✅ Ý NGHĨA CỦA CHỮ TÂM ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️

5/5 – ( 1 bầu chọn )

Ý nghĩa chữ “TÂM” trong “Thư pháp” và “Phật giáo”

Văn hoá Á Đông nói chung và Nước Ta nói riêng thì chữ “ Tâm ” đã trở nên rất đỗi thân thương và bình dị, càng bình dị hơn khi nó tiềm ẩn trong mình những ý nghĩa rất là to lớn. Với một chữ “ Tâm ” thôi cũng đã hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực, được đàm đạo trong nhiều thời kì và đến thời nay nó vẫn là đề tài được bàn luận sôi sục. Bao đời nay thì Chữ TÂM luôn được coi trọng và tôn vinh bởi “ chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài ” .

Ý nghĩa chung của chữ “Tâm”

Chữ “ tâm “ theo nhiều phe phái triết học và tôn giáo sẽ có những ý nghĩa riêng nhưng quy tụ chung về những đặc thù sau :
Khi nhắc đến “ tâm ” là nhắc đến trái tim, lòng dạ, lương tâm con người. Mọi hành vi của con người đều xuất phát từ cái tâm, tâm thiện thì tâm lý và hành vi đúng đạo lí, lẽ phải ; tâm không lành thì sẽ sinh tà ý và làm nhiều điều xấu xa, tội lỗi .
Chữ “ tâm ” thường được dùng để hướng tâm lý của con người đến cái thiện, tu thân, dưỡng tính, sống tích cực và làm nhiều điều tốt đẹp. Tâm xô lệch thì đời sống điên đảo đảo điên. Tâm gian dối thì đời sống không an tâm. Tâm ghanh tỵ thì đời sống hận thù. Tâm đố kỵ thì đời sống mất vui. Tâm tham lam thì đời sống gián trá .
Vậy nên hãy để tâm của mình đặt lên ngực để yêu thương, đặt lên tay để trợ giúp người khác, lên mắt để thấy được nỗi khổ của tha nhân, lên chân để suôn sẻ chạy đến với người cùng khổ, lên miệng để nói lời an ủi với người xấu số, lên tai để nghe lời góp ý của người khác, lên vai để chịu nghĩa vụ và trách nhiệm …

Ý nghĩa chữ tâm trong phật giáo

Khái niệm “ tâm ” của Phật Giáo không đơn thuần như những học giả phương Tây lầm tưởng. Tâm được xem là một trong những phạm trù quan trọng, cơ bản của Phật Giáo. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như Kinh Thánh của Phật Giáo mở màn như sau : “ Tâm đứng vị trí số 1 những pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tổng thể ”. Một cách khái quát, qua những tầm cỡ Phật Giáo người ta hoàn toàn có thể phân biệt sáu loại tâm :
Ý nghĩa chữ tâm trong phật giáo

Nhục đoàn tâm (肉團心)

trái tim thịt ( Phật Giáo không chú ý nhiều tới nghĩa này ). Ví dụ : “ Hễ Bồ Tát nghe tiếng bọn người ác ngoại đạo đem lời dèm pha phá huỷ Phật giái, có vẻ như ba trăm mũi giáo đâm vào tâm mình ” ( Bồ Tát Giái Kinh ) .

Tinh yếu tâm (精要心)

Chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ. Ví dụ : “ Phật pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân và khẩu làm ngọn ” ( Long Thọ Bồ Tát ) .

Kiên thực tâm (堅實心)

Là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là chân tâm. Chỉ cái tuyệt đối, cái mầm mống giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi tất cả chúng ta, đó là Phật tính : “ Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chân tâm ” ( Kinh Thủ Lăng Nghiêm ) .

Liễu biệt tâm (了別心) [3]

Gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám thức, tức là tri thức giác quan và ý thức. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ. Có công dụng dựa vào với ngoại cảnh bên ngoài và phân biệt nhận thức chúng : “ Tâm buồn cảnh được vui sao, tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an ” .

