Lạm phát 2011: Nhận diện và giải pháp
Huỳnh Thế Du
Bạn đang đọc: Lạm phát 2011: Nhận diện và giải pháp
Nguyễn Việt Tiến – [email protected] :
Xin đặt câu hỏi đến với anh Huỳnh Thế Du : Lạm phát so với Việt Nam là không mới, theo anh nguyên nhân sâu xa của lạm phát ở Việt Nam là gì ?
Đặng Huyền Trang – Nữ 23 tuổi – Sinh viên :
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Theo tôi nghĩ phải xác lập được cái gốc, rồi mới hoàn toàn có thể có những giải pháp đơn cử. Theo những vị thì đâu là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Thân chào các bạn,
Nói một cách ngắn gọn, theo tôi, lạm phát ở Việt Nam là do yếu tố tiền tệ do chi tiêu công quá mức và phân bổ vốn thiên lệch ở khu vực thị trường (doanh nghiệp). Điều này có thể giải thích cụ thể như sau:
Chúng ta biết rằng lạm phát là mức tăng giá chung của cả nền kinh tế. Nguyên nhân gây ra lạm phát có thể là từ bên ngoài (khách quan) hay những vấn đề nội tại của nền kinh tế (nguyên nhân chủ quan), nhưng căn nguyên của lạm phát chính là yếu tố tiền tệ.
Điều này được hiểu một cách đơn giản qua ví dụ năm ngoái trong nền kinh tế có 100 đơn vị hàng hóa và 100 đồng tiền thì giá 1 hàng hóa là 1 tiền. Năm nay, do tăng trưởng kinh tế 10% nên nền kinh tế có 110 đơn vị hàng hóa. Do những yếu tố khác nhau (chủ yếu vẫn là việc gia tăng cung tiền của ngân hàng trung ương) mà nền kinh tế có đến 121 đơn vị tiền. Kết quả là giá 1 hàng hóa bằng 1,1 tiền hay lạm phát là 10%.
Ngoài yếu tố tiền tệ, trong ngắn hạn, lạm phát cũng có thể do cầu kéo hay chi phí đẩy. Một ví dụ đơn giản nhất của cầu kéo là những gói kích thích kinh tế của chính phủ. Với một kế hoạch chi tiêu lớn được đưa ra sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế gia tăng dẫn đến mức giá gia tăng trong ngắn hạn.
Sự nóng lên bất thường của các thị trường tài sản (chứng khoán, bất động sản…) cũng có thể gây ra lạm phát cầu kéo do nhiều người trở nên giàu có bất thường sẽ gia tăng mức chi tiêu rất lớn của mình dẫn đến tăng tổng cầu của cả nền kinh tế tăng.
Đối với lạm phát chi phí đẩy, ví dụ dễ nhìn thấy nhất là do một cú sốc cung nào đó mà làm cho nguồn cung khan hiếm hay giá nguyên liệu đầu vào đột ngột tăng lên làm cho mức giá chung của cả nền kinh tế tăng lên tưc thì. Ví dụ hay được nhắc tới trogn tình huống này là cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế giới ở thập niên 1970.
Tuy nhiên, nếu có chính sách tiền tệ hợp lý sao cho mức tăng cung tiền trong nền kinh tế phù hợp với mức tăng của hàng hóa thì tác động của lạm phát do cầu kéo hay chi phí đẩy sẽ không kéo dài.
Căn cứ vào những lập luận trên và số liệu thực tế sẽ thấy nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát của Việt Nam không phải do các yếu tố bên ngoài. Trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự.
Ở các nước này, nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP (cụ thể là hầu hết đều dưới 5%), trong khi từ năm 2004 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010 ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng GDP; và chỉ mới 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã gần 2 con số.
Rất khó thuyết phục để có thể nói rằng lạm phát ở Việt Nam là do các yếu tố khách quan vì nếu là bên ngoài thì hầu hết các nước cũng phải chịu tác động như nhau chứ tại sao chỉ có mình Việt Nam là cao bất thường.
Tóm lại, nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam, theo tôi, chính là yếu tố tiền tệ. Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do đầu tư công quá mức. Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nền tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng như phân tích dưới đây.
Thứ hai, sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị trường). Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí khoảng 4 tỷ đô la trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Đối với một số doanh nghiệp tư nhân lớn, chúng ta thấy rằng, không ít trong số họ chủ yếu tập trung vào các hoạt động kinh doanh (nói đúng hơn là đầu cơ) các loại tài sản (bất động sản, chứng khoán …) hay tìm kiếm tài nguyên quốc gia chứ không phải tập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Điều đáng quan tâm là hầu hết các doanh nghiệp này không chỉ có các ngân hàng hay tổ chức tài chính riêng của mình mà còn có quan hệ chặt chẽ với không ít các tổ chức tài chính ngân hàng lớn hay những mối quan hệ khác.
Điều này làm cho các khoản cho vay theo quan hệ trở nên phổ biến hơn và một phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào các hoạt động kinh doanh có tính đầu cơ gây rủi ro hơn là tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Dĩ nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính giải quyết việc làm và là động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn và khó tiếp cận vốn hơn nên có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua ngày.
Thứ ba, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Như nhiều lần tôi đã phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút.
Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự phân bổ vốn thiệc lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên bất thường có nhu cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao đồng tiền làm cho tình trạng nhập siêu ngày một căng thẳng hơn.
Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở mức rất cao.
Dương Việt Anh – Nam 33 tuổi – Kinh doanh :
Lạm phát là gì ? Tôi cứ nghe mà không hiểu, chỉ biết Chi tiêu leo thang, tiền mất giá trị. Vậy nguyên nhân dẫn đến lạm phát là gì ? Xin cho tôi biết để lý giải với những người trong mái ấm gia đình và xung quanh tôi. Xin cảm ơn .
Bà Trần Thị Hằng :
Hiện tại, nhiều người vẫn coi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là lạm phát. Đúng ra, chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối (tính theo phần trăm), phản ánh biến động về giá cả chung qua thời gian của một số lượng (hay còn gọi là “rổ”) hàng hóa, dịch vụ đại diện cho tiêu dùng cuối cùng phục vụ đời sống bình thường của người dân.
Như vậy, CPI có thể tăng, hoặc giảm so với một thời kỳ gốc nào đó. Trong khi đó lạm phát là biểu hiện của việc chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục trong một thời gian dài và nó phản ánh sự mất cân đối, trong đó chủ yếu là mất cân đối giữa tiền và hàng.
Thiệu Ngọc Dân Thịnh – Nữ 29 tuổi – Tài chính :
Theo những diễn thuyết, có phải có một nguyên nhân lạm phát là do niềm tin của người dân là có lạm phát và nhà nước sẽ không hề kiềm chế lạm phát hay không ? Từ niềm tin này dẫn dắt người dân đi đến những hành vi làm cho lạm phát thật sự xảy ra … ?
Ông Nguyễn Đình Cung :
Có thể nói, nguyên nhân của lạm phát thì có nhiều. Có thể phân thành hai loại, một là do nội tại của nền kinh tế và loại do bên ngoài. Đối với nền kinh tế nước ta trong mấy năm gần đây, bất ổn kinh tế vĩ mô trở thành vấn đề thường xuyên, trong đó lạm phát cao là vấn đề nổi cộm.
Theo tôi, điều đó bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước.
Mô hình và cách thức tăng trưởng như thế hiện đã tới hạn của nó. Tuy mô hình và cách thức tăng trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở rộng đầu tư. Để mở rộng đầu tư thì chúng ta buộc phải mở rộng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để có đầu tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, M2, thâm hụt tài khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng… tất cả những điều đó là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Còn đối với lạm phát hiện nay, nhất là trong tháng 3,4 và có thể các tháng tới đây, ngoài những nguyên nhân nói trên thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt hàng khác kết hợp với giá cả trên thị trường thế giới cũng tăng cao trong 2 tháng vừa qua đã tác động trực tiếp làm tăng chi phí sản xuất, cho nên tỷ lệ lạm phát trong hai tháng qua cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô đã làm giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, người dân kỳ vọng lạm phát sẽ còn tiếp tục tăng. Điều đó cũng là một trong những yếu tố tạo áp lực lên lạm phát, song đó không phải là nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát.
Nguyễn Khánh Toàn – Nam 32 tuổi – Kinh doanh :
Liệu trong tương lai Tổng cục Thống kê có tính lại cách tính chỉ số CPI không ( rổ tính CPI ) ?
Bà Trần Thị Hằng :
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) do Tổng cục Thống kê thực hiện từ năm 1995 cho đến nay, áp dụng đúng hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Đây cũng là chuẩn mực quốc tế mà hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng.
Khi tính chỉ số giá tiêu dùng cần có hai yếu tố quan trọng, một là cơ cấu chi tiêu các nhóm hàng hóa và dịch vụ phổ biến trong tổng chi tiêu của dân cư (gọi là quyền số); hai là giá của các hàng hóa và dịch vụ đại diện được chọn để thu thập lấy giá theo từng tháng.
Quyền số CPI của hầu hết các nước trên thế giới thường được sử dụng cố định trong 4-5 năm, một số ít nước thậm chí sử dụng trong khoảng 10 năm (trong điều kiện nền kinh tế ít có biến động, hoặc những nước không có điều kiện kinh phí tổ chức điều tra tính lại cơ cấu này).
Quyền số CPI hiện nay của Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) được tính toán và tổng hợp từ kết quả cuộc điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình và điều tra quyền số chỉ số giá tiêu dùng, do Tổng cục Thống kê thực thiện năm 2008 và đầu 2009.
Như vậy, theo định kỳ thường xuyên thì 4-5 năm sau Tổng cục Thống kê sẽ tổ chức điều tra để tính toán lại quyền số này, đảm bảo tính phù hợp với cơ cấu chi tiêu dùng của người dân thay đổi theo thời gian, trên cơ sở phát triển kinh tế chung của đất nước và thu nhập của người dân.
Mặt khác, sau 4-5 năm áp dụng cũng cần phải tiến hành điều tra tính lại cơ cấu chi tiêu này, do việc thay đổi chủng loại và chất lượng sản phẩm, có những mặt hàng sẽ không còn được tiêu dùng phổ biến nữa, có nhiều mặt hàng mới được ưa chuộng hơn…
Duy Cường – Nam 31 tuổi – NĐT :
CPI tăng gần 10 % sau 4 tháng, cao hơn tiềm năng 7 % Quốc hội đề ra. Thưa những chuyên viên, những ông tâm lý thế nào về việc chỉ sau 4 tháng, chỉ tiêu tiên phong mà Quốc hội đặt ra đã chính thức ” triển khai xong ” ?
Ông Nguyễn Đình Cung :
Thực tế cho đến nay, hết tháng 4 thì tỷ lệ lạm phát so với tháng 12/2010 đã tăng 9,64%, tức là đã cao hơn 2,64 điểm % so với mục tiêu của Quốc hội đã thông qua.
Đa số ý kiến cho rằng, tỷ lệ lạm phát tháng 5 vẫn có thể ở mức tăng 2% và có thể suy giảm từ quý 3/2011. Như vậy, tỷ lệ lạm phát của năm nay chắc chắn sẽ cao hơn chỉ tiêu mà Quốc hội đã thông qua.
Liêm Lê – Nam 34 tuổi – Quản lý :
Chào ông Huỳnh Thế Du, dưới góc nhìn kinh tế tài chính, lãi suất vay lúc bấy giờ những ngân hàng nhà nước đang vận dụng cho vay ( trung bình 20 % / năm ) có những tác động ảnh hưởng tích cực và xấu đi gì đến nền kinh tế tài chính cũng như sự tăng trưởng xã hội ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Một mặt, lãi suất cao là kết quả của lạm phát cao và việc thắt chặt tiền tệ của Ngân Hàng Nhà nước. Lãi suất cao, đầu tư sẽ giảm do vậy sẽ giảm áp lực tăng giá trong trước mắt. Tuy nhiên, khi đầu tư giảm sẽ dẫn đến tăng trưởng giảm đó là tác động trực tiếp của lãi suất cao.
