Hoa văn trang trí của người THÁI

Hoa văn trang trí của người THÁI

 

Hoa văn trang trí của người THÁI

Hai nhóm dân tộc Thái từ Mai Châu, Hòa Bình và Quỳ Châu, Nghệ An. Cả hai nhóm này đều có truyền thống dệt vải lâu đời, nhưng mỗi nhóm lại có nét đặc sắc riêng. Người Thái ở Mai Châu thường dệt các tấm có hoa văn hình học với bố cục và cách phối màu mang hơi thở hiện đại, còn người Thái ở Quỳ Châu lại rất giỏi trong việc kết các hoa văn cầu kỳ, tình xảo.

hoa van thai 1

Họa tiết này mô phỏng gai của một cây gần giống cây cọ nhưng quả bé hơn quả cọ và ăn được chứ không chát như quả cọ. Thân cây này được dùng làm máng nuôi gia súc. Lá cây dùng làm chổi chứ không để lợp nhà như lá cọ .

hoa van thai 2

Tương tự như cây tre, cây mây là một trong những loại nguyên vật liệu ngoài gỗ được sử dụng thoáng rộng nhất để làm những đồ vật mái ấm gia đình. Cây mây thích nghi được với mọi điều kiện kèm theo sống, hoàn toàn có thể sống thành bụi trong rừng hoặc trong vườn nhà với sự chăm nom của con người. Hoa mây nổi tiếng bởi vẻ đẹp của nó. Hoa văn này dược dệt lặp lại để làm họa tiết trang trí và thêm sắc tố cho vải thổ cẩm .

hoa van thai 3

Đây là một loại hoa rất đẹp thường mọc ở trong rừng quanh bản của người Thái. Nhìn thấy hoa đẹp, những cô gái Thái đã chuyển thể thành một loại hoa văn rất thông dụng trên thổ cẩm của họ .

hoa van thai 4

Người Thái đặt tên “ Clom ” cho một loại quả rừng nhỏ như quả nhót nhưng vỏ ráp và thân có rãnh giống quả mướp đắng. Các cô gái Thái đã chuyển thể thành một loại hoa văn rất thông dụng trên thổ cẩm của họ .

hoa van thai 5

Lài luông dịch ra từ tiếng địa phương có nghĩa là “ hoa lớn ”. Đây là một loại hoa văn tinh xảo và tốn nhiều thời hạn để dệt, thường được dệt lên những tấm Lang Biang để làm vỏ chăn hoặc tấm trang trí .

hoa van thai 6

Quả trám là một loại quả quen thuộc trong bữa ăn của những mái ấm gia đình người Thái. Họ thường đi nhặt quả trám rụng trong rừng, mang về rửa sạch và luộc hay kho để ăn với cơm. Nhớ ơn loại quả nhỏ bé nhưng có ích này, người Thái dệt hoa văn quả trám lên thổ cẩm của mình .

hoa van thai 7

Khung cảnh làng của người Thái tại Mai Châu rất đẹp với những ngọn núi bao trùm bởi cây xanh, cánh đồng rộng và nhà sàn dưới bóng dừa nhà sàn dưới bóng dừa. Hình ảnh hoa dừa đã trở nên quen thuộc với đời sống của người Thái và cũng là một loại hoa văn rất hay gặp trên thổ cẩm của người Thái .

hoa van thai 8

Một mái ấm gia đình rất nghèo không có gì cho con ăn. Khi con khóc đòi ăn, người mẹ nói con chờ mẹ đi nương, mót thóc xát lấy gạo nấu cơm cho con ăn. Người con chờ mãi, đến khi mẹ rửa xong gạo cho vào chõ đồ xôi thì người con vô tình nhúng tay vào chậu nước gạo. Chân tay người con bỗng mọc lông lá, người con biến thành khỉ chạy vào rừng, ở trên ngọn cây sấu chua không chịu xuống. Mẹ gọi về ăn cơm, con bảo con biến thành khỉ rồi, ăn quả rừng không thấy chua thấy ngứa, không về ăn cơm với cha mẹ nữa. Vì thương nhớ con, người mẹ dệt con khỉ để nhớ đến đứa con đã mất đi .

hoa van thai 9

Khi toàn cầu mới hình thành, con người sống trong thiếu thốn, một mình đương đầu với vạn vật thiên nhiên. Thấy vậy, ông trời phân công cho những loài vật xuống trần gian giúp con người. Ngựa nói rằng mình có sức khỏe thể chất khác thường, xin ông trời xuống hạ giới để chở con người và thồ lương thực, nguyện trung thành với chủ theo chủ đi khắp nẻo gần xa. Người Thái nhớ ơn nên dệt hình con ngựa trên tấm chăn và nền vọng làm tấm trang trí trong những ngày lễ tết .

