Thách thức doanh nghiệp phải đối mặt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – GIẢI PHÁP ERP

Cùng với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Cùng với những cơ hội mà việc hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, doanh nghiệp Việt cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.

>> > Đọc thêm : Chuyển đổi số trong doanh nghiệp : Thay đổi nhỏ, quyền lợi lớn

Một số thử thách của doanh nghiệp phải đương đầu trong quy trình hội nhập quốc tế

Một số khó khăn, thách thức doanh nghiệp phải đối mặt bao gồm:

  • Doanh nghiệp chưa nắm bắt được đầy đủ thông tin về các FTA (Hiệp định Thương mại tự do), từ đó doanh nghiệp cũng không xác định được các tác động trực tiếp của FTA lên các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Việc không hiểu rõ những thông tin cần thiết khiến doanh nghiệp không có những sự chuẩn bị tốt nhất trong quá trình hội nhập. Theo một số số liệu khảo sát gần đây, có tới 60-70% doanh nghiệp cho rằng, các Hiệp định Thương mại tự do này không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của họ.
  • Nhiều doanh nghiệp vẫn đang phát triển theo chiều rộng, tăng về doanh thu, số lượng sản phẩm, số lượng lao động, nguồn vốn…, tuy nhiên chưa chú trọng cải thiện về chất lượng sản phẩm cũng như chiều sâu trong công tác quản lý. Hơn nữa, thị trường tiêu thụ hàng hóa trong nước đang tràn ngập các mặt hàng nhập khẩu có chất lượng, thương hiệu và giá cả cạnh tranh hơn từ các nước đối tác FTA, gây ra nhiều thách thức đối với hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước. Hàng hóa Việt Nam chưa có nhiều thương hiệu nổi tiếng hấp dẫn khách hàng, và chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường quốc tế.

thach-thuc-doanh-nghiep

Doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn vất vả trong quy trình hội nhập

  • Nguồn lực của doanh nghiệp Việt Nam như nguồn vốn, chất lượng nguồn lao động, trình độ khoa học kĩ thuật, ứng dụng công nghệ… còn nhiều hạn chế. Từ đó khiến việc quản lý, vận hành của nhiều doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả như kì vọng, làm năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nhìn chung còn ở mức thấp.
  • Doanh nghiệp chưa có kế hoạch chiến lược mang tính lâu dài, bền vững. Nhiều doanh nghiệp không chú trọng phân tích năng lực nội tại cũng như nghiên cứu môi trường kinh doanh bên ngoài để thiết lập lộ trình phát triển cụ thể. Từ đó, doanh nghiệp không thể xây dựng những lợi thế cạnh tranh dài hạn trong quá trình hoạt động kinh doanh và đánh mất các cơ hội đi lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.
  • Công tác quản trị, đào tạo, nuôi dưỡng nhân tài của doanh nghiệp Việt còn nhiều hạn chế. Nhân sự là yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp, vậy nên để phát triển được lâu dài, bền vững, việc đầu tư vào nguồn nhân lực là điều tất yếu với mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp không có kế hoạch rõ ràng để phát triển nhân tài, cũng như thu hút, đào tạo nhân tài trong nội bộ và cả bên ngoài tổ chức. Điều này rất rủi ro do khi các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam với phương pháp tiếp cận và quản trị nhân tài chuyên nghiệp, chế độ đãi ngộ tốt sẽ dễ dàng lôi kéo nhân tài của các doanh nghiệp Việt.

>> > Đọc thêm : Phương pháp quản trị nhân sự : Làm sao để nâng cao thưởng thức nhân viên cấp dưới
Phần lớn thử thách mà doanh nghiệp phải đương đầu xuất phát từ chính nội bộ doanh nghiệp, do chưa có phương pháp quản trị tương thích cũng như chiêu thức khai thác và tối ưu hóa những nguồn lực hiện có trong doanh nghiệp. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế yên cầu doanh nghiệp phải đổi khác quy mô sản xuất, quy mô tổ chức triển khai, mô thức quản trị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực … nhằm mục đích cung ứng tốt nhất những nhu yếu tăng trưởng. Điều này cũng yên cầu doanh nghiệp phải đổi khác tổng lực phương pháp quản trị của mình .