Ở đây có một vấn đề cần quan tâm là hiện tượng lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại) khi lãi suất bị đẩy lên cao. Khi lãi suất cao, những hoạt động kinh doanh thông thường với suất sinh lợi kèm với rủi ro vừa phải không thể đi vay được vì suất sinh lợi không bù đắp được chi phí lãi vay. Chỉ những khoản đi vay có rủi ro cao kèm với suất sinh lợi cao mới có thể vay được. Hiện tượng này gọi là lựa chọn ngược.
Hơn thế, đối với những người đi vay, do lãi suất cao, để có thể bù đắp được chi phí lãi vay nên người ta có xu hướng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh rủi ro cao hơn để mong có được một suất sinh lợi tương ứng. Đây chính là tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức.
Nếu vòng xoáy trên cứ tiếp tục thì cuối cùng hầu hết các khoản vay đều là những khoản vay có rủi ro hay không trả được nợ cao. Hậu quả là nợ xấu ngân hàng cao và đến một lúc nào đó các ngân hàng có thể mất thanh khoản kéo theo toàn hệ thống sụp đổ do hiệu ứng dây chuyền.
Nói chung, khi lãi suất cao mà nguyên nhân căn bản của nó chính là lạm phát cao kéo dài sẽ tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nền kinh tế. Do vậy, việc duy trì mức tăng giá hay lạm phát thấp là vấn đề cốt lõi đối với một nền kinh tế và đây cũng phải là ưu tiên hàng đầu của chính phủ song song với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Duy Cường – Nam 31 tuổi – NĐT :
Xin hỏi những diễn thuyết, đã khi nào những ông nghe người trong mái ấm gia đình than vãn về giá thành leo tháng chưa. Xin cảm ơn ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Tôi không chỉ nghe người trong gia đình than thở mà còn cảm nhận được sức nóng của tốc độ tăng giá.
Mấy năm trước, tôi đổ xăng chỉ có mấy chục nghìn, nhưng lần gần đây nhất đã lên đến 107 nghìn đồng. Mấy năm trước đi xe ôm một vài km, tôi chỉ phải trả có 5 nghìn đồng, bây giờ tôi gần như không thể đi đâu bằng xe ôm với giá thấp hơn 10 nghìn.
Nguyên Lượng – Nam 30 tuổi – Phân tích góp vốn đầu tư :
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng về áp lực đè nén lạm phát trong những tháng tới và năng lực kiềm chế lạm phát về mức 11,75 % của nhà nước liệu có thực thi được ?
Bà Trần Thị Hằng :
Mặc dù Nghị quyết 11 của Chính phủ đã được các bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm chỉnh và quyết liệt trong thời gian qua, và sẽ tiếp tục thực hiện trong thời gian tới với mục tiêu cắt giảm chi tiêu công cho những dự án chưa cần thiết, nhằm kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chỉ số giá tiêu dùng trong một vài tháng tới vẫn tăng, nhưng tốc độ tăng có thể chậm dần.
Nguyên nhân là do bất ổn chính trị tại Bắc Phi và Trung Đông, thiên tai tại Nhật Bản và một số nơi khác trên thế giới làm giá cả nhiều mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu quan trọng cho sản xuất tăng liên tục trong những tháng cuối năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011, nhất là xăng dầu, sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu sữa,… đã tác động đến giá đầu vào sản xuất trong nước.
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất (đầu vào sản xuất) quý 1/2011 đã tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 6% so với quý 4/2010, trong đó chỉ số giá đầu vào cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng cao nhất tới 21% so với cùng kỳ và 10% so với quý 4/2010, ảnh hưởng đến giá sản phẩm sản xuất được tiêu dùng trên thị trường.
Tuy nhiên, với điều kiện thực hiện quyết liệt Nghị quyết 11, đồng thời không có biến động lớn về giá một số nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào quan trọng, hoặc không có bất thường lớn trên thế giới trong thời gian tới thì chỉ số giá tiêu dùng sẽ ổn định trong những tháng cuối năm và có thể giữ được mức lạm phát như năm 2010 (11,75%).
Mr Bao – Nam 26 tuổi – Đầu tư sàn chứng khoán :
Theo những diễn thuyết, CPI tháng 5 dự báo sẽ tăng khoảng chừng bao nhiêu ? Giải pháp nào để hạ nhiệt lãi suất vay lúc bấy giờ ? Kinh tế vĩ mô trong nước khi nào sẽ không thay đổi trở lại ?
Bà Trần Thị Hằng :
Tôi chỉ nói riêng về câu hỏi dự báo CPI tháng 5/2011.
Theo tôi chỉ số giá tháng này có thể tăng khoảng 2-2,5% so với tháng trước.
Nhiều bạn đọc :
Ông Huỳnh Thế Du nhìn nhận thế nào về việc thắt chặt tiền tệ như lúc bấy giờ, tác dụng và hệ lụy của nó ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Thứ nhất, ở khu vực thị trường hay khu vực kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ – cỗ máy tăng trưởng của Việt Nam – có thể là đối tượng chịu tác động trước tiên vì khi nguồn vốn bị giới hạn thì người bên ngoài (các doanh nghiệp vừa và nhỏ) sẽ là đối tượng bị cắt nguồn vốn trước tiên. Như vậy, ngay ở khu vực trường, mất cân đối tiền – hàng có thể trở nên trầm trọng hơn.
Thứ hai, thắt chặt tiền tệ chưa hẳn sẽ giảm được lượng tiền trong nền kinh tế. Nói chung thắt chặt tiền tệ là giảm lượng cung tiền ở khu vực thị trường với giả định là việc chi tiêu công phải tuân thủ theo những kỷ luật nghiêm ngặt nên lượng tiền trong nền kinh tế sẽ giảm. Tuy nhiên, nếu mục tiêu đầu tư vẫn chiếm khoảng 40% GDP hay mức chi tiêu của toàn xã hội không thay đổi thì việc thắt chặt tiền tệ ở khu vực thị trường có thể sẽ đẩy tiền sang khu vực chi tiêu ngân sách vì trên thực tế NHNN không thể nói không với yêu cầu từ phía Chính phủ.
Lúc này, một lần nữa, mất cân đối tiền – hàng lại trở nên nghiêm trọng hơn.
Nguyễn Văn Giàu – Nam 57 tuổi – Công chức :
Xin những chuyên viên nhìn nhận về những yếu tố hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng đến lạm phát năm 2011 ? Hình như chủ trương tài khóa vẫn chưa có hành động gì, điều này tác động ảnh hưởng thế nào đến năng lực kiềm chế lạm phát năm 2011 ?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Như trên tôi đã trình bày về nguyên nhân của lạm phát. Trong năm nay, nếu Chính phủ kiên trì thắt chặt tài khóa và tiền tệ thì nguyên nhân cầu kéo lạm phát sẽ dần được loại trừ. Vì vậy, có thể nguyên nhân chủ yếu của lạm phát năm nay là do chi phí đẩy.
Tuy vậy, nếu không khởi động trên thực tế quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thì nguyên nhân sâu xa của lạm phát vẫn còn nguyên, và nguy cơ lạm phát do cầu kéo (do mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ) sẽ quay trở lại.
Tôi cũng cho rằng, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, chính sách tiền tệ năm nay đã có một mục tiêu khá rõ ràng, đo lường và giám sát được. Trên thực tế, các giải pháp về tiền tệ đang được thực hiện khá quyết liệt và có những kết quả bước đầu trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Còn về tài khóa thì kết quả chưa thật rõ ràng, các khoản cắt giảm đầu tư, cắt giảm chi tiêu, theo tôi vẫn mới chỉ dừng ở những con số báo cáo, có lẽ chưa cắt giảm một cách thực sự, qua đó góp phần giảm tổng cầu của nền kinh tế và giảm áp lực đối với lạm phát.
Hy vọng rằng, trong những tháng tới đây các giải pháp về tài khóa sẽ được thực hiện tốt hơn, phối hợp, bổ sung và giảm bớt gánh nặng cho chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Có như vậy, kết quả kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô sẽ bền vững hơn.
Bùi Huy Hoàng – Nam 37 tuổi – Thạc sỹ tinh chỉnh và điều khiển :
Gần đây có 1 số ít quan điểm của chuyên viên cho rằng thắt chặt tiền tệ đã quá đủ và không cần thắt thêm nữa. Xin hỏi tất cả chúng ta đã thực sự thắt chặt tiền tệ hay chưa khi tỷ suất dự trữ bắt buộc còn ở mức 3 % trong khi Trung Quốc tăng tới 20,5 % ? Và tất cả chúng ta có thật sự thiếu tiền trong khi quả bóng tín dụng thanh toán của ta bằng 1,2 GDP ? Liệu thả lỏng tiền tệ để hạ lãi suất vay có phải là giải pháp để giảm lạm phát hay không như một số ít quan điểm chuyên viên ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Như tôi đã phân tích, nếu chỉ tập trung vào thắt chặt tiền tệ có thể làm cho tình hình nghiêm trọng hơn. Thực ra quả bóng lúc này đang ở phía chi tiêu ngân sách nhiều hơn.
Ý kiến nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất, giảm lạm phát là một lập luận hoàn toàn sai lầm. Nếu giải pháp này được thực hiện chẳng khác nào đổ dầu vào lửa.
Con số tín dụng bằng 1,2 lần GDP mà bạn đưa ra (theo số liệu mà tôi có được có thể là cao hơn một chút) là điều cần đặc biệt quan tâm. Những nước có mức độ phát triển như Việt Nam thì tín dụng so với GDP của họ chỉ bằng khoảng 50-80% GDP và giá trị thị trường của các doanh nghiệp niêm yết so với GDP cũng chỉ tương đương mức độ hiện tại của Việt Nam.
Tại sao tín dụng cho doanh nghiệp nhiều mà GDP lại tăng không cao? Phải chăng nợ xấu là một vấn đề có thể rất nghiêm trọng và cần được quan tâm của nền kinh tế Việt Nam?
Nguyễn Hằng Nguyệt Nga – Nữ 20 tuổi – Sinh viên :
Xin chào những vị khách mời. Xin có câu hỏi sau : Xin cho biết về nhận diện nguyên nhân của lạm phát của những tháng đầu năm 2011 ? Xin chân thành cám ơn !
Bà Trần Thị Hằng :
Lạm phát các tháng đầu năm 2011 có các nguyên nhân chủ yếu như sau.
Thứ nhất doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
Nguyên nhân thứ hai là giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng khoảng 15,3% áp dụng từ 1/3.
Thứ ba là ảnh hưởng của tỷ giá giữa VND và USD, đồng Việt Nam mất giá mạnh trong 3 tháng đầu năm đã làm tăng giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu (trong điều kiện nước ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước). Đây là nguyên nhân chúng ta bị tăng giá kép từ giá thế giới và thay đổi tỷ giá.
Thứ tư là ảnh hưởng từ những tháng cuối năm 2010 chi đầu tư từ ngân sách và của các doanh nghiệp tăng khá nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông lớn.
Thứ năm là yếu tố tâm lý (cả người tiêu dùng và người bán lẻ) từ việc nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1 và 1/5/2011.
Nguyễn Hùng – Nam 42 tuổi – Công chức :
Xin cảm ơn VnEconomy đã đưa ra chủ đề đang rất nóng bỏng và có nhiều yếu tố cần được nghiên cứu và phân tích, giải đáp. Tôi xin hỏi những diễn thuyết 1 số ít câu. 1. Xin hỏi bà Trần Thị Hằng, mong bà vấn đáp thật lòng : trong những thời gian nóng bỏng và nhạy cảm, Tổng cục có bị áp lực đè nén nào đó về ” làm đẹp ” chỉ số CPI không ? 2. Xin hỏi hai chuyên viên Nguyễn Đình Cung và Huỳnh Thế Du : Có khi nào những ông hoài nghi về những số lượng CPI được công bố không ? Kính chúc những ông bà sức khỏe thể chất .
