Mong ước tái sinh làm cây thông của Nguyễn Công Trứ :: Suy ngẫm & Tự vấn :: https://laodongdongnai.vn

Trên tập san Pháp luân số 80, một tác giả đã viết bài báo dài gần 10 trang giấy để lý giải một “ ý thơ ” của Nguyễn Công Trứ ( 1778 – 1858 ) : “ Kiếp sau xin chớ làm người / Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. ” Sau khi trích dẫn nhiều thơ văn để tìm hiểu và khám phá Nguyễn Công Trứ qua ba quy trình tiến độ của cuộc sống, người viết sử dụng nhiều khái niệm, nhiều thuật ngữ triết học của Phật, Khổng và Lão để hiểu ý nghĩa của câu thơ và Tóm lại : Nguyễn Công Trứ mang “ tâm trạng bi quan ngán ngẩm cho kiếp người trôi nổi vật vờ trên dòng đời dâu bể … ”, lời thơ “ chỉ còn là tiếng thở dài đầy bất lực và thoái thác so với kiếp người ”, mong ước làm cây thông “ chỉ là một tham vọng hão huyền xa vời trong kiếp Tái sinh – Luân hồi … ”

Qua bài viết này, theo một hướng tiếp cận khác, chúng tôi nghiên cứu và phân tích bài Nhàn ngâm trích dẫn toàn vẹn dưới đây để lý giải nguyên do Nguyễn Công Trứ không muốn làm người và tìm hiểu và khám phá ý nghĩa Mong uớc tái sinh làm cây thông của nhà thi sĩ :

“Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.”

Nguyễn Công Trứ là con người hành vi. Qua ba quá trình của cuộc sống là hàn vi, xuất chính và hồi hưu, tác giả đã sống đúng lẽ xuất xử của nho gia để triển khai xong chương trình hành vi – lý tưởng sống nhập thế tích cực của kẻ sĩ. Nhưng ở một lúc nào đó vào cuối đời, đã Open một Nguyễn Công Trứ “ Ngồi buồn mà trách ông xanh ”, một Nguyễn Công Trứ không muốn làm người mà chỉ muốn làm cây thông ở kiếp sau. Lý do không muốn tái sinh làm người đã được tác giả nêu rõ :“ Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười. ”Cuộc đời thì khi nào cũng vậy, luôn luôn có đủ niềm vui và nỗi buồn. Sống trong cuộc sống ấy, được thành công xuất sắc, người ta thường vui sướng nở nụ cười mãn nguyện, gặp thất bại, người ta hoàn toàn có thể khóc để cho tổng thể buồn khổ trôi theo dòng nước mắt. Dù đã sống thủy chung, gắn bó với cuộc sống, Nguyễn Công Trứ đã không hề khóc, cười một cách tự do và tự nhiên như thế. Ngoài 40 năm sống trong cảnh nghèo của một hàn sĩ, 30 năm xuất chính tiếp theo là khoảng chừng thời hạn Nguyễn Công Trứ chịu nhiều thăng giáng liên tục để nếm trải đủ nhục vinh, khóc cười lẫn lộn trên hoạn lộ, từ đỉnh điểm của danh vọng là chức Tổng đốc Hải An đến “ hố thẳm ” của tuyệt vọng là thân phận người lính thú ở Tỉnh Quảng Ngãi. Thời hưu trí, dù đã ra khỏi “ trường danh lợi vinh liền nhục ” nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn không thoát được “ cuộc trần ai khóc lẫn cười ” .Năm 1852, nhớ công ơn Nguyễn Công Trứ đã mộ dân khai khẩn đất hoang để lập nên xóm làng phong phú, dân huyện Tiền Hải dựng sinh từ để kỷ niệm rồi mời ông ra chơi và nghênh tiếp trọng vọng như một vị thánh sống. Tất nhiên là Nguyễn Công Trứ đã rất vui mừng khi nhìn thấy thành quả mỹ mãn của công cuộc dinh diền mà ông đã triển khai từ hơn 20 năm về trước. Nhưng tình cảnh oái oăm, trớ trêu của “ khi vui muốn khóc ” đã tái diễn ở đây. Vì có tên thị vệ sàm tấu Nguyễn Công Trứ có “ dị chí ” khi để cho dân chúng tổ chức triển khai đón rước linh đình, vua Tự Đức nghi nhờ lòng trung thành với chủ của ông, cho triệu hồi vị công thần về kinh để xét hỏi cho ra lẽ. Nhờ nhà vua còn có đủ sáng suốt để hiểu rõ tâm can của vị lão thần nên Nguyễn Công Trứ đã như mong muốn thoát khỏi cái chết bi thương và oan uổng. Sống qua một đời người có quá nhiều buồn vui, khóc cười lẫn lộn như vậy, vào lúc thư nhàn, Nguyễn Công Trứ có nguyên do để “ ngồi buồn ” mà “ ngán ngẩm cho kiếp người trôi nổi ”. Nhưng nhà thơ của chí đàn ông không khi nào có “ tâm trạng bi quan ”. Bởi lẽ, như thơ văn và cuộc sống của ông đã chỉ rõ, Nguyễn Công Trứ luôn luôn sống sáng sủa tin yêu, chuẩn bị sẵn sàng cạnh tranh đối đầu với nghịch cảnh, vượt qua mọi thử thách để bộc lộ lý tưởng sống hào hùng của kẻ sĩ :

“Đã hay đường thế thời ra thế ,
Sạch nợ tang bồng mới kể người.”