hoa van thai 10

Một loại hoa văn hay gặp trong thổ cẩm của người Thái, cả thêu và dệt. Con hươu tượng trưng cho sự tự do và trung thành với chủ. Có câu truyện kể về một cậu bé nghèo chăm nom con hươu, bảo vệ nó khỏi lão đồ tể gian ác. Cậu bé và con hươu trở thành bạn thân. Khi lớn lên, cậu bé được đón lên thành phố học, không kịp chào từ biệt hươu. Hươu lớn lên trở thành đầu đàn, tự tôn với đôi sừng to đẹp. Một ngày nó ăn được một chút ít muối của những người đi làm rừng làm rơi và nhớ lại vị cơm nắm muối mà cậu bé mang lên nuôi nó. Hươu tìm về cái hang mà cậu bé từng giấu nó khi còn bé và chờ người bạn thơ ấu. Cậu bé giờ đã thành đạt và có mái ấm gia đình, một ngày về thăm quê nhà, nhớ con hươu ngày nào nên lên cửa hang tìm. Hươu không thấy, chỉ thấy một cái cây thân như sừng hươu lá như tai hươu và có hoa trắng tinh khôi thơm ngát. Người dân ở đó bảo rằng có con hươu già về đây nằm chết ; đúng chỗ nó nằm mọc lên cây đó – gọi là cây hoa Đại .

hoa van thai 11

Người Thái hay kể cho nhau câu truyện trời sai Tạo Lò Kăm xuống trần gây bản dựng mường. Tạo Lò Kăm vâng lệnh xuống trần, những con vật như trâu, ngựa xin xuống theo cùng để giúp sức. Trời hỏi sao lại xin xuống trần như vậy, Trâu tâu trình “ xin xuống trần để vai mang ách, chân giẫm ruộng trồng lúa, khi chủ mất xin được lao vào làm ma cho chủ ” .

hoa van thai 12

Trong thần thoại cổ xưa về những loài vật của người Thái, con rùa lờ đờ nhưng mưu trí, nhiều phép và giỏi tiên tri nhất trong những con vật. Con rùa dạy người cách tế thần trên trời. Truyện kể rằng từ thuở khai thiên lập địa khi người Thái tìm cách xây nhà không thay đổi đời sống có một con rùa ngoi lên từ sông và mách “ những ông cứ làm mái hồi như cái mai của tôi, làm như vậy sẽ lâu hỏng và không bị dột ”. Người Thái nhớ ơn rùa, xây nhà theo mai rùa và người Thái còn treo mai rùa lên sâu hẹ ( cột thiêng ) đối lập bàn thờ cúng tổ tiên. Cũng có câu truyện kể rằng trong một lần lên thiên đình tâu bẩu, con rùa dẫn cả đoàn đi chậm nói chậm quá, bị những con vật khác lật ngửa và vùi dưới đống lá cỏ ở dưới đất. Con gà trông thấy bèn dùng chân đào đất để giúp con rùa đứng dậy. Để cảm tạ ơn cứu mạng của con gà, con rùa ban phép để cho chân gà hoàn toàn có thể dự báo điềm lành điềm dở. Vì thế, người Thái có tục treo chân gà gác bếp để dự báo điềm may rủi trong năm .

hoa van thai 13

Hoa văn con voi có nguồn gốc từ Lào, còn được gọi là Đất nước Triệu Voi. Người Thái Mai Châu đã biết dệt họa tiết này từ rất lâu. Người dân địa phương thường gắn ý nghĩa của hoa văn này với câu truyện Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán ( Trung Quốc ) vào năm 43 sau công nguyên, qua đó ca tụng niềm tin yêu nước, chống giặc ngoại xâm .

hoa van thai 14

Ngày xưa có đôi vợ chồng nhà nông nghèo mà hiếm con. Một hôm người vợ ra suối xúc cá, đi cả buổi không được con cá nào mà xúc lần nào cũng chỉ được một quả trứng như trứng vịt. Sau khi bà nhặt quả trứng lên, bao nhiêu cá thi nhau bơi về. Bà mang trứng về cho gà ấp, sáng hôm sau trứng nở ra một con rồng nhỏ. Bà thả nó vào cối giã gạo. Nước bỗng dâng lên ngập cối nên ông chồng phải mang rồng con ra ngoài suối thả, nhưng nó không ở mà cứ đi theo ông về nhà. Từ đó, cứ mỗi lần ông đi đâu là nó đi theo. Ông bà thương nó, gọi nó là con. Một hôm, ông đang khai hoang ruộng, vô tình cuốc phải đuôi làm nó bị cụt đuôi. Khi giặc đến xâm lược, rồng xin cha mẹ cho đi đánh giặc. Dù rất thương con nhưng vì quốc gia, ông bà vẫn cho “ con ” đi. Khi đi, nó dặn rằng không được nhắc tên nó nhưng cha mẹ nhớ quá vẫn nhắc. Giặc biết được bèn bắt và đánh chết rồng. Người bố thương, bèn đóng quan tài và mang về Mai Châu chôn cất. Từ đó, cứ đến mùa nước to, nó muốn báo hiếu cha mẹ nên gửi hàng đàn cá lớn về. Người Thái Mai Châu lưu truyền câu truyện này và dệt hoa văn con rồng cụt đuôi .