Bà Trần Thị Hằng :
Những số liệu thống kê về kinh tế xã hội nói chung và chỉ số giá tiêu dùng nói riêng của Tổng cục Thống kê từ trước đến nay luôn giữ được tính khách quan và độc lập.
Tất cả số liệu của Tổng cục Thống kê đều được thu thập và phản ánh đúng thực tế tình hình kinh tế xã hội của đất nước.
Chưa bao giờ Tổng cục Thống kê chịu áp lực “làm đẹp con số” như bạn nói. Các nhà lãnh đạo luôn luôn tôn trọng và sử dụng số liệu thống kê trong công tác xây dựng và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội của các cấp.
Hà – 37 tuổi :
nhà nước đang triển khai cắt giảm góp vốn đầu tư công, theo những ông như vậy có xử lý được yếu tố lạm phát không khi mà hiệu suất cao của góp vốn đầu tư công là rất thấp ? Giải pháp là gì ?
Ông Nguyễn Đình Cung :
Như chúng ta đều biết, cắt giảm đầu tư nhà nước, cắt giảm chi tiêu ngân sách, giảm thâm hụt ngân sách là một trong số các giải pháp cơ bản để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Như trên tôi đã trình bày, nguyên nhân sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước còn thấp. Còn mở rộng tài khóa, làm tăng tổng cầu là một trong những nguyên nhân trực tiếp. Vì vậy, nếu chỉ cắt giảm đầu tư mà chưa có những giải pháp đổi mới quản lý, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư thì mới chỉ giải quyết được nguyên nhân trước mắt mà chưa khắc phục được nguyên nhân cơ bản của nó.
Vì vậy, theo tôi đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm ở các bộ, ngành và các địa phương thì Chính phủ cần đồng thời nghiên cứu, xây dựng để trong một hai năm tới đây sẽ thực hiện một cơ chế mới về phân bổ, quản lý, sử dụng vốn đầu tư nhà nước, trong đó mục tiêu cơ bản là nâng cao hiệu quả của đầu tư nhà nước nói chung và của từng dự án nói riêng.
Đây có lẽ cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hinh tăng trưởng như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Nguyễn Hữu Thắng – Nam 52 tuổi – Giảng viên :
Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du, nếu lạm phát ở Việt Nam chỉ do nguyên nhân tiền tệ thì tại sao CPI cao nhất vào tháng hai ( trung bình 10 năm qua là 2,17 % ) và tháng Giêng ( trung bình 10 năm qua là 1,25 % ) ? Việt Nam chưa khi nào thắt chặt về tiền tệ ( biểu lộ mức tăng M2 chưa khi nào thấp hơn 20 % / năm ). Ông nghĩ gì về điều này ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Tôi xin trả lời hai câu hỏi của ông Thắng như sau:
Thứ nhất, đối với vấn đề lạm phát. Như tôi đã phân tích, yếu tố tiền tệ vẫn là căn nguyên của lạm phát, nhưng ở một số thời điểm nhất định (ngắn hạn) còn yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Ở Việt Nam, mức tăng giá hàng năm vào tháng 1 và tháng 2 thường tăng cao là rơi vào dịp tết âm lịch, khi đó mức cầu của hầu hết các loại hàng hóa tiêu dùng đều cao hơn mức cung có (cho dù đã được chuẩn bị sẵn) nên ở thời điểm này giá tăng cao hơn bình thường.
Như vậy, việc tăng giá theo mùa vụ này chính là do cầu kéo. Điều này không chỉ đúng ở Việt Nam mà còn đúng ở các nước khác trong các mùa lễ hội như các nước phương Tây vào tháng 11-12 hay Trung Quốc vào tháng 1-2. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, nếu cung tiền không tăng quá nhiều thì qua những thời điểm mùa vụ này giá sẽ được điều chỉnh và mức tăng giá của cả năm sẽ không quá cao.
Thứ hai, đối với vấn đề thắt chặt tiền tệ: Ông đúng và đó là nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao.
Phạm Việt Dũng – Nam 54 tuổi – Lao động tự do :
Gửi tới bà Trần Thị Hằng ! Các số liệu thống kê là tài liệu “ nguồn vào ” của mọi giải pháp kinh tế tài chính. Dữ liệu vào thiếu đúng chuẩn tất yếu những chủ trương điều hành quản lý ít, thậm chí còn không có hiệu suất cao. Để có tác dụng thống kê đúng chuẩn đương nhiên phải dựa vào báo cáo giải trình tổng hợp của những ban ngành, cơ quan, tập đoàn lớn kinh tế tài chính những cấp. Xin hỏi : Với tư cách Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, bà đã hài lòng với sự chân thực và mức độ đúng chuẩn của những báo cáo giải trình nói trên chưa ? Nếu chưa, bà và cơ quan Tổng cục đã vận dụng những giải pháp gì để khắc phục chưa ổn này ? Nếu chưa và theo bà, cơ quan nhà nước nên đưa ra những giải pháp như thế nào để khắc phục ? Xin cảm ơn !
Bà Trần Thị Hằng :
Nguồn số liệu đầu vào của Tổng cục Thống kê hiện nay được thu thập chủ yếu từ các nguồn sau:
– Một là chế độ báo cáo thống kê định kỳ (tháng, quý, năm) áp dụng đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
– Hai là thông qua tổng điều tra/điều tra đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể và các tổ chức hiệp hội ngoài nhà nước khác.
– Ba là nguồn hồ sơ hành chính.
– Ngoài ra, Tổng cục Thống kê cũng sử dụng thêm nguồn số liệu từ các tổ chức quốc tế, cũng như các nước đối tác để so sánh, đối chiếu và bổ sung.
Như vậy, chất lượng của số liệu thống kê sẽ phụ thuộc nhiều vào chất lượng của báo cáo cũng như chất lượng cung cấp thông tin cho các cuộc tổng điều tra/điều tra.
Với số liệu hiện nay, chúng tôi hoàn toàn có thể khẳng định rằng đã phản ánh đúng bản chất và xu hướng của các hoạt động kinh tế xã hội hiện nay, và các số liệu thống kê này đã đảm bảo được tính kịp thời với chất lượng ngày càng được nâng cao, phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước ở các cấp.
Tất nhiên, chúng tôi vẫn mong muốn số liệu thống kê cần phải đạt được độ chính xác, tính đầy đủ và kịp thời cao hơn nữa. Chính vì vậy, lãnh đạo Tổng cục Thống kê luôn xác định một trong những mục tiêu của ngành là phấn đấu để thông tin thống kê kinh tế xã hội tiến tới đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu này, Tổng cục Thống kê đang khẩn trương triển khai thực hiện Quyết định 312 ngày 2/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê, và đang tích cực xây dựng chiến lược phát triển thống kê giai đoạn 2010-2020 tầm nhìn 2025 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành vào cuối quý 2/2011.
Hoàng Trọng Văn – [email protected] :
Đầu tư công không hiệu suất cao chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát. Theo những ông điều này có đúng chuẩn không ? Làm sao cắt giảm triệt để vì nó đụng chạm đến nhóm quyền lợi của một vài cá thể, tổ chức triển khai ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Đúng, đầu tư công không hiệu quả chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát. Một trong những chìa khóa then chốt hiện nay để xử lý mất cân bằng kép của nền kinh tế hiện nay là cắt giảm chi tiêu công. Về mặt nguyên lý, những khoảng chi tiêu kém hiệu quả sẽ được cắt giảm. Tuy nhiên, tiêu chí cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn cho vấn đề này.
Thứ nhất, đối với tiêu chí cắt giảm, phân tích lợi ích – chi phí là công cụ cơ bản nhất để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp ở chỗ là hầu như không ai có thể lượng hóa được chính xác các lợi ích và chi phí nên rất khó để có thể tính ra được một con số thuyết phục về lợi ích ròng của dự án. Điều này dẫn đến những lập luận vì mục tiêu an sinh, an ninh quốc phòng, ổn định xã hội trở nên phổ biến. Lúc này, quyền nằm trong tay người ra quyết định và những áp lực liên quan.
Thứ hai, cắt của người thân hay cắt của người sơ, người có tiếng nói hay không có tiếng nói là điều không hề đơn giản.
Tôi xin mượn câu chuyện sau để phân tích vấn đề này.
Thử tưởng tượng như một gia đình, nếu cần cắt giảm chi tiêu thì những khoản cần được nghĩ đến đầu tiên chính là phần trà thuốc của bố và trang điểm của mẹ chứ không phải là phần sữa cho con. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc cắt giảm những khoản như vậy là rất khó khăn vì bố mẹ là người có quyền lực lớn nhất trong gia đình và có vô số lý do để duy trì các khoản chi tiêu của mình.
Người bố có thể lấy lý do rằng đây là các khoản chi tiêu mang tính ngoại giao, tôi không thể mất mặt với bạn bè được nên cần phải có các khoản tiêu này trong khi bản chất là người bố đang nghiện rượu. Người mẹ có thể lý luận rằng tôi đẹp thì làm cho ông hãnh diện chứ tôi được gì đâu. Ai cũng cần cả sao mà bỏ được.
Do sự nhạy cảm trong quan hệ trong gia đình, nếu ông bố không tự nguyện bỏ rượu hay người mẹ không tự giảm bớt một vài loại mỹ phẩm đắt tiền thì việc cắt giảm dường như không thể vì hai người nể nang nhau nên chẳng ai nói ra trong khi con cái thì ai mà dám. Kết quả là rất có thể phần sữa của con bị cắt.
Do vậy, để việc cắt giảm chi tiêu công khả thi, theo tôi, Việt Nam nên áp dụng hai tiêu chí là giới hạn chi tiêu và cắt đều ở bối cảnh trước mắt.
Đối với việc giới hạn chi tiêu công, Nhà nước nên đưa ra đưa ra mục tiêu trong 5 năm tới, tổng chi tiêu công (cả đầu tư và chi tiêu thường xuyên) chỉ là 30% GDP thay vì từ 35-40% GDP như hiện nay. Với giới hạn này thì tất cả các bên sẽ ngồi lại với nhau để chia cái bánh đã được giới hạn.
Đối với việc cắt giảm trước mắt, cắt đều có lẽ là biện pháp có thể khả thi vì trong trường hợp này tất cả các khoản chi tiêu đều được cắt một tỷ lệ như nhau. Thoạt nhìn thì có vẻ phi lý và phản khoa học, nhưng do không có tiêu chí không rõ ràng, nên nếu áp dụng các tiêu chí có thể sẽ dẫn đến tình trạng khoản cần thiết nhất (sữa của con) bị cắt như phân tích ở trên. Thôi thì cứ cắt đều.
Sau một thời gian, nếu thấy những chỗ nào bất hợp lý thì có những biện pháp bổ sung thêm trong giới hạn cứng của chi tiêu 30% nêu trên.
Nguyễn Văn Giàu – Nam 57 tuổi – Công chức :
Xin những chuyên viên nhìn nhận về những yếu tố hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng đến lạm phát năm 2011 ? Hình như chủ trương tài khóa vẫn chưa có hành động gì, điều này ảnh hưởng tác động thế nào đến năng lực kiềm chế lạm phát năm 2011 ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Tôi đồng tình với câu trả lời ở phía trên của ông Nguyễn Đình Cung. Như tôi đã phân tích, chìa khóa của vấn đề lạm phát bây giờ chính là thắt chặt chi tiêu ngân sách. Nếu tiền tệ cứ phải thắt chặt mãi mà chi tiêu như hiện tại thì tình trạng có thể trầm trọng hơn.
