những loại trên 8 triệu tấn ; sản lượng thịt hơi những loại đạt 3,44 triệu tấn, trứng trên 5 tỷ quả, sữa tươi 280 nghìn tấn ; sản lượng thủy hải sản đạt 4,3 triệu tấn. Bình quân đầu người / năm 2008 : lúa 421 kg ; rau, đậu thực phẩm 154,5 kg ; quả những loại 97,7 kg ; thịt hơi những loại 39,7 kg, trứng 58 quả, sữa tươi 3,2 kg ; thủy hải sản 50 kg. So với năm 2000, những mẫu sản phẩm lương thực, thực phẩm tăng trung bình đầu người từ 20 đến 30 % ( riêng sữa tươi tăng gấp 4,5 lần, lúa gạo tăng 12 % ). Mức phân phối dinh dưỡng trung bình đạt 2.400 Kcl / người / ngày, riêng từ gạo chiếm 72,8 % ( khoảng chừng hơn 1.600 Kcal / người / ngày ). Hàng năm Nước Ta xuất khẩu từ 4,5 – 5 triệu tấn gạo ( đứng thứ 2 quốc tế ), riêng năm 2008 xuất khẩu 4,74 triệu tấn gạo, thu về 1,9 tỷ USD ; thủy hải sản đạt 4,51 tỷ USD. Do sản xuất tăng trưởng, nguồn lương thực, thực phẩm tăng nhanh, năng lực tiếp cận tốt hơn, nên tỷ suất nghèo nàn và trẻ nhỏ suy dinh dưỡng giảm đáng kể. Năm 2007, cả nước tỷ suất hộ nghèo còn 14,8 %, năm 2008 còn 12,1 % mỗi năm giảm được 0,7 – 1,0 % tỷ suất trẻ nhỏ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33 % năm 2002 xuống còn 21,1 % năm 2007 ; đây là một bước tiến quan trọng trong Chương trình tiềm năng Quốc gia giảm nghèo quá trình 2006 – 2010 ( Bộ NN và PTNT, 2009 ) .Tuy nhiên, sự tăng trưởng của nông nghiệp nước ta bộc rõ một số ít thử thách sau đây :

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp giảm dần. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp đạt 4,5%/năm trong những năm 1992-1995, 3,9-4,0% những năm 1995-2000, tiếp tục giảm xuống 3,7% giai đoạn 2000-2005 và tiếp tục giảm tới 2,1-2,8% những năm 2006-2008 (Bộ NN và PTNT, 2009). Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân: cơ sở vật chất kỹ thuật của nông nghiệp nghèo nàn, sản xuất nông nghiệp quá lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên, bị ảnh hưởng lớn của thiên tai. Hơn nữa, năng suất biên của đầu tư trong năng suất tổng số của nền nông nghiệp có xu hướng giảm dần. Điều đó nói lên rằng, hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp đã đạt tới cận trên của đường cong năng suất. Do đó, động lực thúc đẩy cho nông nghiệp tăng trưởng là phải tập trung đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ để có thể tăng năng suất nông nghiệp ổn định và bền vững.

Thứ hai, đầu tư công cho nông nghiệp có xu hướng giảm dần.Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp trong tổng đầu tư công của nền kinh tế từ 15% trong những năm 1997-2006 giảm xuống còn 8,6% trong năm 2007. Đầu tư của xã hội cho nông nghiệp tính trong đầu tư của toàn nền kinh tế giảm từ 13,8% nàm 2000, xuống còn 7,5% năm 2007. Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài trong ngành nông nghiệp chiếm chưa đầy 4,0% vào năm 2007 (Đặng Kim Sơn, 2008). Thực trạng trên là một trong những lý do quan trọng làm cho tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp chậm lại.