hoa van thai 15

Theo truyền thuyết thần thoại của người Thái, vào kỷ nguyên thứ 8, khi loài người bắn hạ tám mặt trời và mặt trời thứ chín đi trốn, con người sống trong tăm tối. Họ phải gửi con vịt cõng con gà đi gọi mặt trời về. Để nhớ ơn con vịt đã cõng con gà đi gọi mặt trời, người Thái dệt hoa văn con vịt lên thổ cẩm của họ .

hoa van thai 16

Ngày xưa có mái ấm gia đình dòng họ Hà Công sinh được ba người con trai. Khi những con trưởng thành, cha mẹ muốn ba đồng đội quản lý ba quốc gia. Người anh cả quản lý Đất nước xinh đẹp Thái Lan, người anh thứ nhì thì ở Lào, người em út thì sang Nước Ta. Nhưng cả ba bạn bè đi tìm chỗ để cho người em út lập chiềng thì đến ngã ba Tông Đậu, cả ba bạn bè phân vân không biết cho em út ở đâu thì thấy một đàn chim bay về hướng Mai Châu nên ba bạn bè bàn nhau chắc là ở đây đất lành chim đậu. Người em út đã sinh cơ lập nghiệp ở Mai Châu. Nhờ công của đàn chim mà người em út đã tìm được đất Mai Châu, nên từ đó những chị em dệt hình ảnh con chim lên thổ cẩm để nhớ ơn .

hoa van thai 17

Các thầy cúng người Thái dùng chân gà để đoán điềm lành dở. Tục lệ này bắt nguồn từ câu truyện như sau : Trong thần thoại cổ xưa về những loài vật của người Thái, con rùa lừ đừ nhưng mưu trí, nhiều phép và giỏi tiên tri nhất trong những con vật. Trong một lần lên thiên đình tâu bẩu, con rùa dẫn cả đoàn đi chậm nói chậm quá, bị những con vật khác lật ngửa và vùi dưới đống lá cỏ ở dưới đất. Con gà trông thấy bèn dùng chân đào đất để giúp con rùa đứng dậy. Để cảm tạ ơn cứu mạng của con gà, con rùa ban phép để cho chân gà hoàn toàn có thể dự báo điềm lành điềm dở .

hoa van thai 18

Người Thái cứ đến mùa vụ là làm cơm để cúng tổ tiên. Truyện kể rằng một mái ấm gia đình tối đến bàn với nhau mai giết gà làm cơm mới. Gà mẹ nghe thấy và nói với đàn con, rằng mong mãi mới đến ngày mùa để nhặt ăn thóc rơi thóc vãi thế mà con người lại sắp thịt mẹ. Nói xong gà mẹ gà con ôm nhau khóc. Con người thấy vậy động lòng quyết định hành động không thịt gà nữa. Nghĩ đến con những hoàn toàn có thể sửa chữa thay thế con gà, nên cứ vụ mùa người Thái đồ xôi và đồ cá để cúng tổ tiên .

hoa van thai 19

Mỗi khi mùa xuân về, những đôi trai gái rủ nhau đi chơi xuân ngắm cảnh. Nhìn thấy những đàn bướm bay lượn rất đẹp, tối về những cô gái ngồi vào khung cửi và dệt tấm khăn có hình đôi bướm đang bay lượn để hôm sau quàng vào cổ cho tình nhân. Từ đó hình ảnh con bướm luôn Open trên tấm khăn thổ cẩm của người Thái Mai Châu .

hoa van thai 20

Cứ năm hết tết đến, để đón mùa xuân mới, nhà nào cũng treo một boọc khoáy, 1 cục than củi và ba ngọn lá từ bi để xua đuổi tà ma. Boọc khoáy được làm từ 4 thanh tre buộc lại bằng dây mây. Boọc khoáy treo lên vào mùa xuân và được người Thái Mai Châu giữ lại quanh năm để cầu cho điềm lành đến với mái ấm gia đình mình .

hoa van thai 21

Khi người con gái Thái ở Hòa Bình đi lấy chồng, của hồi môn mang theo gồm có 4 tấm đệm nằm, 4 chăn, 20 cái gối và 4 cái đệm ngồi bông lau, cùng với rất nhiều vải thổ cẩm mà mái ấm gia đình nhà gái chuẩn bị sẵn sàng từ khi cô gái đến tuổi 12. Tất cả của hồi môn này được đặt vào một cái bế bằng mây ( cờ bém ) có nắp và khóa, vòng qua miệng một chiếc đai vải dài để đeo lên đầu khi người con gái đi về nhà chồng. Những của hồi môn này được cô gái cất giữ, khoá lại trong cái hòm này và chỉ mang ra khi có khách hoặc trong những dịp quan trọng của mái ấm gia đình. Hoa văn khóa hòm mô phỏng cái khóa của cái bế đựng của cải cha mẹ cho người con gái Thái về nhà chồng .