Do vậy, ưu tiên với vấn đề lạm phát bây giờ phải là cắt giảm chi tiêu ngân sách. Ngân hàng Nhà nước, có lẽ sẽ phải tập trung nhiều vào vấn đề tỷ giá vì tạm thời đang ổn, nhưng những vấn đề gây ra rắc rối cho tỷ giá vẫn còn.
Một sự chuẩn bị trước có lẽ là cần thiết.
Đỗ Duy Cường – Nam 31 tuổi – Chuyên gia độc lập :
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng, lâu nay tất cả chúng ta mới nghe về chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát. Nhưng điều đó mới phản ánh một phần Ngân sách chi tiêu cho đời sống nhân dân, còn chỉ số lạm phát cơ bản, chỉ số giá cả của nhà phân phối ( PPI ) phản ánh nhiều hơn đời sống doanh nghiệp. Vậy Tổng cục Thống kê có kế hoạch gì cho những chỉ số nêu trên ( Core Inflation v PPI ) ?
Bà Trần Thị Hằng :
Ngoài chỉ số giá tiêu dùng đã được thu thập, tổng hợp và công bố hàng tháng, Tổng cục Thống kê đã thu thập, tổng hợp và công bố một số chỉ số giá sản xuất quan trọng (PPI) hàng quý như: chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào sản xuất; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất công nghiệp; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản; chỉ số giá cước vận tải; chỉ số giá hàng hóa xuất khẩu; chỉ số giá hàng hóa nhập khẩu.
Còn về core inflation (còn được gọi là lạm phát cơ bản), trong vài năm gần đây Tổng cục Thống kê đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, tính toán thử nghiệm chỉ số này, bước đầu phục vụ cho các đơn vị liên quan của Ngân hàng Nhà nước, xem xét để đánh giá việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Tổng cục Thống kê sẽ tiếp tục phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu đầy đủ hơn về nội dung, phương pháp tính, phân tích, cũng như ý nghĩa kinh tế của loại chỉ số này để trình Thủ tướng Chính phủ.
Trần Văn Thiện – Nam 24 tuổi – Kế toán :
Kính chào quý tòa soạn và những vị khách mời ! Tôi xin đặt câu hỏi với ông Nguyễn Đình Cung như sau : Gần đây tôi có theo dõi 1 số ít bài báo có đăng phát biểu của ông với đại ý một trong những nguyên nhân chính gây lạm phát ở Việt Nam là từ chủ trương tài khóa, tất cả chúng ta cũng đã xác lập cắt giảm tiêu tốn công, vậy thì câu hỏi ở đây là : Làm thế nào để thanh tra rà soát và cắt giảm đúng những dự án Bất Động Sản chưa thực sự thiết yếu ( chứ không phải là những dự án Bất Động Sản có chủ góp vốn đầu tư yếu thế hơn, hoạt động kém hơn ) ? Và về dài hạn, làm thế nào để quản trị những khoản góp vốn đầu tư công thực sự có hiệu suất cao ?
Ông Nguyễn Đình Cung :
Gần đây, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã nghiên cứu xây dựng đề án “Tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng” theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Chúng tôi thấy rằng, có hàng loạt các công việc cơ bản và quan trọng cần phải thực hiện. Tuy vậy, theo tôi trong số các giải pháp đó thì cần phải có sắp xếp thứ tự ưu tiên trong triển khai thực hiện. Tôi cho rằng, trong bối cảnh hiện nay ở nước ta thì cải cách nâng cao hiệu quả khu vực nhà nước (bao gồm quản lý nhà nước, ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước) nên là điểm khởi đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Như trên tôi đã nói, đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết số 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội thì cần phải nghiên cứu và đổi mới cơ chế quản lý đầu tư nhà nước. Theo tôi, cơ chế quản lý mới ít nhất phải có một số nội dung cụ thể sau đây:
Một là: ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với đầu tư nhà nước để mức độ hiệu quả kinh tế đối với từng dự án phải đo lường được một cách cụ thể trong đề xuất, thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá đầu tư.
Trên cơ sở đó, các dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn; kiểm tra và giám sát đầu tư cũng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
Hai là: Thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có quyền chủ động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường.
Qua đó sẽ lựa chọn được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trong phân cấp, cần tính đến phát triển cơ cấu kinh tế vùng trong thẩm định lựa chọn và quyết định đầu tư để các dự án đầu tư trong cùng một vùng không cạnh tranh nhau, loại trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ sung lẫn nhau.
Ba là: Tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư nhà nước.
Bốn là: Thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó thực hiện công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án đầu tư nhà nước nói riêng. Về việc này, theo tôi các thông tin sau đây cần phải được công khai hóa:
– Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành nghề; tổng vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc…
– Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những cơ quan và cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự án, báo cáo đánh giá tác động kinh tế – xã hội của dự án.
– Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư.
– Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những tiêu chí đã được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án.
– Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có) giữa tiến độ thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách nhiệm về nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch.
Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước không phải là việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là một công việc thương xuyên và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ chế mới về quản lý đầu tư nhà nước như trình bày trên đây không chỉ áp dụng cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án đầu tư mới mà còn áp dụng để rà soát, cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư hiện có.
Hiệp – Nam 25 tuổi – Nhân viên kinh tế tài chính :
Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du. Tôi được biết nền kinh tế tài chính Việt Nam có nhiều nét tương đương với kinh tế tài chính Trung Quốc. Chúng ta đã vận dụng nhiều chủ trương giống với nước bạn. Vậy tôi không rõ vì nguyên nhân gì mà cung tiền Việt Nam luôn cao hơn Trung Quốc rất nhiều ?
Ông Huỳnh Thế Du :
Đúng là nền kinh tế Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với kinh tế Trung Quốc và chúng ta đã áp dụng nhiều chính sách giống với Trung Quốc. Tuy nhiên, những vấn đề khác nhau cơ bản sau đây dẫn đến kết quả khác nhau.
Thứ nhất, Trung Quốc nhất quán với chủ trương định giá đồng Nhân dân tệ thấp để có lợi cho hoạt động ngoại thương. Kết quả là cùng với cách chính sách khác Trung Quốc trở thành “nhà buôn” lớn nhất thế giới, với tặng dư thương mại và dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Hơn thế, theo thời gian đồng Nhân dân tệ tăng giá cùng với sự khẳng định sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc.
Thứ hai, về cơ bản Trung Quốc theo đuổi chính sách tiền tệ thận trọng (trừ chính sách mở rộng cho gói kích thích vào cuối năm 2009 và đầu 2010 mà bây giờ họ phải đang phải gánh chịu hậu quả). Kết quả của chính sách này là giá cả được giữ ở mức ổn định. Từ trường hợp của Trung Quốc, chúng ta có thể thấy rất rõ của chính sách mở rộng tiền tệ quá mức.
Thứ ba, họ cũng cổ phần hóa và niêm yết các doanh nghiệp nhà nước, nhưng bản thân các doanh nghiệp của họ có sự cạnh tranh rất lớn cùng với việc phải tuân thủ các kỷ luật thị trường khi niêm yết quốc tế nên các doanh nghiệp của họ trở nên rất mạnh.
Ở Việt Nam, nếu nhìn vào sự cạnh tranh trong ngành viễn thông, cụ thể là giữa Viettel và VNPT thì chúng ta có thể thấy hiệu quả của cạnh tranh đúng nghĩa. Rất tiếc là những ví dụ như ngành bưu chính viễn thông quá ít.
Nguyễn Minh Hải – Nam 33 tuổi – Kế toán :
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng là cách tính CPI hàng tháng, cụ thể hơn là trong rổ hàng hóa để tính CPI thì gồm những nhóm mặt hàng nào và tỷ trọng của từng nhóm mặt hàng ấy trong rổ hàng hóa là bao nhiêu. Số liệu mà Tổng cục Thống kê có được để tính mức độ tăng giảm giá của từng nhóm hàng hóa được cập nhật trên cơ sở nào, giá tăng giảm được cập nhật hàng ngày hay tại thời điểm nào? Xin cảm ơn.
Bà Trần Thị Hằng :
Như tôi đã trả lời khi trước, “rổ” hàng hóa hiện nay của Tổng cục Thống kê gồm 572 hàng hóa và dịch vụ đại diện cho tiêu dùng phổ biến của người dân (tăng 78 mặt hàng so với giai đoạn trước), chia thành 11 nhóm lớn với quyền số như sau:
Quyền số của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống là 39,93%; đồ uống thuốc lá là 4,03%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,28%; nhà ở và vật liệu xây dựng 10,01%; thiết bị và đồ dùng gia đình 8,65%; thuốc và dịch vụ y tế 5,6%; giao thông 8,87%; bưu chính viễn thông 2,72%; giáo dục 5,72%; văn hóa giải trí và du lịch 3,83%; hàng hóa và dịch vụ khác 3,34%.
Phạm vi điều tra được áp dụng tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cụ thể gồm 254 khu vực điều tra tương ứng với trên 3000 điểm ở cả khu vực thành thị và nông thôn.
Thời gian thu thập giá hàng hóa được tính từ ngày 15 tháng này đến 15 tháng sau, thu thập thành 3 kỳ/tháng báo cáo, vào các ngày 25, 5 và 15 hàng tháng đối với 131 mặt hàng hay biến động như lương thực, thực phẩm, ăn uống ngoài, xăng dầu, vật liệu xây dựng… Thu thập 1 kỳ/tháng đối với các mặt hàng còn lại vào ngày 5 hàng tháng.
* Trong vòng 24 giờ qua, VnEconomy đã nhận được gần 2 nghìn câu hỏi gửi về cuộc giao lưu trực tuyến, điều chứng tỏ sự chăm sóc rất lớn của fan hâm mộ so với yếu tố lạm phát lúc bấy giờ. Vì thời hạn hạn chế, những diễn thuyết và tòa soạn đã cố gắng nỗ lực tinh lọc những câu hỏi có tính đại diện thay mặt để ưu tiên vấn đáp. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự tham gia nhiệt tình của phần đông bạn đọc tới cuộc giao lưu trực tuyến này .
