Hạnh Phúc

Giới thiệu sơ lược

Sự kiện Hạnh Phúc là một chuỗi sự kiện có chu kỳ luân hồi, mỗi kỳ mới sẽ Open những bộ phục trang mới .

Lễ Cưới – Lễ Thành Hôn trong văn hóa truyền thống Phương Đông

Trong đời sống hôn nhân gia đình của người Nước Ta, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là đám cưới, lễ cưới hoặc gọn hơn là cưới, gọi theo tiếng Hán-Việt là giá thú. Đối với người Việt, lễ cưới là một trong bốn nghi lễ quan trọng và được xã hội chăm sóc nhiều hơn cả .

Quan niệm về hôn nhân gia đình

Thời phong kiến, theo luân lý ” tam cương ngũ thường “, con cháu mà còn cha mẹ khi nào cũng ở vị thế nhờ vào, việc hôn nhân gia đình của con cháu cha mẹ có quyền độc đoán và ” đặt đâu ngồi đấy “. Nếu con cháu không bằng lòng với người vợ ( hay chồng ) mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự không cần biết ái tình của con cháu, chỉ cốt tìm được nơi ” môn đăng hộ đối ” là cha mẹ nhờ ” mối lái ” điều đình để đính hôn nên đã xảy ra tệ tảo hôn và tục phúc hôn .

Người xưa quan niệm mục đích hôn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau để “vĩnh truyền tông tộc”, do đó luân lý cho người “vô hậu” là phạm điều bất hiếu rất lớn. Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân huyết thống mà còn có nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tông đường mà còn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho gia đình nhà chồng.

Bạn đang đọc: Hạnh Phúc

Chế độ “đa thê, đa thiếp” cho phép đàn ông được phép có nhiều vợ mà không phải vì vợ chính không sinh con hay chỉ sinh con gái. Lấy thiếp (còn gọi là vợ lẽ, vợ hai, vợ ba, nàng hầu…) không cần tổ chức lễ cưới và vì người thiếp không phải là một phần tử trọng yếu trong gia đình nên chồng hay vợ chính muốn đuổi khi nào cũng được.

Lễ nghi dân gian

Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là hôn lễ. Theo giải thích của Đào Duy Anh, chữ “hôn” nguyên nghĩa là chiều hôm, theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối.

Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người ( sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ ) khi nhấn mạnh vấn đề trong câu ca dao : ” tậu trâu cưới vợ làm nhà … ”
Ảnh hưởng văn hóa truyền thống Trung Quốc, hôn nhân gia đình của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai mái ấm gia đình phải thực thi những lễ chính sau :

  • Lễ nạp tài: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
  • Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.
  • Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
  • Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
  • Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là
  • Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.

Sự Kiện Hạnh Phúc Kỳ 1

Sự Kiện Hạnh Phúc Kỳ 2

Sự Kiện Hạnh Phúc Kỳ 3

Sự Kiện Hạnh Phúc Kỳ 4