Thứ ba, tỷ lệ giá cánh kéo ngày càng bất lợi cho nông nghiệp.Sự bất lợi trên thể hiện ở chỗ giá đầu ra của nông nghiệp tăng chậm hơn so với mức độ tăng giá đầu vào của nông nghiệp. Trong giai đoạn 1989 – 2000, giá đầu ra của nông nghiệp tăng 14,3%, thì giá đầu vào tăng 19,9%, giai đoạn 2000-2006, giá đầu ra tăng 4,2%, thì giá đầu vào tăng 10,0%. Điều đó có nghĩa là nông dân phải đổi nhiều nông sản hơn để có được một đơn vị đầu vào dùng cho nông nghiệp. Lợi nhuận mà nông dân thu được đang bị giảm dần. TÍnh trừ chi phí, thu nhập một ngày lao động của nông dân Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định, Phú Thọ, Thanh Hoá chỉ chưa đầy 2000-3000đ/ngày công (Đỗ Kim Chung, 2008).

Thứ tư, diện tích đất nông nghiệp đang suy giảm. Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá bình quân mỗi năm cả nước mất khoảng 74.000 ha đất nông nghiệp chuyển thành đất phi nông nghiệp (Nguyễn Sinh Cúc, 2008). Trong giai đoạn 2000 2005 đã có 366,4 nghìn ha đất nông nghiệp chuyển sang phi nông nghiệp (chủ yếu xây dựng hạ tầng, các khu, cụm công nghiệp và đô thị); trong đó 302,5 nghìn ha đất lúa (phần lớn là đất canh tác thuần thục). Ở các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, nếu chuyển 1 ha đất nông nghiệp thành khu công nghiệp thì sẽ làm mất một tài sản kinh tế và ảnh hưởng đến ít nhất 12-25 người dân sống ở nông thôn (Đỗ Kim Chung, 2008). Điều này sẽ đe doạ tới quỹ đất nông nghiệp và khả năng đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm cho Việt Nam. Tình trạng manh mún đất tiếp tục diễn ra bởi quá trình tách hộ, thừa kế tài sản đất đai diễn ra ngày một nhiều. Tình trạng này hạn chế đến việc áp dụng cơ khí và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất nông nghiệp.

2.2. Nông dân

Nông dân sản xuất nhỏ và manh mún.Cả nước hiện nay vó 12,6 triệu hộ nông dân. Bình quân mỗi hộ có 2,2 lao động, canh tác trên 0,4-1,2 ha. Số hộ có diện tích dưới 0,5 ha chiếm tới 61,2%. Nhiều nơi ở đồng bắng sông Hồng và miền Trung chỉ dưới 0,3 ha/hộ, cá biệt có xã quy mô đất sản xuất dưới 0,1 ha/hộ. Trong nông thôn, tỷ lệ số hộ chia đất của mình cho con cái theo truyền thống thừa kế tài sản chiếm tới 90%, trong số đó, số hộ tập trung ruộng đất để phát triển trang trại chưa đầy 3% (Đỗ Kim Chung, 2000). Do vậy, nông dân sản xuất nhỏ, manh mún vẫn là đặc trưng chủ yếu.

Cả nước đến năm 2008 có 113,7 nghìn trang trại. Trong đó, ĐBSCL chiếm 50 % ; cả ba vùng ( ĐBSCL, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ ) có 80.063 trang trại, chiếm 70,4 % số trang trại cả nước. Xu hướng từ năm 2001 đến nay tăng mạnh trang trại chăn nuôi, thủy hải sản và sản xuất kinh doanh thương mại tổng hợp ( đa canh ) ; từ năm 2001 – 2007, trang trại trồng cây hàng năm giảm 35,6 % xuống còn 28,7 % ; trồng cây nhiều năm giảm từ 27,2 % còn 20,1 % ; trang trại chăn nuôi tăng từ 2,9 % lên 14,6 % ; trang trại nuôi trồng thủy hải sản từ 27,9 % lên 29,6 % … ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009 ) .

Càng làm nông nghiệp nông dân càng nghèo, làm lúa nông dân nghèo hơn.Cả nước 71% dân số làm nông dân, tỷ lệ nghèo là 20,4% cao gấp 4 lần so với cư dân không làm nông dân (5,0%). Cả nước có 53% dân số làm nghề trồng lúa và tỷ lệ nghèo của người trồng lúa là 23,4% gấp 3 lần so với những người không làm lúa (7,5%) (Đỗ Kim Chung, 2009).