hoa van thai 22

Một nhà có hai chị em gái một hôm ra suối bắt cá và tìm thấy một quả sung chín. Họ chia đôi quả sung ăn. Hai chị em bỗng có thai, chị sinh được con trai, em sinh được con gái. Cha mẹ sợ mang tăm tiếng, cho hai đứa trẻ lên hai bè cho trôi sông. Ở cuối nguồn nước, có một bà hiếm con nhặt được mang về nuôi. Bé gái càng lớn càng xinh đẹp, bé trai càng lớn càng khôi ngô, tuấn tú. Ông bà nuôi gọi chàng trai là Tạo Hún Lu, người con gái là Nàng Uà Piểm. Khi Tạo và Nàng lớn, ông bà nuôi kể cho hai người biết họ đã nhặt được hai người như thế nào. Tạo và Nàng liền xin phép đi ngược theo dòng sông để tìm lại cha mẹ. Ông bà ưng thuận. Hai người đi hết ngày này qua ngày khác, trên chặng đường phát sinh tình cảm. Khi tìm được về nhà mẹ, hai người xin mẹ cho lấy nhau. Mẹ Nàng thấy không ngăn cản được tình yêu của hai người, mới đồng ý chấp thuận và sai đôi trẻ vào rừng kiếm nấm và cá cho lễ cưới. Vừa đi đến bìa rừng, trời đất tối sầm, sấm sét rạch đôi khung trời, chia tách hai người ra hai phía, Tạo bị bắn về phía Đông biến thành Mặt Trời ; Nàng bị bắn về phía Tây, biến thành Mặt Trăng. Hàng tháng, Tạo và Nàng phải đợi đến cuối tháng, lúc mặt trời mọc lên còn nhìn thấy mặt trăng lặn muộn ở đằng Tây, hai người từ hai phía chân trời nhìn nhau, chỉ còn biết khóc, nước mắt đầm đìa nhỏ xuống trần gian thành những trận mưa cuối tháng .

hoa van thai 23

Là con rồng có 2 đầu nhưng chung 1 ruột, ý nói về tình yêu của 2 con rồng, chúng không hề tách rời nhau vì chung cùng 1 ruột, tình yêu của họ quấn quýt lấy nhau ( hay còn gọi là rồng niềm hạnh phúc ) khi con gái về nhà chồng sẽ được cha mẹ cho những chiếc váy thêu bằng con rồng, mong cho hai con sống niềm hạnh phúc bên nhau .

hoa van thai 24

Có một mái ấm gia đình sinh được một đứa con trai, sau đó cha mẹ chết đi để lại con cho người chú ruột nuôi. Hai chú cháu rất thương mến và phủ bọc lẫn nhau. Năm ấy mất mùa, hai chú cháu lâm vào cảnh đói nghèo đành phải sang nhà giàu để xin ăn. Nhà giàu không cho cơm, bảo là chó ăn hết rồi. Cháu chợt nhìn thấy trên lông chó còn dính một hạt cơm chín, nhặt lấy cho vào miệng thì lạ thay cảm thấy khỏe và tỉnh táo lại. Người cháu bèn nhả ra cho chú ngậm hạt cơm, người chú cũng thấy khỏe lại. Hai chú cháu thay nhau ngậm hạt cơm. Đến lượt ở đầu cuối người cháu ngậm thì chẳng may trôi xuống bụng. Người chú đói quá mà chết đi. Người cháu thương chú quá, khóc nhiều mà hóa thành con tu hú, cứ mỗi vụ mùa lại khắc khoải gọi chú về ăn đến hết cả hơi .

hoa van thai 25

Có một đôi vợ chồng đi xúc tép, xúc mãi không được gì, chỉ được quả trứng. Họ mang về cho gà ấp, sau nở ra con rồng nhỏ. Ông bà thấy lạ, thả nó vào cái cối giã gạo với nước cho nó sống. Hằng ngày, rồng con cứ đi theo ông bà ra ruộng. Một hôm ông vô tình cuốc phải đuôi nó, thế là gọi nó là chàng cụt ( táo đuôn ), máu chảy từ đuôi thành con cá đì. Khi rồng lớn quá, ông bà đành thả nó ra sông. Rồng quay lại nói khi nào muốn nhìn thấy con thì trời mưa con sẽ hiện bóng lên trời thành dải cầu vồng. Vì vậy, trong tiếng Thái, cầu vồng được gọi là “ ngược húng ” và con rồng được gọi là “ tô ngược ”. Người lớn thường bảo trẻ nhỏ nếu con thấy ngược húng ( tô ngược ) thì chỉ được nhìn thôi, không được chỉ mà bị phạt cụt tay .

