Đến năm 2050, Việt Nam trở thành nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới

Đến năm 2050, Việt Nam trở thành nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới - Ảnh 1.Đến năm 2050, Nước Ta trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp số 1 quốc tế với ngành công nghiệp chế biến nông sản văn minh, hiệu suất cao, thân thiện với môi trường tự nhiên .Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 150 / QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tăng trưởng nông nghiệp và nông thôn vững chắc quá trình 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 .Mục tiêu chung kiến thiết xây dựng nền nông nghiệp sản xuất sản phẩm & hàng hóa đồng thời tăng trưởng nông nghiệp dựa trên lợi thế địa phương, theo hướng tân tiến có hiệu suất, chất lượng, hiệu suất cao, vững chắc và sức cạnh tranh đối đầu cao thuộc nhóm đứng vị trí số 1 trong khu vực và trên quốc tế, bảo vệ vững chãi bảo mật an ninh lương thực vương quốc, góp thêm phần quan trọng trong việc không thay đổi kinh tế tài chính – xã hội, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường tự nhiên, ứng phó với biến hóa khí hậu, triển khai có hiệu suất cao những cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính ; nâng cao thu nhập, chất lượng đời sống, vai trò và vị thế của người tham gia sản xuất nông nghiệp ; tạo việc làm phi nông nghiệp để tăng trưởng sinh kế phong phú, giảm nghèo vững chắc cho người dân nông thôn, bảo vệ thời cơ tăng trưởng công minh giữa những vùng, miền ; tăng trưởng nông thôn tổng lực, văn minh gắn với quy trình đô thị hóa, có hạ tầng, dịch vụ xã hội đồng bộ và tiệm cận với khu vực đô thị ; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc bản địa ; thiết kế xây dựng nông thôn xanh, sạch, đẹp, bảo mật an ninh, trật tự được bảo vệ ; tăng trưởng nông nghiệp, kinh tế tài chính nông thôn gắn với kiến thiết xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái xanh có hiệu suất cao cao, nông thôn tân tiến và nông dân văn minh .

Mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 2,5 – 3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5,5 – 6%/năm; mở rộng và phát triển thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5 – 6%/năm.

Nâng cao thu nhập người dân, giảm nghèo vững chắc. Thu nhập của dân cư nông thôn cao hơn 2,5 – 3 lần so với năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm trung bình 1 – 1,5 % / năm .Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 20 %, tỷ suất lao động nông nghiệp được huấn luyện và đào tạo đạt trên 70 % .

Phát triển nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường

Cả nước có tối thiểu 90 % số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 50 % số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao ; tăng trưởng nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường tự nhiên, thích ứng với biến hóa khí hậu, giảm ô nhiễm thiên nhiên và môi trường nông thôn, phấn đấu giảm phát thải khí nhà kính 10 % so với năm 2020 .

Chiến lược đặt ra định hướng, nhiệm vụ đối với từng lĩnh vực sản xuất.

Cụ thể, đối với trồng trọt: Đổi mới cơ cấu cây trồng và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông nghiệp một cách linh hoạt hơn nhằm phát huy lợi thế là ngành sản xuất chiến lược đảm bảo nhu cầu trong nước và phục vụ xuất khẩu. Ưu tiên phát triển các cây trồng có lợi thế so sánh và nhu cầu lớn (cây công nghiệp, cây ăn quả nhiệt đới, lúa gạo chất lượng cao…). Có bước đi phù hợp để thúc đẩy phát triển các cây trồng mới có triển vọng như cây dược liệu, cây cảnh, nấm ăn… Đối với sản xuất lúa gạo: Tiếp tục phát huy lợi thế ngành lúa gạo Việt Nam nhưng với những đổi mới về tư duy, chính sách quản lý, sử dụng đất trồng lúa và sản xuất lúa gạo – từ tập trung phát triển về sản lượng sang coi trọng chất lượng, vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, vừa khai thác, sử dụng tài nguyên đất, nước một cách hiệu quả cao nhất.

Đối với chăn nuôi: Đảm bảo các nhu cầu thiết yếu về thực phẩm cho thị trường trong nước; phát triển các ngành hàng có tiềm năng và thị trường như thịt gia cầm, trứng, sữa; duy trì chăn nuôi lợn và gia súc lớn. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, vật nuôi bản địa, đặc sản có giá trị cao, đảm bảo an toàn thực phẩm, bền vững môi trường, an toàn sinh học, vả dịch bệnh. Phát triển chăn nuôi công nghiệp áp dụng công nghệ cao tại các trang trại và doanh nghiệp lớn, đồng thời khuyến khích chăn nuôi hộ truyền thống có cải tiến theo hướng chuyên nghiệp hóa, chăn nuôi hữu cơ. Xây dựng các vùng chăn nuôi tập trung xa nơi dân cư tập trung, thuận lợi cho xử lý môi trường và phòng tránh dịch bệnh.

Phát triển ngành thủy sản thành ngành sản xuất chiến lược

Phát triển ngành thủy sản thành ngành sản xuất chiến lược, đảm bảo nhu cầu trong nước và phục vụ xuất khẩu; trong đó, phát triển ngành nuôi thủy sản theo hướng nuôi tập trung công nghiệp, công nghệ hiện đại với các cơ sở sản xuất quy mô lớn và đối với hộ quy mô nhỏ thì áp dụng công nghệ cải tiến, nuôi hữu cơ, phối hợp nuôi lồng bè, ao hồ tập trung và luân canh/xen canh… ưu tiên phát triển vùng nuôi chuyên canh chính cho các sản phẩm chiến lược như tôm, cá tra; hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ thủy sản tại các vùng nuôi chuyên canh…

Xây dựng ngành lâm nghiệp thực sự trở thành một ngành kinh tế-kỹ thuật hiện đại, có hiệu quả cao, nâng cao thu nhập của người dân, góp phần đắc lực vào phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh nguồn nước, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, giữ vững quốc phòng và an ninh.

Cùng với tăng trưởng nông nghiệp, chú trọng tăng trưởng kinh tế tài chính nông thôn, quy đổi cơ cấu tổ chức lao động theo hướng phi nông nghiệp để xử lý việc làm, bảo vệ thu nhập …

Vũ Phương Nhi