Thu nhập của nông dân còn thấp.Mặc dù tỷ lệ lãi trong sản xuất lúa chiếm từ 35-45% (tuỳ vụ), nhưng thu nhập bình quân của hộ nông dân còn thấp (kể cả công lao động tự làm được gần 3 triệu đồng/hộ/vụ). Trong khi đó, việc đóng góp tuy đã giảm nhiều, nhưng bình quân chung vẫn còn cao (2007 còn 28 khoản, Bộ NN và PTNT, 2009). Mặt khác, ở nhiều vùng hạn hán, bão, lũ thường xuyên xảy ra, giá cả còn bấp bênh, nên thu nhập của người sản xuất (nhất là trồng lúa) còn rất thấp, tính rủi ro cao.

Nông dân di cư vào thành thị và các vùng nông thôn khác. Do thu nhập thấp, nông nghiệp trở nên không hấp dẫn, nhiều lao động nông thôn di cư vào thành thị để kiếm việc làm. Do đó, có tới 84,4% số hộ nông thôn ít nhiều có người đi làm thuê ở nơi khác (Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và CARE, 2006). Tình trạng nông dân di cư vào thành thị đã để lại ở nông thôn một lực lượng lao động nữ và người già. Những người nông dân kiếm việc làm ở thành thị chịu nhiều rủi ro về kinh tế và xã hội.

2.3. Nông thôn

Sự phát triển của nông thôn Việt Nam thể hiện ở các đặc điểm chủ yếu sau: T hứ nhất, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, điện góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Đến nay, điện lưới quốc gia đã cấp điện cho 525/536 huyện đạt 97,95% (còn 1 huyện Mường Tè – Lai Châu, và 10 huyện đảo chưa có điệ lưới nhưng đã có điện diesel hoặc thủy điện nhỏ tại chỗ); 10.522 xã phường có điện lưới quốc gia, đạt 96,8%; số hộ có điện lưới quốc gia đat 93,34%; hầu hết các xã (98,9%). Thứ hai,nhà ở nông thôn đã được đầu tư xây dựng mới một cách nhanh chóng. Nhiều xã, thôn ở nông thôn vùng đồng bằng Băc Bộ, vùng miền Trung đã cơ bản hoàn thành việc “xoá” nhà tranh tre, nứa lá; vùng đồng bằng sông Cửu Long cơ bản hoàn thành việc “xoá” nhà tạm, nhà dột nát… Nhiều huyện, xã ở miền Bắc và miền Trung đã cơ bản “ngói hoá” nhà ở. Thứ ba, về thông tin liên lạc: tính đến năm 2006 đã lắp được hơn 2.848 tổng đài bưu điện tại vùng nông thôn, 64/64 tỉnh thành có mạng cáp quang; 100% xã có điện thoại cố định, bình quân 6,67 máy/100 dân; lắp đặt 749 trạm truy cập Internet và hơn 80.000 thuê vao Internet tại khu vực nông thôn; 7.920 điểm bưu điện văn hoá xã, đạt 85,5% (năm 2001 là 72%) (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009). Thứ tư, đời sống vật chất và tinh thầnđược cải thiện một bước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nông thôn Việt Nam đang phải đương đầu với các thách thức sau đây:

Thứ nhất, dân số tăng nhanh, tài nguyên đất nông nghiệp giảm tính trên đầu người giảm, làm tăng nguy cơ không an ninh về lương thực thực phẩm.Tỷ lệ dân số nông thôn giảm từ 93,1% năm 1930 xuống 75% năm 2005 và 73,0% năm 2009. Cùng với gia tăng dân số, mức ruộng đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm từ 2.542m2 năm 1930 xuống 630m2 vào năm 2005 (bảng 1). Việc giảm diện tích đất nông nghiệp (nhất là đất lúa), cùng với tốc độ tăng dân số còn cao đã làm cho sản lượng lúa bình quân đầu người giảm dần (năm 2005 đạt bình quân 431 kg/người/năm, năm 2006 còn 426 kg, năm 2007 còn 421 kg và năm 2008 còn dưới 410 kg).