hoa van thai 26

Truyện kể rằng khi xưa có một người Thái đi vào rừng khai hoang mở đất. Người đó cứ đi sâu mãi vào rừng đến khi bị lạc, không có gì ăn. Người đó kiệt sức và đói quá, đành ngồi tựa ở gốc cây san. Bỗng có quả san rụng xuống, người đó nhặt lên ăn, nhờ đó mà có sức lựa trở lại. Để ghi nhớ loại quả đã cứu sống tổ tiên của mình từ thuở khai hoang lập địa, người Thái dệt bộc san lên vải vóc của họ .

hoa van thai 27

Cây mướp là một loại cây quen thuộc trong vườn của người Thái. Họ thường cho lá mướp vào nấu cùng canh măng cho thơm. Với trí tưởng tượng nhiều mẫu mã, những thợ dệt từ cổ xưa đã biến cái cây, chiếc lá rất đời thường thành một loại hoa văn quen thuộc trên vải thổ cẩm .

hoa van thai 28

Tương tự như hình dáng của hoa văn con gà, nhưng hoa văn con chim thường có đuôi thẳng, kéo vút lên chứ không xòe ra như hoa văn con gà .

hoa van thai 29

Trong mái ấm gia đình người Thái, phần nhiều nhà nào cũng có con gà con vịt. Quan sát thấy con gà hàng sáng gáy lúc bình minh, người Thái truyền tai nhau về câu truyện cổ về con gà cưỡi trên sống lưng con vịt đi gọi mặt trời về, xóa đi tăm tối và mang lại sự sống cho toàn cầu. Các thợ dệt người Thái hay thêu con gà lên thổ cẩm ; tuy những hoa văn này có nhiều điểm chung về cấu trúc và hình dáng nhưng sự sống sót của nhiều dị bản khác nhau của cùng một hoa văn biểu lộ trí tưởng tượng nhiều mẫu mã và sự khôn khéo của người dệt .

hoa van thai 30

Ngày xưa khi người Thái còn nghèo nàn, đi làm rẫy phải tỉa bí để ăn. Người Thái thêu hoa văn dàn bí để không quên loại thức ăn này .

hoa van thai 31

Hình ảnh vết chân chim trên bờ ruộng là một hình ảnh rất quen thuộc với người Thái vì họ sống dựa hầu hết vào trồng lúa. Các cô gái Thái ngày đi làm ruộng tối về dệt vải, đã biến hình ảnh rất thông thường này thành một loại hoa văn .

hoa van thai 32

Họa tiết người cưỡi voi được truyền cảm hứng từ câu truyện chống giặc ngoại xâm của hai người nữ tướng lịch sử một thời Trưng Trắc, Trưng Nhị. Với người Thái, họa tiết này là hình tượng cho lòng yêu nước và sức mạnh của dân tộc .

hoa van thai 33

Trong văn hóa truyền thống của người Thái, voi là một loại động vật hoang dã biểu trưng cho sức khỏe thể chất và sự can đảm và mạnh mẽ. Các bà mẹ người Thái thêu hình voi con lên những tấm chăn, cổ mamnf với mong ước con mình có sức mạnh như voi .

hoa van thai 34

Con vật này là loài vật to nhất trong những loài động vật hoang dã sống trong rừng, nó có sức mạnh khác thường, sống tập trung chuyên sâu thành bày đàn thể hiện tình đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau. Dân gian thường ý niệm rằng khi ốm đau nếu nín thở chui qua phía dưới bụng con voi ba lần thì sẽ xua đuổi được tà ma và chóng khỏi bệnh tật .

hoa van thai 35

Trong truyện cổ tích của người Thái, con Cóc được coi là cậu ông trời. Mỗi khi con cóc tặc lưỡi là trời sẽ gây mưa. Người Thái sống hầu hết dựa vào việc đồng áng ; họ tôn thờ con cóc để nó cầu mưa cho việc đồng áng được thuận tiện .

hoa van thai 36

Loại cua mà người Thái hay nói đến là cua đồng, sống chui rúc trong đất ruộng. Chỉ là một loài vật nhỏ bé sống trong bùn lầy, con cua không có câu truyện cổ tích nào kể về nó. Tuy nhiên, người thợ dệt Thái một lần nữa bộc lộ tình yêu vạn vật thiên nhiên, trí trưởng tượng đa dạng và phong phú và bàn tay khôn khéo để biến một con vật thông thường nhất thành một loại hoa văn tinh xảo .

hoa van thai 37

Người Thái tin rằng trên trời có một ao cá vía, mỗi con cá trong đó mang theo hồn vía của một người dưới trần. Khi con cá trên trời khỏe mạnh, người dưới trần cũng khỏe mạnh. Khi một con cá ốm yếu và chết đi đồng nghĩa tương quan với việc con người mang hồn vía đó ở dưới trần cũng ốm yếu mà chết đi .

