Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam là một thiết chế văn hoá được xây dựng từ năm 1960, nằm giữa trung tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô Hà Nội hơn 80 km về phía Bắc. Là một trong 7 bảo tàng quốc gia của Việt Nam.[1][liên kết hỏng]

Thời kỳ đầu, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam với tên gọi là Bảo tàng Việt Bắc với tính năng trách nhiệm bắt đầu là điều tra và nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống cuội nguồn lịch sử dân tộc văn hoá, lịch sử vẻ vang đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc khu Việt Bắc. Năm 1976, Khu tự trị Việt Bắc giải thể, Bảo tàng Việt Bắc chuyển giao về thường trực Bộ Văn hoá tin tức quản trị. Đây là tiến trình chuyển hướng nội dung hoạt động giải trí từ Bảo tàng tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành về Văn hoá dân tộc. Ngày 31 / 3 / 1990 Bộ trưởng Bộ Văn hoá đã phê duyệt đổi tên Bảo tàng Việt Bắc thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam .

Một Bảo tàng trung ương đóng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam không chỉ là một công trình kiến trúc to, đẹp mà còn là một trung tâm văn hoá lớn với chức năng nhiệm vụ: Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền và phát huy vốn di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc Việt Nam trên phạm vi cả nước.

Trong những năm thay đổi, được sự chăm sóc của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đã góp vốn đầu tư, tái tạo, thiết kế xây dựng mới các phòng tọa lạc khoa học, tân tiến. Công tác sưu tầm hiện vật được chú trọng khai thác, dữ gìn và bảo vệ, tọa lạc có mạng lưới hệ thống đã được cấp trên, đồng nghiệp, đặc biệt quan trọng là khách du lịch thăm quan nhìn nhận cao. Số lượng khách du lịch thăm quan trong nước và quốc tế đến với Bảo tàng ngày một đông hơn .

Các phòng tọa lạc trong nhà tọa lạc bảo tàng[sửa|sửa mã nguồn]

Hiện nay mạng lưới hệ thống tọa lạc của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam đã hoàn hảo với mạng lưới hệ thống 5 phòng tọa lạc được kiến thiết xây dựng trên cơ sở nhóm ngôn từ phối hợp với văn hoá vùng, trình làng truyền thống văn hoá 54 tộc người gắn với cảnh sắc môi sinh từng vùng cư trú. Bao gồm một gian trang trọng và mạng lưới hệ thống 5 phòng tọa lạc .

  • Phòng số 1: Trưng bày các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (Việt, Mường, Thổ, Chứt)
  • Phòng số 2: Trưng bày các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y)
  • Phòng số 3: Trưng bày văn hóa các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ H’mông – Dao (H’mông, Dao, Pà Thẻn), nhóm ngôn ngữ Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và nhóm ngôn ngữ Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La).
  • Phòng số 4: Trưng bày văn hóa 21 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn Khơ mer (Ba Na, Brâu, Bru – Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H’rê, Kháng, Khơ mer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng).
  • Phòng số 5: Trưng bày văn hóa các tộc người nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và nhóm ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu).

Công tác nghiên cứu và điều tra khoa học[sửa|sửa mã nguồn]

Với trên 4.500 tài liệu hiện vật gốc, phim ảnh, 335 tài liệu khoa học hỗ trợ và 1.400 tài liệu chữ viết, mạng lưới hệ thống tọa lạc của Bảo tàng đã tái hiện được cảnh sắc cư trú và đời sống văn hoá tộc người, mê hoặc công chúng thăm quan. Ngoài phần tọa lạc cố định và thắt chặt, hàng năm công tác làm việc triển lãm lưu động được Bảo tàng thướng xuyên triển khai trong suốt mấy chục năm qua. Công tác triển lãm lưu động đã tiến hành tới khắp các vùng miền, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trên địa phận cả nước. Đáp ứng nhu yếu tận hưởng văn hoá của nhân dân .Ngoài ra các cán bộ Bảo tàng còn trực tiếp tham gia nhiều cuộc trao đổi học tập kinh nghiệm tay nghề trong nước và ngoài nước. Tham dự nhiều cuộc hội nghị, hội thảo chiến lược chuyên ngành về nghành nghề dịch vụ khoa học xã hội và nhân văn .

Đội ngũ cán bộ khoa học[sửa|sửa mã nguồn]

Bảo tàng lúc bấy giờ có 80 viên chức và hợp đồng lao động, trong đó 2/3 là cán bộ làm công tác làm việc trình độ thực thi 6 khâu công tác làm việc của bảo tàng như : Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, dữ gìn và bảo vệ, tọa lạc, tuyên truyền .

Cùng với các hoạt động chuyên môn, cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị thường xuyên nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, cấp viện về lĩnh vực văn hoá dân tộc, điển hình như:

Tiến sĩ: Nguyễn Thị Ngân (Giám đốc),

Thạc sĩ :

  • Tô Thị Thu Trang (Phó Giám đốc),
  • Nguyễn Cảnh Phương (Phó Giám đốc),
  • Trần Văn Ái (Trưởng phòng Bảo tàng ngoài trời),
  • Vi Văn Biên (Trưởng phòng Kiểm Kê – Bảo quản),
  • Nghiêm Thị Minh Hằng (Phó trưởng phòng Nghiên cứu – Trưng bày),
  • Lê Mai Oanh (Phòng Trưng bày – Tuyên truyền)… cùng một số cán bộ trẻ ham mê nghiên cứu khoa học

Khu tọa lạc ngoài trời[sửa|sửa mã nguồn]

Hiện nay dự án Bất Động Sản tọa lạc ngoài trời Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam với diện tích quy hoạnh 40.040 mét vuông đã hoàn thành xong. Dự án được triển khai theo 6 vùng văn hoá : Văn hoá vùng núi cao phía Bắc, văn hoá vùng Thung lũng, văn hoá vung Trung du – Bắc Bộ, văn hoá vùng miền Trung – Ven biển, văn hoá vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, văn hoá vùng Đồng Bằng Nam Bộ, mỗi vùng văn hoá đều có khoảng trống tổ chức triển khai tiệc tùng, có cấu trúc cảnh sắc vùng và có một ngôi nhà đơn cử, mang tính nguyên gốc. Kết hợp hài hoà với khoảng trống văn hoá theo 3 miền Bắc – Trung – Nam, tạo ra cảnh sắc môi trường tự nhiên văn hoá mang tính đặc trưng văn hoá tộc người. Ngoài ra còn có các khu dịch vụ như nhà hàng quán ăn nhà hàng Việt, cafe và kem Italia, bia hơi … đang lôi cuốn nhiều hành khách trong và ngoài tỉnh đến với bảo tàng .Hiện nay công tác làm việc phối hợp giữa Bảo tàng và Đài PT-TH Thái Nguyên đang được thực thi trong việc sản xuất 12 tập phim về ” Bảo tàng văn hóa truyền thống các dân tộc Việt Nam “, với thời lượng 25 phút mỗi tập đã bộc lộ đậm nét các nền văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhóm tác giả triển khai : Khắc Thái – Song Ngân – Quang Dương – Quý Anh .

Thư viện ảnh[sửa|sửa mã nguồn]