Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ (Phần 1) – Sự Nghiệp Học

Bản đồ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam qua những thời kỳ là sự đổi khác khoảng trống sống sót của người Việt Nam, bộc lộ bởi những triều đại chính thống đã được công nhận trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Mang đặc thù rất phức tạp, lúc thì bị mất chủ quyền lãnh thổ về những nước khác, lúc lại chinh phục được những vùng chủ quyền lãnh thổ mới .

Nhìn chung lại vùng chủ quyền lãnh thổ cốt lõi nơi phát sinh ra người Việt lúc bấy giờ là vùng châu thổ sông Hồng, sau nhiều thế kỷ đi chinh phục, đồng nhất, khai khẩn mà chủ quyền lãnh thổ thời nay đã trải dài đến tận đồng bằng sông Cửu Long .

Trong bài viết này chúng tôi sẽ khái quát toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ thời Hồng Bàng khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến ngày nay

I. Hồng Bàng

Khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên 1 số ít sử liệu và lịch sử một thời cho rằng vào đầu thời Hồng Bàng, bộ tộc người Việt có chủ quyền lãnh thổ to lớn từ phía nam sông Dương Tử ( Trung Quốc ) đến tận vùng Thanh Hóa. Thực chất những bộ tộc Việt phía Nam sông Trường Giang không có cùng sắc tộc, chủng tộc và ngôn từ. Cái tên Bách Việt là chỉ chung cho những bộ tộc những nhà nước phía Nam của Cafe Trung Nguyên

Nước Văn Lang


Nước Văn Lang thuộc bộ tộc Lạc Việt đã hình thành trên vùng bình nguyên gồm có đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam .

Nước Âu Lạc


Sau khi chiếm được Văn Lang, Thục Phán đã sát nhập Văn Lang vào đất của mình, nước Âu Lạc có chủ quyền lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang ( Quảng Tây, Trung Quốc ) kéo xuống tận dãy Hoành Sơn thuộc TP Hà Tĩnh thời nay

II. Thời Bắc Thuộc


Nếu coi nhà Triệu ( từ 207 đến năm 111 trước công nguyên ) là một phần của mạng lưới hệ thống phân loại lịch sử vẻ vang thời kỳ Bắc thuộc lần 1 thì chủ quyền lãnh thổ nước Việt Nam thuộc nước Nam Việt của 5 đời vua nhà Triệu .
Năm 111 trước công nguyên, nhà Triệu để mất nước về tay nhà Hán. Sau đó chủ quyền lãnh thổ nước Nam Việt cũ bị chia thành 6 Q., đồng thời xác lập thêm phần đất ở 3 Q. mới là Nhật Nam, Chu Nhai, Đạm Nhĩ
Lãnh thổ của dân tộc bản địa Việt Nam thời kỳ này, trong sự quản lý của chính quyền sở tại TW những triều đại Trung Quốc, tiến về phía nam đến vùng thành phố Hà Tĩnh lúc bấy giờ, đôi lúc những quan quản lý Giao Chỉ ( hoặc Giao Châu ) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào quản lý nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được .

Nước Vạn Xuân

Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi thoát khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa, dưới thời nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương. Tháng 2 năm 544, sau khi đánh bại quân nhà Lương (Trung Quốc), Lý Bí xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602, khi nhà Tùy đánh bại Lý Phật Tử và đô hộ Việt Nam một lần nữa.

III. Lãnh thổ Việt Nam Thời phong kiến tự chủ

Sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ của Tĩnh Hải quân năm 905, Việt Nam khởi đầu thời kỳ độc lập tự chủ. chủ quyền lãnh thổ Tĩnh Hải quân gồm 12 châu

Tĩnh Hải Quân





Việt Nam chính thức vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền vượt mặt nhà Nam Hán vào năm 938. Tuy nhiên chủ quyền lãnh thổ bị co lại chỉ còn 8 châu : Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Trường, Ái, Hoan, Diễn. 4 châu bị nhà Nam Hán chiếm là Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An .



Đại Cồ Việt

Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt



Năm 1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng châu Vị Long và châu Đô Kim ( nay thuộc Tuyên Quang ), vua Lý Thái Tổ sai con là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân thời cơ đó nhà Lý sáp nhập luôn khu vực thời nay là Hà Giang vào Đại Việt .

Đại Việt

Sau đó Lý Thái Tổ đổi tên nước là Đại Việt năm 1054
Vào Năm 1069, vua Lý Thánh Tông nam tiến đánh nước Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm lúc bấy giờ là Chế Củ ( Jaya Rudravarman ), đem về kinh đô Thăng Long. Để được tha mạng vua Chiêm đã phải cắt những vùng đất phía bắc của Chiêm Thành gồm ba châu là : Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý cho nước Đại Việt. Những châu ấy thời nay ở địa phận những huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị .

Năm 1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành đã tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số người Thái ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại Việt.



Việt Nam thời nhà Trần năm 1306 vua nước Chiêm Thành là Chế Mân ( Jaya Simhavarman ) đã cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông của Đại Việt để làm sính lễ cưới Huyền Trân công chúa, vùng đất mà thời nay là phía nam Quảng Trị và Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân .

Đại Ngu

Đại Ngu là quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ ( 1400 – 1407 ). Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu tháng 3 năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền


Theo : Lịch sử Việt Nam