Thân chào những bạn, Nói một cách ngắn gọn, theo tôi, lạm phát ở Việt Nam là do yếu tố tiền tệ do tiêu tốn công quá mức và phân chia vốn thiên lệch ở khu vực thị trường ( doanh nghiệp ). Điều này hoàn toàn có thể lý giải đơn cử như sau : Chúng ta biết rằng lạm phát là mức tăng giá chung của cả nền kinh tế tài chính. Nguyên nhân gây ra lạm phát hoàn toàn có thể là từ bên ngoài ( khách quan ) hay những yếu tố nội tại của nền kinh tế tài chính ( nguyên nhân chủ quan ), nhưng căn nguyên của lạm phát chính là yếu tố tiền tệ. Điều này được hiểu một cách đơn thuần qua ví dụ năm ngoái trong nền kinh tế tài chính có 100 đơn vị chức năng sản phẩm & hàng hóa và 100 đồng xu tiền thì giá 1 sản phẩm & hàng hóa là 1 tiền. Năm nay, do tăng trưởng kinh tế tài chính 10 % nên nền kinh tế tài chính có 110 đơn vị chức năng sản phẩm & hàng hóa. Do những yếu tố khác nhau ( đa phần vẫn là việc ngày càng tăng cung tiền của ngân hàng nhà nước TW ) mà nền kinh tế tài chính có đến 121 đơn vị chức năng tiền. Kết quả là giá 1 sản phẩm & hàng hóa bằng 1,1 tiền hay lạm phát là 10 %. Ngoài yếu tố tiền tệ, trong thời gian ngắn, lạm phát cũng hoàn toàn có thể do cầu kéo hay ngân sách đẩy. Một ví dụ đơn thuần nhất của cầu kéo là những gói kích thích kinh tế tài chính của chính phủ nước nhà. Với một kế hoạch tiêu tốn lớn được đưa ra sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tài chính ngày càng tăng dẫn đến mức giá ngày càng tăng trong thời gian ngắn. Sự nóng lên không bình thường của những thị trường gia tài ( sàn chứng khoán, bất động sản … ) cũng hoàn toàn có thể gây ra lạm phát cầu kéo do nhiều người trở nên giàu sang không bình thường sẽ ngày càng tăng mức tiêu tốn rất lớn của mình dẫn đến tăng tổng cầu của cả nền kinh tế tài chính tăng. Đối với lạm phát ngân sách đẩy, ví dụ dễ nhìn thấy nhất là do một cú sốc cung nào đó mà làm cho nguồn cung khan hiếm hay giá nguyên vật liệu nguồn vào bất thần tăng lên làm cho mức giá chung của cả nền kinh tế tài chính tăng lên tưc thì. Ví dụ hay được nhắc tới trogn trường hợp này là cuộc khủng hoảng cục bộ dầu mỏ trên quốc tế ở thập niên 1970. Tuy nhiên, nếu có chủ trương tiền tệ hài hòa và hợp lý sao cho mức tăng cung tiền trong nền kinh tế tài chính tương thích với mức tăng của sản phẩm & hàng hóa thì ảnh hưởng tác động của lạm phát do cầu kéo hay ngân sách đẩy sẽ không lê dài. Căn cứ vào những lập luận trên và số liệu thực tiễn sẽ thấy nguyên nhân hầu hết gây ra lạm phát của Việt Nam không phải do những yếu tố bên ngoài. Trong thời hạn qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách không bình thường so với những nước trong khu vực hay những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu cũng như những nước có điều kiện kèm theo tựa như. Ở những nước này, nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP ( đơn cử là hầu hết đều dưới 5 % ), trong khi từ năm 2004 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 23 %, gấp khoảng chừng 3 lần mức tăng GDP ; năm 2010 ở mức 11,75 %, gấp gần 2 lần mức tăng GDP ; và chỉ mới 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã gần 2 số lượng. Rất khó thuyết phục để hoàn toàn có thể nói rằng lạm phát ở Việt Nam là do những yếu tố khách quan vì nếu là bên ngoài thì hầu hết những nước cũng phải chịu ảnh hưởng tác động như nhau chứ tại sao chỉ có mình Việt Nam là cao không bình thường. Tóm lại, nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam, theo tôi, chính là yếu tố tiền tệ. Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng sản phẩm & hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu suất cao do ba nguyên nhân cơ bản sau : Thứ nhất, do góp vốn đầu tư công quá mức. Không thể phủ nhận sự thiết yếu của góp vốn đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nền tham gia vào những nghành đem lại quyền lợi lớn cho cả nền kinh tế tài chính nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu suất cao. Trên thực tiễn nhà nước đã tham gia quá nhiều vào những hoạt động giải trí kinh tế tài chính và nhiều khi còn cạnh tranh đối đầu và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức tiêu tốn của khu vực công ( gồm có tiêu tốn liên tục và chi góp vốn đầu tư ) trong những năm vừa mới qua luôn ở mức 35-40 % GDP và góp vốn đầu tư của nhà nước bằng khoảng chừng 20 % GDP ( 50% tổng góp vốn đầu tư toàn xã hội ) là một mức quá cao. Mức tiêu tốn này ắt hẳn là một mảnh đất phì nhiêu cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu tiên cho 1 số ít đối tượng người tiêu dùng như nghiên cứu và phân tích dưới đây. Thứ hai, sự thiên lệch trong việc phân chia vốn ở khu vực doanh nghiệp ( khu vực thị trường ). Nhìn vào nền kinh tế tài chính sẽ thấy rằng những doanh nghiệp nhà nước và một số ít doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng người dùng dành được sự ưu tiên trong việc phân chia vốn. Câu chuyện của Vinashin đã tiêu tốn hoang phí khoảng chừng 4 tỷ đô la trong thời hạn qua và hiện vẫn được khoanh nợ và liên tục vay vốn là một ví dụ rất nổi bật của sự ưu tiên dành cho những doanh nghiệp nhà nước. Đối với một số ít doanh nghiệp tư nhân lớn, tất cả chúng ta thấy rằng, không ít trong số họ đa phần tập trung chuyên sâu vào những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại ( nói đúng hơn là đầu tư mạnh ) những loại gia tài ( bất động sản, sàn chứng khoán … ) hay tìm kiếm tài nguyên vương quốc chứ không phải tập trung chuyên sâu vào những hoạt động giải trí sản xuất kinh doanh thương mại tạo ra nhiều giá trị ngày càng tăng cho nền kinh tế tài chính. Điều đáng chăm sóc là hầu hết những doanh nghiệp này không chỉ có những ngân hàng nhà nước hay tổ chức triển khai kinh tế tài chính riêng của mình mà còn có quan hệ ngặt nghèo với không ít những tổ chức triển khai kinh tế tài chính ngân hàng nhà nước lớn hay những mối quan hệ khác. Điều này làm cho những khoản cho vay theo quan hệ trở nên thông dụng hơn và một phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại có tính đầu tư mạnh gây rủi ro đáng tiếc hơn là tạo ra giá trị ngày càng tăng cho nền kinh tế tài chính. Dĩ nhiên, những doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng người dùng chính xử lý việc làm và là động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thời hạn qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn và khó tiếp cận vốn hơn nên hoàn toàn có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua ngày. Thứ ba, việc theo đuổi chủ trương không thay đổi tỷ giá đồng xu tiền trong toàn cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh đối đầu của những doanh nghiệp Việt Nam. Như nhiều lần tôi đã nghiên cứu và phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng ngắc sẽ làm cho sản phẩm & hàng hóa của những doanh nghiệp Việt Nam ( kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng sản phẩm & hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế tài chính Việt Nam và sức cạnh tranh đối đầu của những doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút. Sự tiêu tốn lãng phí tham nhũng trong góp vốn đầu tư công cũng như sự phân chia vốn thiệc lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên không bình thường có nhu yếu tiêu tốn những sản phẩm & hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao đồng xu tiền làm cho thực trạng nhập siêu ngày một căng thẳng mệt mỏi hơn. Nói chung thực trạng phân chia nguồn lực cộng với chủ trương điều hành quản lý tỷ giá như trên đã dẫn đến sự mất cân đối kép trong nền kinh tế tài chính mà nó bộc lộ bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở mức rất cao. Hiện tại, nhiều người vẫn coi chỉ số giá tiêu dùng ( CPI ) là lạm phát. Đúng ra, chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối ( tính theo Phần Trăm ), phản ánh dịch chuyển về Chi tiêu chung qua thời hạn của một số lượng ( hay còn gọi là ” rổ ” ) sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ đại diện thay mặt cho tiêu dùng ở đầu cuối Giao hàng đời sống thông thường của dân cư. Như vậy, CPI hoàn toàn có thể tăng, hoặc giảm so với một thời kỳ gốc nào đó. Trong khi đó lạm phát là biểu lộ của việc chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục trong một thời hạn dài và nó phản ánh sự mất cân đối, trong đó hầu hết là mất cân đối giữa tiền và hàng. Có thể nói, nguyên nhân của lạm phát thì có nhiều. Có thể phân thành hai loại, một là do nội tại của nền kinh tế tài chính và loại do bên ngoài. Đối với nền kinh tế tài chính nước ta trong mấy năm gần đây, không ổn định kinh tế tài chính vĩ mô trở thành yếu tố tiếp tục, trong đó lạm phát cao là yếu tố nổi cộm. Theo tôi, điều đó bắt nguồn từ quy mô tăng trưởng và phương pháp mà tất cả chúng ta sử dụng để đạt được mục tiêu tăng trưởng. Tăng trưởng của tất cả chúng ta cho đến nay hầu hết vẫn dựa vào lan rộng ra góp vốn đầu tư, nhưng góp vốn đầu tư nhìn chung lại kém hiệu suất cao, nhất là góp vốn đầu tư nhà nước. Mô hình và phương pháp tăng trưởng như thế hiện đã tới hạn của nó. Tuy quy mô và phương pháp tăng trưởng đã tới hạn nhưng tất cả chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được tiềm năng tăng trưởng, do đó về thời gian ngắn thì cách hầu hết để đạt tăng trưởng đó là lan rộng ra góp vốn đầu tư. Để lan rộng ra góp vốn đầu tư thì tất cả chúng ta buộc phải lan rộng ra chủ trương tài khóa và chủ trương tiền tệ để có góp vốn đầu tư. Do đó, vận tốc tăng trưởng tín dụng thanh toán, M2, thâm hụt tài khóa ngày càng tăng, thâm hụt cán cân thanh toán giao dịch ngày càng tăng … tổng thể những điều đó là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của tất cả chúng ta trong mấy năm qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với những nước. Còn so với lạm phát lúc bấy giờ, nhất là trong tháng 3,4 và hoàn toàn có thể những tháng tới đây, ngoài những nguyên nhân nói trên thì kiểm soát và điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, những mẫu sản phẩm khác tích hợp với Chi tiêu trên thị trường quốc tế cũng tăng cao trong 2 tháng vừa mới qua đã tác động ảnh hưởng trực tiếp làm tăng chi phí sản xuất, do đó tỷ suất lạm phát trong hai tháng qua cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cao và không ổn định kinh tế tài chính vĩ mô đã làm giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, người dân kỳ vọng lạm phát sẽ còn liên tục tăng. Điều đó cũng là một trong những yếu tố tạo áp lực đè nén lên lạm phát, tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát. Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng ( CPI ) do Tổng cục Thống kê thực thi từ năm 1995 cho đến nay, vận dụng đúng hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO ), tương thích với điều kiện kèm theo thực tiễn của Việt Nam. Đây cũng là chuẩn mực quốc tế mà hầu hết những nước trên quốc tế đều vận dụng. Khi tính chỉ số giá tiêu dùng cần có hai yếu tố quan trọng, một là cơ cấu tổ chức tiêu tốn những nhóm sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ thông dụng trong tổng tiêu tốn của dân cư ( gọi là quyền số ) ; hai là giá của những sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ đại diện thay mặt được chọn để tích lũy lấy giá theo từng tháng. Quyền số CPI của hầu hết những nước trên quốc tế thường được sử dụng cố định và thắt chặt trong 4-5 năm, 1 số ít ít nước thậm chí còn sử dụng trong khoảng chừng 10 năm ( trong điều kiện kèm theo nền kinh tế tài chính ít có dịch chuyển, hoặc những nước không có điều kiện kèm theo kinh phí đầu tư tổ chức triển khai tìm hiểu tính lại cơ cấu tổ chức này ). Quyền số CPI lúc bấy giờ của Việt Nam ( giai đoạn 2010 – năm ngoái ) được giám sát và tổng hợp từ hiệu quả cuộc tìm hiểu khảo sát mức sống hộ mái ấm gia đình và tìm hiểu quyền số chỉ số giá tiêu dùng, do Tổng cục Thống kê thực thiện năm 2008 và đầu 2009. Như vậy, theo định kỳ tiếp tục thì 4-5 năm sau Tổng cục Thống kê sẽ tổ chức triển khai tìm hiểu để giám sát lại quyền số này, bảo vệ tính tương thích với cơ cấu tổ chức chi tiêu dùng của người dân đổi khác theo thời hạn, trên cơ sở tăng trưởng kinh tế tài chính chung của quốc gia và thu nhập của dân cư. Mặt khác, sau 4-5 năm vận dụng cũng cần phải thực thi tìm hiểu tính lại cơ cấu tổ chức tiêu tốn này, do việc đổi khác chủng loại và chất lượng loại sản phẩm, có những mẫu sản phẩm sẽ không còn được tiêu dùng phổ cập nữa, có nhiều mẫu sản phẩm mới được ưu thích hơn … Thực tế cho đến nay, hết tháng 4 thì tỷ suất lạm phát so với tháng 12/2010 đã tăng 9,64 %, tức là đã cao hơn 2,64 điểm % so với tiềm năng của Quốc hội đã trải qua. Đa số quan điểm cho rằng, tỷ suất lạm phát tháng 5 vẫn hoàn toàn có thể ở mức tăng 2 % và hoàn toàn có thể suy giảm từ quý 3/2011. Như vậy, tỷ suất lạm phát của năm nay chắc như đinh sẽ cao hơn chỉ tiêu mà Quốc hội đã trải qua. Một mặt, lãi suất vay cao là tác dụng của lạm phát cao và việc thắt chặt tiền tệ của Ngân Hàng Nhà nước. Lãi suất cao, góp vốn đầu tư sẽ giảm do vậy sẽ giảm áp lực đè nén tăng giá trong trước mắt. Tuy nhiên, khi góp vốn đầu tư giảm sẽ dẫn đến tăng trưởng giảm đó là tác động ảnh hưởng trực tiếp của lãi suất vay cao. Ở đây có một yếu tố cần chăm sóc là hiện tượng kỳ lạ lựa chọn ngược và rủi ro đáng tiếc đạo đức ( tâm ý ỷ lại ) khi lãi suất vay bị đẩy lên cao. Khi lãi suất vay cao, những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại thường thì với suất sinh lợi kèm với rủi ro đáng tiếc vừa phải không hề đi vay được vì suất sinh lợi không bù đắp được ngân sách lãi vay. Chỉ những khoản đi vay có rủi ro đáng tiếc cao kèm với suất sinh lợi cao mới hoàn toàn có thể vay được. Hiện tượng này gọi là lựa chọn ngược. Hơn thế, so với những người đi vay, do lãi suất vay cao, để hoàn toàn có thể bù đắp được ngân sách lãi vay nên người ta có xu thế góp vốn đầu tư vào những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại rủi ro đáng tiếc cao hơn để mong có được một suất sinh lợi tương ứng. Đây chính là tâm ý ỷ lại hay rủi ro đáng tiếc đạo đức. Nếu vòng xoáy trên cứ liên tục thì ở đầu cuối hầu hết những khoản vay đều là những khoản vay có rủi ro đáng tiếc hay không trả được nợ cao. Hậu quả là nợ xấu ngân hàng nhà nước cao và đến một khi nào đó những ngân hàng nhà nước hoàn toàn có thể mất thanh khoản kéo theo toàn mạng lưới hệ thống sụp đổ do hiệu ứng dây chuyền sản xuất. Nói chung, khi lãi suất vay cao mà nguyên nhân cơ bản của nó chính là lạm phát cao lê dài sẽ tiềm ẩn rủi ro đáng tiếc rất lớn cho nền kinh tế tài chính. Do vậy, việc duy trì mức tăng giá hay lạm phát thấp là yếu tố cốt lõi so với một nền kinh tế tài chính và đây cũng phải là ưu tiên số 1 của cơ quan chính phủ song song với việc cải tổ thiên nhiên và môi trường kinh doanh thương mại. Tôi không chỉ nghe người trong mái ấm gia đình than phiền mà còn cảm nhận được sức nóng của vận tốc tăng giá. Mấy năm trước, tôi đổ xăng chỉ có mấy chục nghìn, nhưng lần gần đây nhất đã lên đến 107 nghìn đồng. Mấy năm trước đi xe ôm một vài km, tôi chỉ phải trả có 5 nghìn đồng, giờ đây tôi gần như không hề đi đâu bằng xe ôm với giá thấp hơn 10 nghìn. Mặc dù Nghị quyết 11 của nhà nước đã được những bộ, ngành và địa phương triển khai nghiêm chỉnh và kinh khủng trong thời hạn qua, và sẽ liên tục thực thi trong thời hạn tới với tiềm năng cắt giảm tiêu tốn công cho những dự án Bất Động Sản chưa thiết yếu, nhằm mục đích kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chỉ số giá tiêu dùng trong một vài tháng tới vẫn tăng, nhưng vận tốc tăng hoàn toàn có thể chậm dần. Nguyên nhân là do không ổn định chính trị tại Bắc Phi và Trung Đông, thiên tai tại Nhật Bản và một số ít nơi khác trên quốc tế làm Chi tiêu nhiều loại sản phẩm nguyên, nhiên, vật tư quan trọng cho sản xuất tăng liên tục trong những tháng cuối năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011, nhất là xăng dầu, sắt thép, nguyên vật liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, nguyên vật liệu sữa, … đã ảnh hưởng tác động đến giá nguồn vào sản xuất trong nước. Chỉ số giá nguyên nhiên vật tư dùng cho sản xuất ( nguồn vào sản xuất ) quý 1/2011 đã tăng 15,2 % so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 6 % so với quý 4/2010, trong đó chỉ số giá nguồn vào cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy hải sản tăng cao nhất tới 21 % so với cùng kỳ và 10 % so với quý 4/2010, ảnh hưởng tác động đến giá loại sản phẩm sản xuất được tiêu dùng trên thị trường. Tuy nhiên, với điều kiện kèm theo triển khai kinh khủng Nghị quyết 11, đồng thời không có dịch chuyển lớn về giá một số nguyên, nhiên, vật tư nguồn vào quan trọng, hoặc không có không bình thường lớn trên quốc tế trong thời hạn tới thì chỉ số giá tiêu dùng sẽ không thay đổi trong những tháng cuối năm và hoàn toàn có thể giữ được mức lạm phát như năm 2010 ( 11,75 % ). Tôi chỉ nói riêng về câu hỏi dự báo CPI tháng 5/2011. Theo tôi chỉ số giá tháng này hoàn toàn có thể tăng khoảng chừng 2-2, 5 % so với tháng trước. Về nguyên tắc, khi tiền tăng nhiều hơn mức tăng của sản phẩm & hàng hóa dẫn đến lạm phát thì cần phải thắt chặt tiền tệ để giảm lượng tiền trong nền kinh tế tài chính là trọn vẹn đúng. Tuy nhiên, điều cần quan tâm là việc thắt chặt tiền tệ cần phải bảo vệ rằng những đối tượng người tiêu dùng tạo ra nhiều giá trị ngày càng tăng cho nền kinh tế tài chính phải bị ít ảnh hưởng tác động nhất để bảo vệ mức ngày càng tăng cân đối giữa tiền và hàng. Nhìn dưới góc nhìn này và dựa vào nghiên cứu và phân tích trên sẽ thấy việc thắt chặt tiền tệ hoàn toàn có thể làm cho thực trạng trở nên trầm trọng hơn vì : Thứ nhất, ở khu vực thị trường hay khu vực kinh doanh thương mại những doanh nghiệp vừa và nhỏ – cỗ máy tăng trưởng của Việt Nam – hoàn toàn có thể là đối tượng người dùng chịu tác động ảnh hưởng thứ nhất vì khi nguồn vốn bị số lượng giới hạn thì người bên ngoài ( những doanh nghiệp vừa và nhỏ ) sẽ là đối tượng người tiêu dùng bị cắt nguồn vốn thứ nhất. Như vậy, ngay ở khu vực trường, mất cân đối tiền – hàng hoàn toàn có thể trở nên trầm trọng hơn. Thứ hai, thắt chặt tiền tệ chưa hẳn sẽ giảm được lượng tiền trong nền kinh tế tài chính. Nói chung thắt chặt tiền tệ là giảm lượng cung tiền ở khu vực thị trường với giả định là việc tiêu tốn công phải tuân thủ theo những kỷ luật khắt khe nên lượng tiền trong nền kinh tế tài chính sẽ giảm. Tuy nhiên, nếu tiềm năng góp vốn đầu tư vẫn chiếm khoảng chừng 40 % GDP hay mức tiêu tốn của toàn xã hội không biến hóa thì việc thắt chặt tiền tệ ở khu vực thị trường hoàn toàn có thể sẽ đẩy tiền sang khu vực tiêu tốn ngân sách vì trên trong thực tiễn NHNN không hề nói không với nhu yếu từ phía nhà nước. Lúc này, một lần nữa, mất cân đối tiền – hàng lại trở nên nghiêm trọng hơn. Như trên tôi đã trình diễn về nguyên nhân của lạm phát. Trong năm nay, nếu nhà nước kiên trì thắt chặt tài khóa và tiền tệ thì nguyên nhân cầu kéo lạm phát sẽ dần được loại trừ. Vì vậy, hoàn toàn có thể nguyên nhân hầu hết của lạm phát năm nay là do ngân sách đẩy. Tuy vậy, nếu không khởi động trên thực tiễn quy trình tái cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính, quy đổi quy mô tăng trưởng dựa hầu hết vào nâng cao hiệu suất, hiệu suất cao và năng lượng cạnh tranh đối đầu của nền kinh tế tài chính thì nguyên nhân sâu xa của lạm phát vẫn còn nguyên, và rủi ro tiềm ẩn lạm phát do cầu kéo ( do lan rộng ra chủ trương tài khóa và tiền tệ ) sẽ quay trở lại. Tôi cũng cho rằng, triển khai Nghị quyết 11 của nhà nước, chủ trương tiền tệ năm nay đã có một tiềm năng khá rõ ràng, giám sát và giám sát được. Trên trong thực tiễn, những giải pháp về tiền tệ đang được triển khai khá kinh khủng và có những tác dụng trong bước đầu trong kiềm chế lạm phát, không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô. Còn về tài khóa thì hiệu quả chưa thật rõ ràng, những khoản cắt giảm góp vốn đầu tư, cắt giảm tiêu tốn, theo tôi vẫn mới chỉ dừng ở những số lượng báo cáo giải trình, có lẽ rằng chưa cắt giảm một cách thực sự, qua đó góp thêm phần giảm tổng cầu của nền kinh tế tài chính và giảm áp lực đè nén so với lạm phát. Hy vọng rằng, trong những tháng tới đây những giải pháp về tài khóa sẽ được thực thi tốt hơn, phối hợp, bổ trợ và giảm bớt gánh nặng cho chủ trương tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô. Có như vậy, tác dụng kiềm chế lạm phát, không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô sẽ vững chắc hơn. Như tôi đã nghiên cứu và phân tích, nếu chỉ tập trung chuyên sâu vào thắt chặt tiền tệ hoàn toàn có thể làm cho tình hình nghiêm trọng hơn. Thực ra quả bóng lúc này đang ở phía tiêu tốn ngân sách nhiều hơn. Ý kiến thả lỏng tiền tệ để hạ lãi suất vay, giảm lạm phát là một lập luận trọn vẹn sai lầm đáng tiếc. Nếu giải pháp này được