Tư lượng tâm (思量心) còn gọi là Mạt-na thức (末那識)

Thức thứ bảy trong tám thức. Một trong những công dụng chính của nó là nhận lập trường chủ quan của thức thứ tám ( A-lại-da thức ), lầm cho lập trường này là bản ngã của chính mình, thế cho nên mà tạo ra chấp ngã, là bản ngã, cái tôi của con người ( ego-consciousness ). Bản chất của nó là suy tính, nhưng có sự khác với thức thứ sáu. Nó được xem là tâm trạng của một nghành mà người ta không hề điều khiển và tinh chỉnh một cách có chủ ý, thường phát sinh những xích míc của những quyết định hành động tâm thức và không ngừng chấp dính vào bản ngã : “ Mạt-na nhậm trì ý thức linh phân biệt chuyển, thị cố thuyết vi ý thức sở y : Mạt-na nhận lấy ý thức, khiến sinh khởi phân biệt ; nên gọi nó là chỗ y cứ của ý thức ” ( Du-già sư địa luận )

Tập khởi tâm (集起心) còn gọi là A-lại-da thức (阿賴耶識) dịch nghĩa là tạng thức (藏識)

Chứa đựng mọi kinh nghiệm tay nghề của đời sống mỗi con người và nguồn gốc toàn bộ những hiện tượng kỳ lạ niềm tin. Là căn nguyên của mọi hoạt động giải trí nhận thức, hoạt động giải trí tâm ý ; là nơi tàng trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật, hữu hình hay vô hình dung. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức hay tiềm thức : “ Nhất thiết trần gian trung. Mặc bất tùng tâm tạo : Tất cả những gì trong trần gian. Đều là do tâm tạo ” ( Kinh Hoa Nghiêm )
Phật Giáo không ý niệm tâm là một cái gì thuần nhất, giản đơn theo kiểu như khái niệm linh hồn. Theo Ngũ uẩn, tâm không phải chỉ là một cục hay một khối cứng ngắc, mà là một luồng tư tưởng, một chuỗi dài tư tưởng, có sinh có diệt ( khác ý niệm “ hồn thiêng bất tử ” ), có năng lượng ( nghiệp lực ) được chuyển từ luồng này sang luồng khác. Cái luồng tâm này với những nghiệp lực là cơ bản cho sự tái sinh .
Theo Vi Diệu pháp, tâm không phải là một thành viên, mà là một dòng tâm thức gồm nhiều loại tâm khởi lên rồi diệt. Khi con người còn sống thì dòng tâm thức lặng lẽ trôi chảy trong ngũ uẩn, nếu không có một tâm nào khác khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức sau cuối của kiếp này trở thành dòng tâm thức tiên phong của kiếp sau. Duy Thức học khai triển thêm tâm thức là cái biết, cơ bản là tạng thức, tiềm ẩn những loại chủng tử …
Tóm lại, dù nhìn dưới góc nhìn nào, hoàn toàn có thể nói theo Thiền Tông : Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm thức, khởi lên rồi diệt, vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng ; tâm này được gọi là Vọng tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tính là thanh tịnh, không sinh diệt, không giao động, thường lạng lẽ, là tính giác của những vị đã giác ngộ, cũng còn được gọi là Tâm Phật .

Hai câu kinh đầu Phật dạy là: Tâm dẫn đầu các pháp 

Tâm làm chủ, tâm tạo tác.
Nếu nói hay làm với tâm thiện.
Thì hạnh phúc sẽ theo ta như bóng với hình.