Bảng 1: Dân số nông thôn và bình quân đất nông nghiệp trên đầu người của Việt Nam

Năm

Dân số nông thôn (triệu người)

Tỷ lệ dân số nông thôn (%)

Đất nông nghiệp/khẩu (m2)

1930 16,375 93,1 2.542
1960

25,615

84,8 1.671
1990 45,143 80,6 829
2000 59,065 76,5 680
2005 63,750 75,0 630

Nguồn: Số liệu từ 1930-2000 trích trong Đỗ Kim Chung, 200, số liệu 2005 từ Niên giám thống kê.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng ở nông thôn vẫn còn rất nghèo nàn.Tuy nhiều nơi được báo cáo là đã hoàn thành các mục tiêu cơ bản của phát triển nông thôn, nhưng chất lượng các cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn rất thấp.

Thứ ba, nông thôn đang được đô thị hoá và công nghiệp hoá trong bối cảnh chưa có quy hoạch tổng thế. Kiến trúc không gian nông thôn đang bị phá vỡ, môi trương nông thôn đang bị giảm cấp, tình trạng thất nghiệp của cư dân nông thôn đang tăng.

3. Định hướng chính sách cho vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn

3.1. Quan điểm

Để tăng trưởng được nông nghiệp, nông thôn và xử lý tốt yếu tố nông dân, cần coi nền kinh tế tài chính là hai khu vực : khu vực góp vốn đầu tư công và khu vực tư nhân. Do đó, sự can thiệp chủ trương của nhà nước cho tăng trưởng nông nghiệp và nông thôn cần tập trung chuyên sâu vào khu vực góp vốn đầu tư công – những nghành nghề dịch vụ không hấp dẫn đầu tư tư nhân. Đầu tư công là để tạo điều kiện kèm theo cho khu vực tư nhân tăng trưởng. Sự can thiệp của nhà nước phải dựa trên cơ sở cơ chế thị trường. nhà nước không làm thay thị trường. Thị trường điều tiết kinh tế tài chính tư nhân về cơ cấu tổ chức nền kinh tế tài chính nông nghiệp – nông thôn theo quy luật giá trị .

3.2. Một số định hướng chính sách

3.2.1. Định hướng chính sách phát triên nông nghiệp

Thực hiện tốt quy hoạch nông nghiệp. Quy hoạch nông nghiệp phải được đi trước một bước khi quy hoạch công nghiệp và đô thị. Quy hoạch nông nghiệp phải mang tính lâu dài hơn, bảo vệ bảo mật an ninh lương thực vương quốc một cách bền vững và kiên cố, không phải 5 hay 10 năm mà là phải nhiều thập kỷ. Từ quy hoạch toàn diện và tổng thể mới có địa thế căn cứ góp vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn .Tăng cường góp vốn đầu tư công cho nông nghiệp. Lĩnh vực góp vốn đầu tư công của nông nghiệp nhằm mục đích tạo điều kiện kèm theo để kinh tế tài chính tư nhân, những tổ chức triển khai kinh tế tài chính nâng cao được năng lượng cạnh tranh đối đầu, tham gia hiệu suất cao vào thị trường. Đầu tư công của nông nghiệp tập trung chuyên sâu vào những nghành không hấp dẫn đầu tư tư nhân như tăng cường hạ tầng, thuỷ lợi, giao thông vận tải, trấn áp dịch bệnh, phòng chống thiên tai, điều tra và nghiên cứu khoa học, khuyến nông, tăng nhanh triển khai thương mại và phân phối thông tin .Thực hiện thay đổi công nghiệp vận dụng trong nông nghiệp theo hướng công nghệ tiên tiến ngân sách thấp, tăng hiệu suất cao và sức cạnh tranh đối đầu của nông nghiệp .Thực hiện thay đổi chính sách quản trị nông nghiệp. Phân định rõ vai trò của Nhà nước và của thị trường trong việc phát triiển nông nghiệp. Tránh thực trạng Nhà nước làm thay thị trường .