triển khai chẳng khác nào đổ dầu vào lửa. Con số tín dụng thanh toán bằng 1,2 lần GDP mà bạn đưa ra ( theo số liệu mà tôi có được hoàn toàn có thể là cao hơn một chút ít ) là điều cần đặc biệt quan trọng chăm sóc. Những nước có mức độ tăng trưởng như Việt Nam thì tín dụng thanh toán so với GDP của họ chỉ bằng khoảng chừng 50-80 % GDP và giá trị thị trường của những doanh nghiệp niêm yết so với GDP cũng chỉ tương tự mức độ hiện tại của Việt Nam. Tại sao tín dụng thanh toán cho doanh nghiệp nhiều mà GDP lại tăng không cao ? Phải chăng nợ xấu là một yếu tố hoàn toàn có thể rất nghiêm trọng và cần được chăm sóc của nền kinh tế tài chính Việt Nam ? Lạm phát những tháng đầu năm 2011 có những nguyên nhân hầu hết như sau. Thứ nhất doanh nghiệp kinh doanh thương mại xăng dầu tăng giá 2 lần ( ngày 24/2 và ngày 29/3 ), mỗi lít xăng tăng khoảng chừng 30 %, dầu tăng khoảng chừng 38 % đã ảnh hưởng tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải vận tải đường bộ và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động giải trí sản xuất của những nghành nghề dịch vụ khác. Nguyên nhân thứ hai là giá điện cho sản xuất và hoạt động và sinh hoạt cũng được kiểm soát và điều chỉnh tăng khoảng chừng 15,3 % vận dụng từ 1/3. Thứ ba là tác động ảnh hưởng của tỷ giá giữa VND và USD, đồng Việt Nam mất giá mạnh trong 3 tháng đầu năm đã làm tăng giá nguyên, nhiên vật tư nhập khẩu ( trong điều kiện kèm theo nước ta còn phụ thuộc vào quá nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật tư từ quốc tế để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước ). Đây là nguyên nhân tất cả chúng ta bị tăng giá kép từ giá quốc tế và đổi khác tỷ giá. Thứ tư là ảnh hưởng tác động từ những tháng cuối năm 2010 chi góp vốn đầu tư từ ngân sách và của những doanh nghiệp tăng khá nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông lớn. Thứ năm là yếu tố tâm ý ( cả người tiêu dùng và người kinh doanh nhỏ ) từ việc nhà nước kiểm soát và điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1 và 1/5/2011. Những số liệu thống kê về kinh tế tài chính xã hội nói chung và chỉ số giá tiêu dùng nói riêng của Tổng cục Thống kê từ trước đến nay luôn giữ được tính khách quan và độc lập. Tất cả số liệu của Tổng cục Thống kê đều được tích lũy và phản ánh đúng trong thực tiễn tình hình kinh tế tài chính xã hội của quốc gia. Chưa khi nào Tổng cục Thống kê chịu áp lực đè nén ” làm đẹp số lượng ” như bạn nói. Các nhà chỉ huy luôn luôn tôn trọng và sử dụng số liệu thống kê trong công tác làm việc kiến thiết xây dựng và nhìn nhận tình hình thực thi kế hoạch kinh tế tài chính xã hội của những cấp. Như tất cả chúng ta đều biết, cắt giảm góp vốn đầu tư nhà nước, cắt giảm tiêu tốn ngân sách, giảm thâm hụt ngân sách là một trong số những giải pháp cơ bản để kiềm chế lạm phát, không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô. Như trên tôi đã trình diễn, nguyên nhân sâu xa của lạm phát là hiệu suất cao góp vốn đầu tư, nhất là góp vốn đầu tư nhà nước còn thấp. Còn lan rộng ra tài khóa, làm tăng tổng cầu là một trong những nguyên nhân trực tiếp. Vì vậy, nếu chỉ cắt giảm góp vốn đầu tư mà chưa có những giải pháp thay đổi quản trị, cơ cấu tổ chức lại và nâng cao hiệu suất cao góp vốn đầu tư thì mới chỉ xử lý được nguyên nhân trước mắt mà chưa khắc phục được nguyên nhân cơ bản của nó. Vì vậy, theo tôi đồng thời với việc thanh tra rà soát, cắt giảm góp vốn đầu tư như lúc bấy giờ đang làm ở những bộ, ngành và những địa phương thì nhà nước cần đồng thời điều tra và nghiên cứu, kiến thiết xây dựng để trong một hai năm tới đây sẽ thực thi một chính sách mới về phân chia, quản trị, sử dụng vốn góp vốn đầu tư nhà nước, trong đó tiềm năng cơ bản là nâng cao hiệu suất cao của góp vốn đầu tư nhà nước nói chung và của từng dự án Bất Động Sản nói riêng. Đây có lẽ rằng cũng là một trong những trách nhiệm hầu hết của tái cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính và quy đổi mô hinh tăng trưởng như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra. Tôi xin vấn đáp hai thắc mắc của ông Thắng như sau : Thứ nhất, so với yếu tố lạm phát. Như tôi đã nghiên cứu và phân tích, yếu tố tiền tệ vẫn là căn nguyên của lạm phát, nhưng ở 1 số ít thời gian nhất định ( thời gian ngắn ) còn yếu tố cầu kéo và ngân sách đẩy. Ở Việt Nam, mức tăng giá hàng năm vào tháng 1 và tháng 2 thường tăng cao là rơi vào dịp tết nguyên đán, khi đó mức cầu của hầu hết những loại sản phẩm & hàng hóa tiêu dùng đều cao hơn mức cung có ( mặc dầu đã được chuẩn bị sẵn sàng sẵn ) nên ở thời gian này giá tăng cao hơn thông thường. Như vậy, việc tăng giá theo mùa vụ này chính là do cầu kéo. Điều này không chỉ đúng ở Việt Nam mà còn đúng ở những nước khác trong những mùa liên hoan như những nước phương Tây vào tháng 11-12 hay Trung Quốc vào tháng 1-2. Tuy nhiên, cần phải chú ý quan tâm rằng, nếu cung tiền không tăng quá nhiều thì qua những thời gian mùa vụ này giá sẽ được kiểm soát và điều chỉnh và mức tăng giá của cả năm sẽ không quá cao. Thứ hai, so với yếu tố thắt chặt tiền tệ : Ông đúng và đó là nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao. Nguồn số liệu nguồn vào của Tổng cục Thống kê lúc bấy giờ được tích lũy hầu hết từ những nguồn sau : – Một là chính sách báo cáo giải trình thống kê định kỳ ( tháng, quý, năm ) vận dụng so với những cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn góp vốn đầu tư trực tiếp quốc tế. – Hai là trải qua tổng tìm hiểu / tìm hiểu so với doanh nghiệp ngoài nhà nước, hộ mái ấm gia đình, những cơ sở sản xuất kinh doanh thương mại thành viên và những tổ chức triển khai hiệp hội ngoài nhà nước khác. – Ba là nguồn hồ sơ hành chính. – Ngoài ra, Tổng cục Thống kê cũng sử dụng thêm nguồn số liệu từ những tổ chức triển khai quốc tế, cũng như những nước đối tác chiến lược để so sánh, so sánh và bổ trợ. Như vậy, chất lượng của số liệu thống kê sẽ phụ thuộc vào nhiều vào chất lượng của báo cáo giải trình cũng như chất lượng phân phối thông tin cho những cuộc tổng tìm hiểu / tìm hiểu. Với số liệu lúc bấy giờ, chúng tôi trọn vẹn hoàn toàn có thể chứng minh và khẳng định rằng đã phản ánh đúng thực chất và khuynh hướng của những hoạt động giải trí kinh tế tài chính xã hội lúc bấy giờ, và những số liệu thống kê này đã bảo vệ được tính kịp thời với chất lượng ngày càng được nâng cao, Giao hàng cho công tác làm việc chỉ huy, chỉ huy và quản lý và điều hành của những cơ quan tổ chức triển khai Đảng, Nhà nước ở những cấp. Tất nhiên, chúng tôi vẫn mong ước số liệu thống kê cần phải đạt được độ đúng chuẩn, tính rất đầy đủ và kịp thời cao hơn nữa. Chính thế cho nên, chỉ huy Tổng cục Thống kê luôn xác lập một trong những tiềm năng của ngành là phấn đấu để thông tin thống kê kinh tế tài chính xã hội tiến tới đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế trong thời hạn tới. Để đạt được tiềm năng này, Tổng cục Thống kê đang khẩn trương tiến hành thực thi Quyết định 312 ngày 2/3/2010 của Thủ tướng nhà nước về phê duyệt Đề án thay đổi đồng điệu những mạng lưới hệ thống chỉ tiêu thống kê, và đang tích cực kiến thiết xây dựng kế hoạch tăng trưởng thống kê giai đoạn 2010 – 2020 tầm nhìn 2025 trình Thủ tướng nhà nước phát hành vào cuối quý 2/2011. Đúng, góp vốn đầu tư công không hiệu suất cao chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát. Một trong những chìa khóa then chốt lúc bấy giờ để giải quyết và xử lý mất cân đối kép của nền kinh tế tài chính lúc bấy giờ là cắt giảm tiêu tốn công. Về mặt nguyên tắc, những khoảng chừng tiêu tốn kém hiệu suất cao sẽ được cắt giảm. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn cho yếu tố này. Thứ nhất, so với tiêu chuẩn cắt giảm, nghiên cứu và phân tích quyền lợi – ngân sách là công cụ cơ bản nhất để đưa ra quyết định hành động. Tuy nhiên, yếu tố phức tạp ở chỗ là phần nhiều không ai có thể lượng hóa được đúng mực những quyền lợi và ngân sách nên rất khó để hoàn toàn có thể tính ra được một số lượng thuyết phục về quyền lợi ròng của dự án Bất Động Sản. Điều này dẫn đến những lập luận vì tiềm năng phúc lợi, bảo mật an ninh quốc phòng, không thay đổi xã hội trở nên thông dụng. Lúc này, quyền nằm trong tay người ra quyết định hành động và những áp lực đè nén tương quan. Thứ hai, cắt của người thân trong gia đình hay cắt của người sơ, người có tiếng nói hay không có tiếng nói là điều không hề đơn thuần. Tôi xin mượn câu truyện sau để nghiên cứu và phân tích yếu tố này. Thử tưởng tượng như một mái ấm gia đình, nếu cần cắt giảm tiêu tốn thì những khoản cần được nghĩ đến tiên phong chính là phần trà thuốc của bố và trang điểm của mẹ chứ không phải là phần sữa cho con. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc cắt giảm những khoản như vậy là rất khó khăn vất vả vì cha mẹ là người có quyền lực tối cao lớn nhất trong mái ấm gia đình và có vô số nguyên do để duy trì những khoản tiêu tốn của mình. Người bố hoàn toàn có thể lấy nguyên do rằng đây là những khoản tiêu tốn mang tính ngoại giao, tôi không hề mất mặt với bè bạn được nên cần phải có những khoản tiêu này trong khi thực chất là người bố đang nghiện rượu. Người mẹ hoàn toàn có thể lý luận rằng tôi đẹp thì làm cho ông hãnh diện chứ tôi được gì đâu. Ai cũng cần cả sao mà bỏ được. Do sự nhạy cảm trong quan hệ trong mái ấm gia đình, nếu ông bố không tự nguyện bỏ rượu hay người mẹ không tự giảm bớt một vài loại mỹ phẩm đắt tiền thì việc cắt giảm có vẻ như không hề vì hai người nể nang nhau nên chẳng ai nói ra trong khi con cháu thì ai mà dám. Kết quả là rất hoàn toàn có thể phần sữa của con bị cắt. Do vậy, để việc cắt giảm tiêu tốn công khả thi, theo tôi, Việt Nam nên vận dụng hai tiêu chuẩn là số lượng giới hạn tiêu tốn và cắt đều ở toàn cảnh trước mắt. Đối với việc số lượng giới hạn tiêu tốn công, Nhà nước nên đưa ra đưa ra tiềm năng trong 5 năm tới, tổng tiêu tốn công ( cả góp vốn đầu tư và tiêu tốn tiếp tục ) chỉ là 30 % GDP thay vì từ 35-40 % GDP như lúc bấy giờ. Với số lượng giới hạn này thì tổng thể những bên sẽ ngồi lại với nhau để chia cái bánh đã được số lượng giới hạn. Đối với việc cắt giảm trước mắt, cắt đều có lẽ rằng là giải pháp hoàn toàn có thể khả thi vì trong trường hợp này tổng thể những khoản tiêu tốn đều được cắt một tỷ suất như nhau. Thoạt nhìn thì có vẻ như không bình thường và phản khoa học, nhưng do không có tiêu