Chữ tâm trong thư pháp

Ý nghĩa chữ “ Tâm ” ở thư pháp chữ tâm đã được nói ra ở 2 phần trên và ngoài những còn bộc lộ được giá trị và tầm quan trọng của của chữ tâm hơn bằng những nét cọ can đảm và mạnh mẽ, uyển chuyển, đầy sức tạo hình, gợi ý đóng vào những khung tranh tươm tất, chỉnh chu và luôn đặt ở những vị trí quan trọng nhất trong nhà và thường làm quà tặng để Tặng cho bạn hữu nhằm mục đích khuyên răn nhau giữ đúng cái Tâm là giữ đúng thực chất của một con người đúng nghĩa .
Thư pháp chữ tâm hoàn toàn có thể viết bằng tiếng Hán hoặc chữ quốc ngữ trên nhiều vật liệu khác nhau, cách điệu và tạo hình phát minh sáng tạo tùy ý muốn của gia chủ hoặc ý tưởng sáng tạo của ông đồ. Ngoài ra, đi kèm với thư pháp chữ tâm còn hoàn toàn có thể có những thư phổ phụ đề như :
Thư pháp chữ tâm hoàn toàn có thể viết bằng tiếng Hán hoặc chữ quốc ngữ trên nhiều vật liệu khác nhau, cách điệu và tạo hình phát minh sáng tạo tùy ý muốn của gia chủ hoặc ý tưởng sáng tạo của ông đồ. Ngoài ra, đi kèm với thư pháp chữ tâm còn hoàn toàn có thể có những thư phổ phụ đề như :

Tâm nhàn muôn sự thông ba cõi
Một tiếng cười khan ấm đất trời

Tâm an vạn sự an
Tâm bình thế giới bình

Chữ Tâm tiếng Hán

Tâm trong chữ Hán có 2 cách viết và 2 nghĩa
1. Tâm mang ý nghĩa là tim ( trái tim ), tình cảm của con người, lòng dạ, điểm chính giữa như tâm tạng, tâm thất, tâm phúc, tâm phục, tâm ý, đồng tâm, trọng tâm, TT, viên tâm …
– Tên một ngôi sao 5 cánh là sao Tâm trong nhị thập bát cú tức là sao hỏa .
– Tên một bộ chữ Hán là bộ Tâm .
2. Tâm mang ý nghĩa tâm ý và đạo đức : tâm tính, tâm tưởng, tâm ý, lương tâm
– Tượng trưng cho tình cảm, tình yêu .
– Suy nghĩ và cảm xúc, nhận thức sự vật : tâm lý ,
– Các hiện tượng kỳ lạ tâm ý : tâm trạng, tinh thần, tâm ý .
– Phần linh thiên của con người trái chiều với thân xác như tâm linh, tâm hồn …

Chữ Tâm trong kinh doanh

Chữ Tâm trong nghành kinh doanh thương mại là đạo đức trong kinh doanh thương mại. Người chủ kinh doanh thương mại có tâm không dùng thủ đoạn thấp kém, tôn trọng pháp lý, bảo vệ người tiêu dùng. Bản chất làm ăn kinh doanh thương mại là làm ra nhiều tiền, làm giàu dẫn tới 2 trường hợp làm giàu hợp pháp và phạm pháp. Người kinh doanh chân chính đặt cái tâm vào sẽ không vì doanh thu mặc kệ làm tổn hại sức khỏe thể chất người khác. Khi đặt tâm vào kinh doanh thương mại, bất kể ngành nghề nào trong xã hội, tôn vinh lương tâm, Giao hàng người mua, loại sản phẩm chất lượng tốt giúp cho việc sản xuất kinh doanh thương mại sẽ tăng trưởng thuận tiện, họ càng nỗ lực thao tác tốt tạo thành vòng tuần hoàn làm đời sống tốt đẹp .
– Đạo đức trong kinh doanh thương mại rất quan trọng mang lại sự tăng trưởng bền vững và kiên cố của doanh nghiệp, không có rủi ro đáng tiếc cho chính bản thân doanh nghiệp và người mua .
– Sự chân thực chính là đạo đức trong kinh doanh thương mại, không gian lận, không chiêu trò giữ gìn hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp. Công việc kinh doanh thương mại gắn liền với đời sống hàng ngày vì thế người kinh doanh thương mại gieo nhân tốt, tự tạo phước lành cho mình thiết kế xây dựng tên thương hiệu bằng những giá trị mẫu sản phẩm tốt, đem lại chỗ đứng vững chãi trên thị trường. Chính chất lượng loại sản phẩm giữ người mua trung thành với chủ, bền vững còn mẫu sản phẩm kém chất lượng sẽ dẫn doanh nghiệp phá sản .