hoa van thai 38

Một mô típ rất quen thuộc trên thổ cẩm của người Thái, nhưng người dân địa phương có nhiều cách lý giải khác nhau cho hoa văn này. Phổ biến nhất là cái tên “ cượp hên ” nghĩa là vỏ hến. Con hến là một loài động vật hoang dã quen thuộc trong đời sống của người Thái, cũng là một loại thức ăn thường nhật với người nông dân. Dù là cách lý giải nào thì hoa văn này cũng bộc lộ sự phát minh sáng tạo của những người thợ dệt xưa khi biến những họa tiết thường nhật, tưởng như không có gì rực rỡ, thành những hoa văn đối xứng đầy tính nghệ thuật và thẩm mỹ .

hoa van thai 39

Ngày xưa khi chưa có điện, người Thái thường dùng đèn dầu để thắp sáng. Vào những ngày mưa gió thì ngọn đèn hay bị gió thổi tắt đi. Sau đó người ta nghĩ ra cách dùng lồng đèn để cản gió cho ngọn lửa bên trong. Người Thái đã biến vật phẩm rất thông thường này thành hoa văn trên vải .

hoa van thai 40

Ngày xưa lồng đền được treo trước nhà quan lại và những người giàu sang. Trong khi đó, dân nghèo chỉ mơ ước có cơm ăn hàng ngày, có mái nhà che nắng che mưa là được. Với người Thái xưa, lồng đèn là hình tượng của giàu sang giàu sang. Họ thêu lồng đèn để mong sau này những con cháu sẽ được giàu sang quyền quý và cao sang, được ở trong những ngôi nhà có lồng đèn treo trước cửa .

hoa van thai 41

Can pía được làm bằng gỗ và sử dụng để cuốn sợi trong bước tiên phong của quy trình sẵn sàng chuẩn bị sợi. Sợi chỉ tháo từ can pía ra mới được chuội mềm bằng nước tro, nhuộm, đưa lên xa quay sợi và đánh vào ống chỉ để dệt hoặc thêu. Người Thái vẫn tuyền tai nhau câu truyện về một đôi trai gái yêu nhau và đã hứa hẹn suốt đời suốt kiếp luôn sống bên nhau. Câu chuyện này có câu ca, rằng ai cượt pén pía xì nòng cượt pến đai, nghĩa là anh hóa thành can pía còn em hóa thành sợi tơ .

hoa van thai 42

Theo thần thoại cổ xưa “ Xuống mường hạ giới ” của người Thái, vào kỷ nguyên thứ sáu, trời sai hai ông bà Tạo Vi xuống trần trồng cây cối, trồng tuy nhiên mây. Hai ông bà chết đi, con cháu lười nhác không chịu khai ruộng, suốt ngày chỉ đan lưới, làm bẫy săn bắt chim, cá, thú rừng về ăn. Chim quý Áng Vanh của Trời xuống trần mắc phải bẫy, Trời nổi giận làm ra chín mặt trời thiêu đốt dương gian. Người trần không chịu nổi, bàn nhau làm ná, làm cung tên bắn rụng tám mặt trời. Còn lại một mặt trời sống sốt trốn xuống biển nấp. Mặt đất trở nên tối tăm. Con người bàn nhau cử Gà và Vịt đi tìm gọi Mặt trời, mặt đất mới sáng trở lại .

hoa van thai 43

Một nhà rất nghèo lại đông con, vì không có gì cho con ăn, người mẹ đành bảo những con vào rừng tự kiếm ăn. Để những con không bị lạc nhau, người mẹ lấy một sợi bông để buộc những con vào. Các con vào rừng kiếm ăn và biến thành khỉ không quay về nhà nữa. Sau này khi có đủ ăn rồi, con cháu người Thái dệt hình đàn khỉ leo đá để nhớ đến thời cơ hàn .

hoa van thai 44

Người Thái có câu truyện về cô gái xinh đẹp tên là Ban yêu một chàng trai nghèo tên là Khum. Bố của Ban, vì hám của nên hứa gả con cho một lão giàu sang trong làng. Ban nghe tin vội chạy trốn đến nhà Khum để tìm nơi nương náu. Chẳng may Khum và cha lại đi chợ xa bán trâu. Ban buộc khăn piêu vào cửa nhà Khum và chạy đi tìm chàng. Cô chạy qua không biết bao nhiêu núi rừng, cho đến khi kiệt sức nằm chết ở chân một ngọn núi. Về sau, ở nơi Ban yên nghỉ mọc lên một loại cây mà bông hoa trắng muốt tinh khiết như làn da của Ban ; hình hoa cũng như bàn tay e ấp của người con gái đẹp này. Họ dệt hoa Ban lên thổ cẩm để tưởng niệm một câu truyện tình yêu đẹp nhưng buồn .