chuẩn không rõ ràng, nên nếu vận dụng những tiêu chuẩn hoàn toàn có thể sẽ dẫn đến thực trạng khoản thiết yếu nhất ( sữa của con ) bị cắt như nghiên cứu và phân tích ở trên. Thôi thì cứ cắt đều. Sau một thời hạn, nếu thấy những chỗ nào bất hài hòa và hợp lý thì có những giải pháp bổ trợ thêm trong số lượng giới hạn cứng của tiêu tốn 30 % nêu trên. Tôi đống ý với câu vấn đáp ở phía trên của ông Nguyễn Đình Cung. Như tôi đã nghiên cứu và phân tích, chìa khóa của yếu tố lạm phát giờ đây chính là thắt chặt tiêu tốn ngân sách. Nếu tiền tệ cứ phải thắt chặt mãi mà tiêu tốn như hiện tại thì thực trạng hoàn toàn có thể trầm trọng hơn. Do vậy, ưu tiên với yếu tố lạm phát giờ đây phải là cắt giảm tiêu tốn ngân sách. Ngân hàng Nhà nước, có lẽ rằng sẽ phải tập trung chuyên sâu nhiều vào yếu tố tỷ giá vì trong thời điểm tạm thời đang ổn, nhưng những yếu tố gây ra rắc rối cho tỷ giá vẫn còn. Một sự sẵn sàng chuẩn bị trước có lẽ rằng là thiết yếu. Ngoài chỉ số giá tiêu dùng đã được tích lũy, tổng hợp và công bố hàng tháng, Tổng cục Thống kê đã tích lũy, tổng hợp và công bố 1 số ít chỉ số giá sản xuất quan trọng ( PPI ) hàng quý như : chỉ số giá nguyên, nhiên vật tư nguồn vào sản xuất ; chỉ số giá cả loại sản phẩm của người sản xuất công nghiệp ; chỉ số giá cả mẫu sản phẩm của người sản xuất nông lâm nghiệp, thủy hải sản ; chỉ số giá cước vận tải ; chỉ số giá sản phẩm & hàng hóa xuất khẩu ; chỉ số giá sản phẩm & hàng hóa nhập khẩu. Còn về core inflation ( còn được gọi là lạm phát cơ bản ), trong vài năm gần đây Tổng cục Thống kê đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước điều tra và nghiên cứu, đo lường và thống kê thử nghiệm chỉ số này, trong bước đầu Giao hàng cho những đơn vị chức năng tương quan của Ngân hàng Nhà nước, xem xét để nhìn nhận việc thực thi chủ trương tiền tệ. Tổng cục Thống kê sẽ liên tục phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và những bộ, ngành tương quan nghiên cứu và điều tra không thiếu hơn về nội dung, giải pháp tính, nghiên cứu và phân tích, cũng như ý nghĩa kinh tế tài chính của loại chỉ số này để trình Thủ tướng nhà nước. Gần đây, Viện Nghiên cứu quản trị kinh tế tài chính Trung ương ( CIEM ) đã nghiên cứu và điều tra kiến thiết xây dựng đề án “ Tái cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính và quy đổi quy mô tăng trưởng ” theo hướng nâng cao hiệu suất, hiệu suất cao và năng lượng cạnh tranh đối đầu của nền kinh tế tài chính. Chúng tôi thấy rằng, có hàng loạt những việc làm cơ bản và quan trọng cần phải triển khai. Tuy vậy, theo tôi trong số những giải pháp đó thì cần phải có sắp xếp thứ tự ưu tiên trong tiến hành triển khai. Tôi cho rằng, trong toàn cảnh lúc bấy giờ ở nước ta thì cải cách nâng cao hiệu suất cao khu vực nhà nước ( gồm có quản trị nhà nước, ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước ) nên là điểm khởi đầu của quy trình tái cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính và quy đổi quy mô tăng trưởng. Như trên tôi đã nói, đồng thời với việc thanh tra rà soát, cắt giảm góp vốn đầu tư như lúc bấy giờ đang làm trong khuôn khổ thực thi Nghị quyết số 11 của nhà nước về kiềm chế lạm phát, không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô, bảo vệ phúc lợi xã hội thì cần phải nghiên cứu và điều tra và thay đổi chính sách quản trị góp vốn đầu tư nhà nước. Theo tôi, chính sách quản trị mới tối thiểu phải có một số ít nội dung đơn cử sau đây : Một là : phát hành tiêu chuẩn nhìn nhận hiệu suất cao kinh tế tài chính so với góp vốn đầu tư nhà nước để mức độ hiệu suất cao kinh tế tài chính so với từng dự án Bất Động Sản phải đo lường và thống kê được một cách đơn cử trong đề xuất kiến nghị, thẩm định và đánh giá, quyết định hành động, kiểm tra, giám sát và nhìn nhận góp vốn đầu tư. Trên cơ sở đó, những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư có hiệu suất cao cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó góp vốn đầu tư sẽ được phân chia và sử dụng một cách tập trung chuyên sâu hơn ; kiểm tra và giám sát góp vốn đầu tư cũng sẽ thuận tiện và hiệu suất cao hơn. Hai là : Thay đổi chính sách phân cấp quản trị góp vốn đầu tư. Các địa phương, những bộ vẫn có quyền dữ thế chủ động kiến thiết xây dựng và đề xuất kiến nghị dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư nhưng lựa chọn dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư cần được thực thi theo nguyên tắc đấu thầu công khai minh bạch theo cơ chế thị trường. Qua đó sẽ lựa chọn được những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư có hiệu suất cao kinh tế tài chính cao nhất. Trong phân cấp, cần tính đến tăng trưởng cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính vùng trong đánh giá và thẩm định lựa chọn và quyết định hành động góp vốn đầu tư để những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư trong cùng một vùng không cạnh tranh đối đầu nhau, loại trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ trợ lẫn nhau. Ba là : Tăng cường thẩm quyền và năng lượng của cơ quan chuyên trách quản trị góp vốn đầu tư nhà nước. Bốn là : Thiết lập mạng lưới hệ thống thông tin toàn nước về góp vốn đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó thực thi công khai hóa thông tin về hàng loạt góp vốn đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư nhà nước nói riêng. Về việc này, theo tôi những thông tin sau đây cần phải được công khai hóa : – tin tức về dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư như : tên dự án Bất Động Sản ; tiềm năng dự án Bất Động Sản ; quy mô ; ngành nghề ; tổng vốn, quy trình tiến độ phân chia vốn và quá trình triển khai, thời hạn khởi đầu và kết thúc … – Đơn vị hoặc cá thể đề xuất kiến nghị dự án Bất Động Sản, đơn vị chức năng và cá thể kiến thiết xây dựng dự án Bất Động Sản, những cơ quan và cá thể tham gia thẩm định và đánh giá dự án Bất Động Sản, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự án Bất Động Sản, báo cáo giải trình nhìn nhận tác động ảnh hưởng kinh tế tài chính – xã hội của dự án Bất Động Sản. – Chủ góp vốn đầu tư thực thi dự án Bất Động Sản, những nguyên do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ góp vốn đầu tư. – Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị chức năng được chọn thực thi dự án Bất Động Sản, những tiêu chuẩn đã được sử dụng để chọn nhà thầu triển khai dự án Bất Động Sản. – Tiến độ thực thi dự án Bất Động Sản, những khó khăn vất vả mới phát sinh, chênh lệch ( nếu có ) giữa quá trình thực thi và kế hoạch, nguyên nhân, cá thể và cơ quan chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch. Việc thanh tra rà soát, cắt giảm, sắp xếp cơ cấu tổ chức lại và nâng cao hiệu suất cao góp vốn đầu tư nhà nước không phải là việc giản đơn và chỉ triển khai trong năm nay, mà là một việc làm thương xuyên và vĩnh viễn trong quy trình tái cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính, thay đổi quy mô tăng trưởng. Cơ chế mới về quản trị góp vốn đầu tư nhà nước như trình diễn trên đây không chỉ vận dụng cho việc lựa chọn và quyết định hành động góp vốn đầu tư so với những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư mới mà còn vận dụng để thanh tra rà soát, cắt giảm và cơ cấu tổ chức lại hạng mục những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư hiện có. Đúng là nền kinh tế tài chính Việt Nam có nhiều điểm tương đương với kinh tế tài chính Trung Quốc và tất cả chúng ta đã vận dụng nhiều chủ trương giống với Trung Quốc. Tuy nhiên, những yếu tố khác nhau cơ bản sau đây dẫn đến hiệu quả khác nhau. Thứ nhất, Trung Quốc đồng điệu với chủ trương định giá đồng Nhân dân tệ thấp để có lợi cho hoạt động giải trí ngoại thương. Kết quả là cùng với cách chủ trương khác Trung Quốc trở thành “ nhà buôn ” lớn nhất quốc tế, với Tặng dư thương mại và dự trữ ngoại tệ lớn nhất quốc tế. Hơn thế, theo thời hạn đồng Nhân dân tệ tăng giá cùng với sự khẳng định chắc chắn sức mạnh của nền kinh tế tài chính Trung Quốc. Thứ hai, về cơ bản Trung Quốc theo đuổi chủ trương tiền tệ thận trọng ( trừ chủ trương lan rộng ra cho gói kích thích vào cuối năm 2009 và đầu 2010 mà giờ đây họ phải đang phải gánh chịu hậu quả ). Kết quả của chủ trương này là Ngân sách chi tiêu được giữ ở mức không thay đổi. Từ trường hợp của Trung Quốc, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy rất rõ của chủ trương lan rộng ra tiền tệ quá mức. Thứ ba, họ cũng cổ phần hóa và niêm yết những doanh nghiệp nhà nước, nhưng bản thân những doanh nghiệp của họ có sự cạnh tranh đối đầu rất lớn cùng với việc phải tuân thủ những kỷ luật thị trường khi niêm yết quốc tế nên những doanh nghiệp của họ trở nên rất mạnh. Ở Việt Nam, nếu nhìn vào sự cạnh tranh đối đầu trong ngành viễn thông, đơn cử là giữa Viettel và VNPT thì tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy hiệu suất cao của cạnh tranh đối đầu đúng nghĩa. Rất tiếc là những ví dụ như ngành bưu chính viễn thông quá ít. Như tôi đã vấn đáp khi trước, ” rổ ” sản phẩm & hàng hóa lúc bấy giờ của Tổng cục Thống kê gồm 572 sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ đại diện thay mặt cho tiêu dùng phổ cập của dân cư ( tăng 78 mẫu sản phẩm so với giai đoạn trước ), chia thành 11 nhóm lớn với quyền số như sau : Quyền số của nhóm hàng ăn và dịch vụ ẩm thực ăn uống là 39,93 % ; đồ uống thuốc lá là 4,03 % ; may mặc, mũ nón, giày dép 7,28 % ; nhà tại và vật tư thiết kế xây dựng 10,01 % ; thiết bị và vật dụng mái ấm gia đình 8,65 % ; thuốc và dịch vụ y tế 5,6 % ; giao thông vận tải 8,87 % ; bưu chính viễn thông 2,72 % ; giáo dục 5,72 % ; văn hóa truyền thống vui chơi và du lịch 3,83 % ; sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ khác 3,34 %. Phạm vi tìm hiểu được vận dụng tại 63 tỉnh, thành phố thường trực Trung ương, đơn cử gồm 254 khu vực tìm hiểu tương ứng với trên 3000 điểm ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Thời gian tích lũy giá sản phẩm & hàng hóa được tính từ ngày 15 tháng này đến 15 tháng sau, thu thập thành 3 kỳ / tháng báo cáo giải trình, vào những ngày 25, 5 và 15 hàng tháng so với 131 mẫu sản phẩm hay dịch chuyển như lương thực, thực phẩm, ẩm thực ăn uống ngoài, xăng dầu, vật tư thiết kế xây dựng … Thu thập 1 kỳ / tháng so với những mẫu sản phẩm còn lại vào ngày 5 hàng tháng .
Source: https://laodongdongnai.vn
Category: Thị Trường