Chữ tâm trong Nho giáo

Con người đều có tâm, tâm tốt hay tâm xấu mà thôi. Người vô tâm là người có tâm xấu, ích kỷ, chỉ nghĩ cho bản thân, người thất nhân tâm là người có tâm xấu làm hại tới người xung quanh. Tâm có tốt đẹp mới tạo ra việc làm tốt có ý nghĩa và nói ra lời hay ý đẹp .
Trong thư pháp, chữ Tâm hoàn toàn có thể viết bằng chữ Hán hoặc chữ Quốc Ngữ, cách điệu và phát minh sáng tạo đem lại loại sản phẩm trang trí cho khoảng trống cũng như răng dạy bản thân giữ cho tâm trong sáng, lương thiện cho đời sống tốt đẹp hơn hướng tới chân thiện mỹ .
Chữ tâm xuất hiện trong văn học Nước Ta như ca dao, tục ngữ, truyện Nôm như Kim Vân Kiều, Nhị Độ Mai … Trong tiếp xúc, người ta chúc nhau ” thân tâm an nhàn ” tâm không bị lạc, không bị chi phối thì thân hoàn toàn có thể an. Theo tiếng Việt, tâm có nghĩa là lòng người. Chữ tâm ghép với nhiều từ khác nhau như : tâm an, tâm ý, tinh thần, tâm trạng, tâm thức, tâm tình, thiện tâm, vọng tâm, nội tâm, thành tâm, ác tâm, tà tâm …. Cuộc sống tân tiến, con người càng vô tâm, vô cảm. Vì vậy, con người phải biết nuôi dưỡng tâm mình để có ý thức và sức khỏe thể chất tốt hơn, tạo lối sống tươi đẹp .
Trong Nho giáo

Chữ Tâm trong Công giáo

Trong giáo lý

Tuỳ theo văn mạch và mối đối sánh tương quan, “ tâm ” trong Công Giáo được diễn đạt bằng nhiều danh từ khác nhau : Tim ( heart ), cõi lòng con người ( the depths of one’s being ), tâm hồn ( mind ), linh hồn ( soul ), lương tâm ( consciene ) .

Dùng từ “tim”  (con tim, trái tim, quả tim) khi muốn nói “tâm” là:

– Trung tâm hiện hữu của con người .
– Nơi thầm kín của cá thể, lý trí hay người ngoài không dò thấu được, chỉ có Chúa Thánh Thần mới hoàn toàn có thể thăm dò và thấu suốt được .
– Nơi con người chân thực với mình nhất, để lựa chọn sự sống hay sự chết .
– Nơi gặp gỡ để sống những mối tương giao, vì tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa : Nơi sống giao ước .

Dùng từ “lòng con người” khi muốn nói “tâm” là:

– Nơi Thiên Chúa đã ghi sâu những giới luật tự nhiên của Ngài .
– Nơi quyết định hành động chọn Thiên Chúa hay không .
– Nơi có sự tức giận và ganh tị là hậu quả của nguyên tội .
– Nơi phát xuất những dự tính xấu, là nguồn gốc của mọi tội lỗi .
– Nơi Chúa Thánh Thần sẽ thay đổi, ghi khắc lề luật mới .

Dùng từ “tâm hồn” khi muốn nói “tâm” là:

– Trung tâm của nhân cách luân lý .
– Nguồn phát xuất những đam mê, đam mê cơ bản nhất là tình yêu do điều thiện hảo hấp dẫn .
– Nơi Thiên Chúa đã ghi sâu những giới luật tự nhiên của Ngài .
– Nơi cần thanh luyện để chiến đấu chống lại nhục dục .