3.2.2. Định hướng chính sách đối với nông dân

Tập trung nguồn lực triển khai tương hỗ nông dân về kiến thức và kỹ năng và kỹ năng và kiến thức để ra những quyết định hành động trong cơ chế thị trường. Thực hiện giảng dạy nghề, nhất là ở những nơi đô thị hoá và tịch thu đất làm khu công nghiệp. Thực hiện tốt công tác làm việc khuyến nông, chuyển giao công nghệ tiên tiến để nông dân sản xuất hàng hoá, tăng cao sức cạnh tranh đối đầu của mẫu sản phẩm nông nghiệp. Tăng cường vai trò của những tổ chức triển khai tự quản của Hội nông dân. Có chủ trương đơn cử cho nông dân ở những vùng sản xuất khác nhau, nhất là những vùng được quy hoạch bảo vệ bảo mật an ninh về lương thực thực phẩm. Gắn góp vốn đầu tư công với tăng trưởng kinh tế tài chính và xoá bỏ đói giảm nghèo một cách bền vững và kiên cố. Tôn trọng và có chủ trương bảo vệ cho vận động và di chuyển có hiệu qủa lao động nông thôn. Xoá bỏ chủ trương hộ khẩu để cho lao động tự do chuyển dời, tìm thời cơ việc làm .

3.2.3. Định hướng chính sách phát triển nông thôn

Để tăng trưởng vững chắc nông thôn, phải triển khai đồng thời những giải pháp về kinh tế tài chính, xã hội và thiên nhiên và môi trường. Về kinh tế tài chính cần tập trung chuyên sâu góp vốn đầu tư cho tăng trưởng kiến trúc nông thôn, kiến trúc nông thôn, cung ứng thông tin, vận dụng công nghệ tiên tiến để tăng cao sức cạnh tranh đối đầu của loại sản phẩm được sản xuất từ nông thôn. Về xã hội, phải tăng trưởng kiến trúc nông thôn, kiến trúc nông thôn, phân phối thông tin, vận dụng công nghệ tiên tiến để tăng cao sức cạnh tranh đối đầu của loại sản phẩm được sản xuất từ nông thôn. Về xã hội, phải tăng trưởng tổ chức triển khai xã hội theo hướng tăng cao vai trò và sự tham gia của dân cư nông thôn. Cần đồng ý nền kinh tế tài chính nông thôn có hộ nông dân, trang trại và những doanh nghiệp tăng trưởng ở những mức độ khác nhau, thậm chí còn cả nông dân không đất. Tôn trọng và tạo điều kiện kèm theo cho thị trường sức lao động, thi trường đất đai và thị trường khoa học công nghệ tiên tiến tăng trưởng. Về môi trường tự nhiên, cần bảo tồn tài nguyên đất, nước và sinh vật, thực thi quản trị tốt thiên nhiên và môi trường nông thôn. / .Tài liệu tìm hiểu thêm1. Đỗ Kim Chung, 2002, Từ marketing nông nghiệp sang marketing thực phẩm nông sản : Kinh nghiệm từ những nước Châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tài chính ssó 291, tháng 11-2002 .2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2006, Báo cáo về đa dạng sinh học, Thành Phố Hà Nội .3. Đỗ Kim Chung, 2000, Thị Trường đất đai trong nông nghiệp Nước Ta : Thực trạng và những xu thế chủ trương, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tài chính số 260, tr. 21-31 .4. Đỗ Kim Chung, 2003, Rural development for Poverty Reduction and Growth in Vietnam, Vietnam Journal of Agriculture and Rural Development, Hanoi, pp 30-32 .5. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009, Đề án bảo mật an ninh lương thực vương quốc đến năm 2020, TP. Hà Nội .6. Đặng Kim Sơn, 2008, Nông nghiệp, nông dân và nông thôn Nước Ta, Nxb Chính trị vương quốc .

7.    Đỗ Kim Chung, 2008, Học thuyết kinh tế đối ngẫu trong phát triên nông thôn: bài học kinh nghiệm của Trung Quốc cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 371, tr.46-50.

8. Đỗ Kim Chung, 2009, An ninh lương thực thực phẩm : một số ít yếu tố lý luận và thực tiễn, xu thế chủ trương cho Nước Ta, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 135, năm 2009 .

9.    Nguyễn Sinh Cúc, 2008, Làm gì để phát triển bền vững tam nông trong thời gian tới. Tạp chí Ban tuyên giáo trung ương, http://tuyengiao.vn/Home/diendan/2008/7/74.aspxtrích lúc 13h23’ ngày 18/7/2008.

10. Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật Nước Ta và CARE, 2006, Kết quả tìm hiểu lao động di cư ở nông thôn .