Chúng tôi nghĩ Nguyễn Công Trứ không “ bất lực và thoái thác so với kiếp người ”. Lý do là vì ông chối từ làm người để được làm cây thông ở kiếp sau với nhiều tham vọng và tham vọng về con người, về cuộc sống. Nhà thơ muốn làm cây thông vì thông xanh tươi trên vùng đất sỏi đá khô cằn, thông hiên ngang trong mưa gió rét mướt, thông là hình tượng của lý tưởng sống “ phong phú bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất ” của bậc quân tử nho mà Nguyễn Công Trứ là một đại diện thay mặt. Dùng thi ca để nói lên mong ước tái sinh làm cây thông, Uy Viễn Tướng Công như muốn thách đố người đời, như muốn nhắc nhở tất cả chúng ta hãy vượt qua mọi thử thách và nguy khốn để sống vững vàng và có bản lĩnh trong cuộc sống này :

“Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.”

Điều cần nghiên cứu và phân tích ở đây là cái dáng “ đứng giữa trời mà reo ” của cây thông. Để hiểu hết ý nghĩa của hình tượng văn chương này, chúng tôi thực thi một liên hệ ngoài văn bản bằng cách trích dẫn câu văn biền ngẫu trong bài Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát ( ? – 1854 ) :

“Ngán nhẽ kẻ tham bề khóa lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực chốn hầu môn;
Quản bao kẻ mảng cái dàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.”

Cao Bá Quát cùng làm quan dưới triều Thiệu Trị với Nguyễn Công Trứ. Bức tranh quan lại triều Nguyễn được Cao Bá Quát vẽ bằng gam màu tối như trên chính là trường danh lợi mà Nguyễn Công Trứ đã từng vào ra nhiều lần. Trong thời xuất chính, đã có khi nhà thơ biết thoát vòng danh lợi, vươn lên trên được mất và khen chê để sống “ngất ngưỡng” giữa triều đình. Tuy thế, trong suốt 30 làm tôi trung của nhà Nguyễn, dù không đến nỗi phải “mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ”, nhưng vị nho thần Nguyễn Công Trứ có thể đã hơn một lần“nghiêng mình đứng chực chốn” triều đình, không thể mạnh dạn cất lên tiếng nói trí tuệ của bậc sĩ phu đã có lần tự tín, tự hào nhìn nhận “kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung”, để chỉ còn biết mang “cái dàm danh” mà im lặng lắng nghe đấng quân vương tự nhận là thiên tử để phán những lời mà trăm họ phải nghiêm chỉnh chấp nhận là ý trời, là khuôn vàng thước ngọc…Có phải vì đã trải qua một thời để cho cái “khóa lợi” trói buộc mà đành phải sống gò bó, tù túng ở chốn triều đình, nên khi đã hồi hưu, nhà trí thức lỗi lạc của Việt Nam vào tiền bán thế kỷ XIX đã mong ước kiếp sau được sống đời tự chủ để được tự do nói lên tiếng nói trung thực của mình, như cây thông kia được “đứng giữa trời mà reo”?

Văn chương thường nói điều chưa nói bằng cách phủ nhận điều đã nói. Hiểu đặc tính của văn chương như vậy, lý giải hai câu thơ “ Kiếp sau xin chớ làm người / Làm cây thông đứng giữa trời mà reo ” bằng ý nghĩa như đã nêu trên, tất cả chúng ta biết rõ điều nhà thơ đã nói là không muốn làm người mà chỉ muốn làm cây thông ở kiếp sau, đồng thời, tất cả chúng ta cũng nhận ra tác giả đã phủ nhận điều đã nói ra ấy để nói điều chưa nói ra là mong ước được sống, được làm người một cách kiên cường và dũng mãnh. Ở đây, Nguyễn Công Trứ chỉ mượn từ ngữ “ kiếp sau ” của Phật giáo để trình diễn ý niệm sống nhập thế tích cực của Khổng giáo. Cho rằng Nguyễn Công Trứ không đồng cảm Phật pháp * nên mới có ước nguyện tái sinh làm cây thông ở kiếp sau, từ đó phê phán nhà thơ đã “ tham vọng hão huyền xa vời trong kiếp Tái sinh – Luân hồi ” thì có khác gì trách móc tác giả câu ca dao “ Thương thay thân phận con rùa / Ở đình đội hạc ở chùa đội bia ” không biết yêu thương con người mà chỉ biết thương mến con rùa đá vô tri vô giác !TP. Hồ Chí Minh, 10 – 12 – 11* Sự thật là Nguyễn Công Trứ đã có kiến thức và kỹ năng sâu rộng về Phật học. Bằng chứng là vào những năm cuối thời hưu trí, sau khi bị triệu về kinh vì có tên thị vệ vu oan giáng họa tội mưu phản, Nguyễn Công Trứ trở về quê cũ là làng Uy Viễn, “ bỏ tiền tu sửa chùa Viên Quang và chùa Trung Phu, làm mấy gian nhà tranh ngay bên chùa để ở, thường cùng những Hòa thượng đàm đạo kinh Phật ” ( Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Nước Ta ca trù biên khảo, Tgxb, Sài gòn, 1962, tr. 625 – 626 ). Rất hoàn toàn có thể bài hát nói Vịnh Phật biểu lộ thâm thúy tư tưởng Phật giáo đại thừa đã được tác giả sáng tác trong quy trình tiến độ này ( Hà Thúc Hoan, Đọc Vịnh Phật của Nguyễn Công Trứ, Đạo Phật thời nay, tập 4, tr. 78 – 80 ) .