Dùng từ “linh hồn” khi muốn nói “tâm” là:

– Nguyên lý thuần linh nơi con người, nhờ đó con người là hình ảnh Thiên Chúa .
– Cái thâm sâu nhất và giá trị nhất nơi con người .
– Sự sống của con người và cũng là tổng lực con người .
– Mầm sống vĩnh cửu do Thiên Chúa trực tiếp phát minh sáng tạo mà con người mang nơi mình .

Dùng từ “lương tâm” khi muốn nói “tâm” là:

– Nơi con người hiện hữu một mình với Thiên Chúa và lời nói của Người vang dội trong thâm tâm họ .
– Tiếng gọi con người phải thương mến và ra lệnh phải làm lành lánh dữ .
– Nơi phán đoán những lựa chọn đơn cử bằng cách đống ý lựa chọn tốt, tố giác lựa chọn xấu .
Như vậy, một cách tương đối, hoàn toàn có thể hiểu “ tâm ” là : ( 1 ) “ tâm hồn ” trong đối sánh tương quan với “ thân xác ” trên bình diện con người nói chung. ( 2 ) “ linh hồn ” trong đối sánh tương quan với “ thể xác ” trên bình diện con người tôn giáo. ( 3 ) “ lương tâm ” trong đối sánh tương quan với “ thiện ác ” trên bình diện lý trí. ( 4 ) “ cõi lòng ” trong đối sánh tương quan với “ thân xác ” trên bình diện ý chí. ( 5 ) “ trái tim ” trong đối sánh tương quan với “ yêu ghét ” trên bình diện tình cảm .

Trong thực hành

Đạo Chúa bắt nguồn từ “ Thiên Chúa là Tình Yêu ” ( 1G a 4, 8 ), vì Thiên Chúa đã yêu trần gian đến nỗi phó nộp Con Một của Người cho trần gian ( x. Ga 3,16 ) : “ Ðức Kitô đã chết vì tất cả chúng ta, ngay khi tất cả chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là dẫn chứng Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta ” ( Rm 5, 8 ) .
Bởi đó, có lệnh truyền “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương bạn bè ” ( Ga 13, 34 ). Ai ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa : “ Người ta địa thế căn cứ vào dấu này để phân biệt bạn bè là môn đệ của Thầy : là đồng đội có lòng yêu thương nhau ” ( Ga 13, 35 ) .
Kitô hữu có bổn phận “ huấn luyện và đào tạo lương tâm ” và “ thanh luyện tâm hồn ” để biểu lộ chữ tâm : “ hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ” ( Mc 12,30 ), để đi cho đến tận cùng sự sống là “ chết cho người mình yêu ” ( x Ga 15,13 – 14 ) khi ấy, Kitô hữu hoàn tất cuộc sống mình trong chữ tâm. Đó là nguyên do mà xưa kia người Việt gọi Đạo Chúa là “ Đạo Yêu Thương ” vậy .

Thơ về chữ TÂM

Tâm không hay hờn giận
Chẳng oán trách thù ai
Lòng khoang dung rộng rãi
Ấy là cảnh bồng lai.

Trăm năm tóc cũng đổi màu
Chữ Tâm sáng mãi giữa dòng thời gian

Ba chấm như sao sáng
Nét ngang tựa trăng tà
Xóa đi điều vẩn đục
Phật ở chính tâm ta

Nương theo giáo pháp Phật Đà
Chữ Tâm Phật dạy giúp ta độ đời
Đến bờ giác ngộ thảnh thơi
Xa rời phiền não cuộc đời an vui

Như tảng đá kiên cố
Gió thổi không lay động
Người trí tâm an định
Bất động trước khen chê

Bớt nghe bớt nói bớt nhìn,
Để tâm thanh tịnh cho mình bình an.

Chữ Tâm độc tự thế mà hayThành bại nên hư bởi chữ nàyTuổi trẻ gắng rèn già cố giữCuộc đời gói gọn cả vào đây .

Chân tâm tài tất đáoHữu đức phúc tự lai .