Để doanh nghiệp hội nhập thành công

Trước tình hình mới, yêu cầu đối với doanh nghiệp nước ta là phải thành công trong hội nhập, phải nhanh chóng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng sản phẩm, hàng hóa cũng như của toàn doanh nghiệp. Muốn vậy, phải thực hiện một hệ thống các giải pháp về kinh tế, công nghệ, về quản lý, v.v…
Có thể nêu lên năm nhóm vấn đề lớn sau đây:

  • Xây dựng chiến lược thị trường, chiến lược phát triển trong hội nhập

Khi là thành viên WTO, phạm vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi nước ta mà đã mở rộng ra toàn cầu, mỗi doanh nghiệp đã là “doanh nghiệp toàn cầu”. Đây là một chuyển biến rất cơ bản, đòi hỏi xem xét lại và tính toán lại toàn bộ chiến lược kinh doanh đi đôi với xây
dựng văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
Trên thị trường toàn cầu, doanh nghiệp nước ta có thể đưa sản phẩm của mình thâm nhập sâu hơn vào thị trường toàn cầu, đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam. Trên thị trường này, nguyên tắc cạnh tranh được áp dụng phổ biến giữa các doanh
nghiệp, các nền kinh tế; nhưng đó là cùng hợp tác và cạnh tranh, một cuộc cạnh tranh có văn hóa. Mỗi doanh nghiệp cần khẩn trương soát xét lại kế hoạch kinh doanh, thực hiện các biện pháp đầu tư, mở rộng quy mô, v.v… bằng sức của mình hoặc thông qua liên kết, liên doanh để nâng cao năng lực
sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của mình trên phạm vi toàn cầu. Làm được như vậy, sản phẩm hàng hóa của mình có chỗ chen chân, có thị trường lớn, có thị trường ngách, có sản phẩm cao cấp, có sản phẩm bình dân, … có điều kiện phân khúc thị trường để tìm ra chỗ
đứng vững chắc, lâu bền cho sản phẩm và doanh nghiệp của mình.
Nhiều nghiên cứu cho rằng có những ngành sẽ khó khăn hơn, ví dụ tài chính –ngân hàng, viễn thông … nhưng đây cũng là thời cơ để các ngành này xem lại mình. Đây chính là thời cơ thuận lợi để xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, để doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, phát huy mọi
tiềm năng về vật chất và tinh thần của mình, sống tốt, sống khỏe bằng chính sức lực của mình. Điều này đối với doanh nghiệp nhà nước có khó khăn hơn doanh nghiệp dân doanh, nhưng không thể nào khác, doanh nghiệp nhà nước phải nhanh chóng được sắp xếp lại chuyển sang hình thức doanh nghiệp cổ phần là chủ yếu, qua đó mà đổi mới quản lý, thu hút nhân tài, tiền vốn và công nghệ, thực hiện được nhiệm vụ của mình trong điều kiện hội nhập.

  • Ứng dụng khoa học, công nghệ hiên đại trong sản xuất kinh doanh

Đối với doanh nghiệp, mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất là thước đo chủ yếu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Gia nhập WTO, đây chính là một đòi hỏi cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Phải đẩy mạnh hoạt động R&D trong doanh nghiệp. Việc nghiên cứu,ứng dụng khoa học, công nghệ cần tập trung vào những sản phẩm chủ lực của mỗi doanh nghiệp, phân tích những mặt yếu của sản phẩm trong thế so sánh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường, từ đó, đề ra các giải pháp nhằm cải thiện mẫu mã, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm và doanh nghiệp.
Phục vụ việc bảo vệ và cải thiện môi trường cũng là một nhiệm vụ rất bức xúc của khoa học, công nghệ. Trong mỗi doanh nghiệp, cần đề cao trách nhiệm và thực hiện các biện pháp khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm; ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghiệp ít gây ô nhiễm môi trường. Doanh nghiệp trong các khu công nghiệp cần có hệ thống xử lý nước thải tập trung; việc di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư cần được thực hiện khẩn trương hơn. Để gắn khoa học, công nghệ với sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, rất cần mở rộng hơn nữa các quan hệ liên kết giữa nhà khoa học, các trường, viện, cơ quan nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp, thông qua hình thức hợp đồng mà gắn kết quả ứng dụng với lợi ích của các bên tham gia, bảo đảm cho mối quan hệ liên kết, hợp tác thêm chặt chẽ, đem lại hiệu quả thiết thực.

  • Áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật về năng suất, chất lượng

Trên thị trường toàn thế giới lúc bấy giờ, sự thỏa mãn nhu cầu của người mua không còn số lượng giới hạn trong những nội dung như chất lượng của mẫu sản phẩm sản phẩm & hàng hóa, Chi tiêu, thời hạn giao hàng như trước, mà còn gồm có những nhu yếu cao hơn về nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, về sức khỏe thể chất của người lao động trong doanh nghiệp, vệ sinh bảo đảm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng, đặc biệt quan trọng là về bảo vệ môi trường tự nhiên là yếu tố bức xúc đang được báo động toàn thế giới, v.v … Mỗi loại sản phẩm sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ đều phải được bảo vệ bằng những tiêu chuẩn được quốc tế công nhận và vận dụng so với những nghành nói trên. Để bảo vệ những nhu yếu khắc nghiệt ấy, mỗi doanh nghiệp đều phải kiến thiết xây dựng nhiều mạng lưới hệ thống quản trị chất lượng, như ISO 9000 về quản trị chất lượng, ISO 14000 về quản trị môi trường tự nhiên, OHSAS 18000 về bảo đảm an toàn và sức khỏe thể chất nghề nghiệp, HACCP / ISO 22000 về quản trị bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, … Nếu những giải pháp bảo vệ chất lượng, bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm, … được xây dựngvào trong những tiến trình tác nghiệp của doanh nghiệp và được văn bản hóa nhằm mục đích bảo vệ sự tuân thủ thì mọi góc nhìn chất lượng tổng lực nhằm mục đích tạo ra sự thỏa mãn nhu cầu tổng lực của người mua và hội đồng sẽ được phân phối .

  • Phát triển nguồn nhân lực

Trong doanh nghiệp, nhân lực được coi là nguồn vốn đặc biệt, là tài sản quý giá nhất, là sức lao động quan trọng nhất. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo ra giá trị gia tăng cao của doanh nghiệp. Phát triển nhân lực, chăm lo cho con người trong doanh nghiệp về tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới sự tự do về kinh tế và chính trị là giải pháp cơ bản, lâu dài để doanh nghiệp phát triển, nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập. Đó cũng là văn hóa trong kinh doanh.
Trong hội nhập, doanh nghiệp thu hút được người tài, giữ được nhân tài, đó là điều kiện quyết định để doanh nghiệp thành công trong phát triển. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện để mọi người, nhất là lớp thanh niên, được phát huy tài
năng, trí tuệ, thỏa sức sáng tạo, đề ra những giải pháp cụ thể góp phần phát triển doanh nghiệp. Cần bảo đảm cho mỗi thành viên trong doanh nghiệp quyền phát huy tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, trong việc tham gia thảo luận những giải pháp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của doanh nghiệp, của mỗi sản phẩm, hàng hóa, cũng như trong việc xử lý những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của họ. Nói đến vấn đề con người trong doanh nghiệp, không thể không quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong doanh nghiệp. Đó là các mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, quan hệ giữa doanh nghiệp với bạn hàng, với đối tác, với cơ quan nhà nước, v.v… Mỗi doanh nghiệp phải xử lý thiết thực những vấn đề được đặt ra trong đời sống của mỗi thành viên trong
doanh nghiệp, từ việc làm, thu nhập, đến sinh hoạt của cộng đồng, chỗ làm việc, nhà ở, đến giáo dục con cái, chăm lo hạnh phúc gia đình và ngăn chặn các tệ nạn xã hội, v.v…

  • Mở rộng liên kết, liên doanh

Trong hội nhập, việc liên kết kinh doanh, link giữa những doanh nghiệp là rất là quan trọng, nhất là khi đại bộ phận doanh nghiệp nước ta còn ở quy mô nhỏ và vừa, đang có nhiều khó khăn vất vả, như thiếu vốn liếng, yếu về công nghệ tiên tiến, ít hiểu biết về thị trường, v.v … thì link, liên kết kinh doanh là con đường rất hiệu suất cao để khắc phục những khó khăn vất vả đó. Gia nhập WTO, con đường link, hợp tác kinh doanh thương mại lan rộng ra ra khoanh vùng phạm vi toàn thế giới. Từ nay, không riêng gì link, liên kết kinh doanh giữa những doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau, giữa những doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn, mà rất cần liên kết kinh doanh link giữa những doanh nghiệp trong nước với những doanh nghiệp quốc tế, kể cả doanh nghiệp liên kết kinh doanh và doanh nghiệp 100 % vốn quốc tế, không riêng gì ở tầm vương quốc mà còn ở tầm khu vực và rộng ra với toàn quốc tế, nhất là với những công ty xuyên vương quốc ( TNC ) để tranh thủ kỹ thuật và thị trường. Phạm vi, nội dung, cũng như hình thức link kinh tế sẽ đa dạng và phong phú thêm nhiều, yên cầu doanh nghiệp nước ta những hiểu biết mới về lao lý quốc tế, để khai thác được thời cơ, tranh rủi ro đáng tiếc .

>>>Đọc thêm: Review tất tần tật về phần mềm ERP được sử dụng nhiều hiện nay: 3S ERP