hoa van thai 45

Cồng chiêng là những nhạc cụ không hề thiếu trong liên hoan của người Thái. Cồng chiêng được treo thành dãy dài và tạo ra âm thanh hòa giải cho những dịp lễ của làng .

hoa van thai 46

Ngày xưa, ở Mường Miếng có 2 bạn bè rủ nhau ra khe tắm. Người anh mải tắm không chú ý tới người em, mãi sau quay ra tìm em thì không thấy em đâu, bỗng dưng có tiếng hét to “ cứu em với … cứu em với … ”. Người anh vôi lên bờ chạy theo dấu chân em nhưng không thấy em đâu. Đến một đoạn thì dấu chân của người em cũng biến mất. Về sau, nơi dấu chân của em ngừng mọc lên một cây to. Lạ thay, cả cây chỉ có một bông hoa. Vì thương tiếc em, người anh ngày ngày ra gốc cây trông và cấm không cho bất kể ai hái bông hoa đó. Cái tên hoa cấm từ đó mà ra. Không ai biết hình dáng thật sự của bông hoa này thế nào, chỉ biết đến nó qua họa tiết thổ cẩm .

hoa van thai 47

Những thợ dệt lâu năm gọi đây là hoa trám, mặc dầu không ai biết gốc gác của họa tiết này là từ hoa của giống trám nào. Chỉ biết rằng họa tiết này được mô phỏng từ một loài hoa trám có màu trắng, nhiều cánh, nở vào tầm tháng hai tháng 3. Cũng như nhiều loại họa tiết bắt nguồn từ cây cối, những đời thợ dệt người Thái truyền cho nhau cách dệt loại hoa văn này để trang trí gấu váy .

hoa van thai 48

Đây là một loại cây rừng đã cứu đói người Thái xưa qua những ngày đói nghèo. Truyện dân gian kể rằng người Thái cổ vào rừng kiếm thức ăn, nếu thấy cây cờ đòng hoàn toàn có thể chặt về, làm sạch và ngâm ngoài khe suối hai ngày cho hết nhựa, sau đó đưa về đồ chín lên và vắt thành từng cục phát cho từng người trong mái ấm gia đình để ăn thay cơm .

hoa van thai 49

Hoa mướp đắng rừng, nhỏ và rất đắng, không ăn được. Loài hoa thuần khiết một màu trắng tinh, tượng trưng cho sự trinh trắng của người con gái. Vì vậy, hoa văn này thường được thêu và dệt lên khăn Piêu cho những cô gái trẻ .

hoa van thai 50

Hoa văn này được làm theo hình của cái móc sắt mà người Thái dùng để treo cồng chiêng. Người Thái thường mang dàn cồng chiêng ra đánh khi có tiệc tùng. khi tụ họp uống rượu cần hay ngày tiên phong có sấm chớp sau Tết dương lịch ( phà hoọng ). Loại móc sắt kẽm kim loại được chạm khắc cẩn trọng như thế này ít được dùng nhưng nhờ có những thợ dệt xưa mà hình ảnh của móc cồng chiêng cổ được lưu giữ trên vải .

hoa van thai 51

Một loại quả quen thuộc trong bữa ăn của những mái ấm gia đình người Thái. Mướp đắng đơm hoa kết trái vào mùa hè, quả mướp đắng ăn mát và tốt cho gan. Khác với mướp đắng rừng, người Thái trồng mướp đắng thành giàn trong vườn nhà. Các cô gái Thái đã chuyển thể thành một loại hoa văn rất phổ cập trên thổ cẩm của họ .

hoa van thai 52

Ngày xưa trên đĩa thức ăn của người dân tộc Thái thường có loại hoa này. Các cụ nhìn thấy đẹp và sợ mất đi hoa văn đó nên đã thêu lại nó. Ngày nay loài hoa này có vẻ như đã biến mất, không ai biết bông hoa boọc lé thật trông như thế nào, nhưng nhờ có họa tiết trên vải thổ cẩm mà người Thái vẫn gìn giữ được hình ảnh của loài hoa này .

hoa van thai 53

Ngày xưa những thợ săn người Thái hay dùng cung tên để bắn những con vật hoặc để làm vũ khí. Họ hay lấy lá của cây kiến pứng để gắn vào phía sau cung tên giúp xác định. Cái tên Kiếng pứn ( cây cung tên ) cũng từ đó mà ra. Quả của cây này gần giống với quả dứa. Khi xưa, phụ nữ sau khi có con thường uống nước sắc từ quả này để không sinh nở thêm nữa .

hoa van thai 54

Không chỉ là một loại cây quen thuộc trong bản của người Thái, ngọn dừa vươn lên cao nghều với tán lá xò e rộng mà vẫn vững vàng trong mưa gió. Người Thái khâm phục sự vững vàng của cây dừa nên thêu hoa văn lá dừa .