Hồng phúc ân tình lưu sáng mãi, Tâm thành nghĩa trọng vững bền lâu

Hồng phúc ân tình lưu sáng mãi
Tâm thành nghĩa trọng vững bền lâu

Đức trọng, nhân trường thọ .Tâm khoan phúc tự lai .

Sự việc tới Tâm vui tiếp đónViệc qua rồi tâm cũng theo qua .

Mở rộng tâm ra lòng thanh thảnAn vui tự tại đời thong dong

Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

Thiện căn ở tại lòng taChữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài .

Hữu tâm tất thành tựuVô nhẫn bất thành nhân

Tâm bình như thủy lạc tại kỳ trung.
Tâm bình thường tâm thị đạo.

Niệm trước chẳng sanh tức là tâmNiệm sau chẳng sanh tức là PhậtThành tựu toàn bộ tướng tức là tâmRời tổng thể trướng tức là Phật

Thở vào tâm yên bìnhThở ra miệng mỉm cười .

Nếu bạn tự có tâm anỞ đâu cũng thấy như đang ở nhà .

Ý nghĩa của chữ Tâm như thế nào?

Chúng ta thường hay nghe “ thao tác có Tâm ” ? Vậy “ tâm ” là gì ?
Ý nghĩa của chữ “Tâm”
Tâm : Tấm lòng nghĩa là phải sống lương thiện, tử tế, không làm hại ai, đối xử tốt với nhau ; quyết tâm

Nếu lòng mình rộng lượng thì mình thu phục được lòng nhân, nếu mình có đức tín thành thì người tin cậy mình, nếu mình mau mắn siêng năng thì làm được nhiều việc, nếu mình thi ân bố đức thì mình sai khiến được người.

Quay về với lòng mình, đánh giá và nhận định, xem xét nếu cái gì mình thấy không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói và đừng làm, cũng như để hành vi sao cho hợp với đạo lý, lễ chế xã hội .
Cái gì bản thân mình không muốn hoặc người không muốn thì không làm cho người. Cái gì người muốn thì tích tụ lại cho người .

Mình muốn đứng vững thì làm cho người khác đứng vững; mình muốn thành đạt thì giúp đỡ cho người khác thành đạt.
Quyết tâm.
Tâm huyết.
Tâm là tâm thể, chân tâm.
Tâm là yên tâm, an tâm. Muốn an “Tâm” thì phải sống chính trực ngay thẳng, trong sáng.
“Tâm” được hiểu là nơi cư trú của hoạt động tinh thần của con người. Nó còn mang ý nghĩa là lương tâm đạo đức, tấm lòng, lòng bao dung, nhân ái độ lượng, vị tha, thương người như thể thương thân.
“Tâm” còn biểu hiện là sự cảm thông, biết chia sẻ với người khác lúc hoạn nạn, khó khăn. “Tâm” là tâm tính, tâm can, tâm tư, tâm khảm, là toàn tâm toàn ý cho công việc cho sự nghiệp, lý tưởng của mình. Trong đời sống tinh thần cái “Tâm” bác học cũng ảnh hưởng nhiều tới con người Việt Nam.
“Tâm” là tâm lực, là sự tập trung cao độ của sức lực con người. Ở mỗi người, ai cũng tồn tại cái “Tâm” trong mình. Vì thế, trong cư xử giữa con người với con người, điều quan trọng là tấm lòng, là thành “Tâm”, thực bụng sống hết lòng vì nhau.
Tâm là tính thiện, là việc làm tốt, là suy nghĩ mình vì mọi người. Người có Tâm là người không làm điều gì ác, không làm việc gì phương hại tới ai, luôn đặt lợi ích của mọi người, của xã hội lên trên lợi ích của mình…
Tâm chính là tâm hồn của con người, có tâm tức là có lòng nhân ái, thương người, biết cảm thông và chia sẻ với những người khác khi khó khăn, hoạn nạn. TÂM ở đậy cũng là lương tâm, là lẽ phải khi sống ở đời. Con người sống trên đời phải biết giữ lấy chữ TÂM ấy để sống tốt, sống có ích.