hoa van thai 55

Kết mây là một loại vỏ cây to ở trong rừng, người dân thường vào rừng hái măng đốn củi nhìn thấy những vỏ cây cổ thụ đẹp và về thêu lên bộ phục trang của mình .

hoa van thai 56

Là loại quả thường chín vào tháng 8. Người dân trước đây đói khổ không có gạo ăn thường hái quả trám này về luộc ăn đỡ bữa. Người dệt thổ cẩm Thái đã thêu hình quả trám này lên trên phục trang của mình để tưởng niệm món ăn đã tương hỗ mình trong những ngày cơ hàn. Hoa văn quả trám có rất nhiều dị bản, nhưng hầu hết đều có những mô típ hình trám đồng tâm và điểm xuyết hoa văn nhỏ hơn ở giữa. Vì vậy, từ một loại quả tự nhiên đơn thuần, người dệt thủ công dân tộc Thái đã biến thành một loại hoa văn độc lạ biểu lộ sự khôn khéo của bàn tay và trí tưởng tượng của trí óc .

hoa van thai 57

Người Thái xây bản ở chân núi để tiện việc đồng áng ở cánh đồng và để nhà cửa cao hơn mặt nước. Đây là môi trường tự nhiên lý tưởng cho hoa sen mọc. Mỗi bản người Thái đều có tối thiểu một ao sen. Vẻ đẹp êm ả dịu dàng và thanh thoát của hoa sen đã được lưu giữ không chỉ qua hoa văn thổ cẩm mà còn qua họa tiết trang trí trên trâm cài tóc bằng bạc của những cô gái Thái .

hoa van thai 58

Có hai loại hoa văn con bướm : hoa văn nhiều màu và hoa văn đen trắng. Hoa văn con bướm màu đen trắng chỉ được dùng trong tang lễ. Vào mùa hè, những cô gái Thái đi làm ruộng hoặc đi rừng về dừng lại tắm ở suối, trông thấy những con bướm nhiều sắc tố bay lượn bên bờ suối. Tối về họ thêu những hình con bướm nhiều màu này vào chăn và màn của mình .

hoa van thai 59

Theo truyền thống cuội nguồn của người Thái, chỉ những loại hoa rừng mới được thêu lên khăn piêu đội đầu. Không được thêu con vật lên khăn piêu vì tổ tiên không cho đặt con vật lên đầu .

hoa van thai 60

Ngày xưa, người Thái thường dùng lá Mi mọc trong rừng để buộc sợi làm hoa văn Ikat. Loại cây này có hoa rất đẹp. Người phụ nữ Thái thấy đẹp nên đã thêu lại hoa văn này lên phục trang và thổ cẩm của mình .

hoa van thai 61

Chúng chiếm hữu bộ lông mềm mại và mượt mà và cái đuôi dài, khi xò e ra trông như chiếc váy lộng lẫy nhiều sắc màu xen kẽ rực rỡ tỏa nắng. Ngày xưa, chim công là một loại chim khi được sinh ra được coi là một loại cao quý và xinh đẹp. Cho nên nó được người Thái ví như là một nàng công chúa nên hay gọi nó là “ Nang Nhung ” .

hoa van thai 62

Mèo hiền lành, nhanh gọn, khôn ngoan, leo trèo giỏi và mắt rất tinh nhanh, đặc biệt quan trọng là trong bóng đêm. Người chủ nuôi cưng chiều, chăm nom vì nó là con vật có ích. Có mèo, gia tài của con người đỡ bị giống gặm nhấm tàn phá. Ngày xưa người Thái ý niệm con mèo là linh vật tượng trưng cho linh hồn của cha ông, tổ tiên của 1 số ít dòng tộc ( như dòng tộc Lo Kăm ). Cho nên người Thái mỗi khi thấy mèo chết thường hay giả khóc và nói câu ( Cụ ơi …, cũng may là cụ chết thì chúng cháu mới được ăn thịt ) để biểu lộ một tín ngưỡng tôn trọng của mình .

hoa van thai 63

Con Hổ được ca tụng là chúa sơn lâm, tượng trưng cho loài vật có sức mạnh và hung tàn nhất, không con vật nào hoàn toàn có thể dọa nạt được nó. Người Thái thêu con hổ lên chăn, hoặc chân váy để mong ước mình và những người thân trong gia đình trogn mái ấm gia đình tránh được những bệnh tật, ốm đau thường thì, và có một sức khỏe thể chất can đảm và mạnh mẽ và dẻo dai như hổ .

hoa van thai 64

Ngày xưa, khi thời tiết biến hóa, mỗi khi có mưa gió, con tắc kè kêu mừng là được uống nước. Cho nên, người Thái thêu con tắc kè để nhớ ơn nó báo thời tiết giúp cho người dân tránh được những cơn mưa và bão .

hoa van thai 65

>> > Hoa văn trang trí của người Hmông
>> > Kỹ thuật tạo hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên
>> > Hoa văn thời Sơ sử ( Phần 1 )