Tục Ngữ – Ca Dao về ngày Tết Nguyên Đán – Tạp chí Đáng Nhớ
Đọc khoảng:
14
phút
Chuyện xưa kể rằng: Vào một thời xa xưa lắm, người đang sống yên ổn thì một bầy quỷ dữ đến xâm lăng. Chúng dùng mưu mô quỷ quyệt chiếm hết đất đai, tài sản của người. Người thành kẻ làm công cho quỷ. Người trồng lúa, quỷ chia cho người phần gốc, quỷ lấy phần ngọn.
Thấy người khổ quá, Phật hiện ra giúp kế. Theo điều kiện đã được giao ước đúng như lời Phật dặn, người trồng khoai lang. Đến mùa thu hoạch, quỷ lấy phần ngọn chỉ có dây và lá, người lấy phần gốc, củ chất đầy nhà. Quỷ lại đặt điều kiện: quỷ ăn phần gốc và ngọn, người ăn phần giữa.
Lại theo lời Phật dặn, người trồng bắp. Đến mùa, người lấy hết trái, quỷ chẳng có gì để ăn. Quỷ thua bèn đòi lại đất. Phật khuyên người nên xin quỷ bán cho mình một mảnh đất bằng bóng của một chiếc áo cà sa. Quỷ bằng lòng. Phật bảo người trồng một cây tre rồi máng chiếc áo cà sa lên ngọn. Phật làm phép làm cây tre cao mãi, cao mãi đến tận trời và bóng chiếc áo cà sa lan xa càng lúc càng rộng. Quỷ phải dắt dìu nhau chạy ra ngoài bóng râm của chiếc áo.
Cuối cùng quỷ bị đuổi ra mãi ngoài tận biển Đông. Người lại làm chủ vùng đất của mình.
Từ đấy, quỷ xin với Phật hàng năm cho vào đất liền để thăm mồ mả tổ tiên. Phật bằng lòng cho quỷ vào đất liền nhân ngày Tết Nguyên Đán của người. Phật dặn người nên trồng cây Nêu trước nhà vào những ngày này để cho quỷ không thể xâm phạm đến người.
Trên đây là sự tích cây nêu ngày Tết của ta. Thế nên ca dao ta có câu:
“Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè”.
Trong tâm thức của dân tộc Việt, cây nêu là biểu trưng của sức mạnh tinh thần Việt chống lại sức phản động cái ác (quỷ). Cây nêu cũng biểu hiện quyền lực của mỗi gia đình trong làng xã ngày xưa:
“Thứ nhất nêu cao,
Thứ nhì pháo kêu”.
Nhà có cây nêu cao là nhà giàu sang quyền quí. Tràng pháo nổ giòn và đều là báo hiệu điềm tốt cho gia chủ.
“Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè” chỉ là tâm trạng trẻ con bởi lẽ chỉ có trẻ con mới mong chóng tới Tết để được “ăn ngon mặc đẹp” còn đối với người lớn, Tết đến là cả một nỗi lo:
“Tết đến sau lưng
Ông vải thì mừng
Con cháu thì lo”.
Quả vậy, vào những ngày năm cùng tháng tận, đa số dân ta lo lắng đủ điều. Nào là nợ nần chưa trang trải. Nào là công việc chưa hoàn thành. Nào lo sắm sửa cho 3 ngày Tết. Nào lo sửa sang nhà cửa để đón Xuân.
Đời sống của người nông dân ta ngày trước không phải là dễ dàng vì phương pháp canh tác cổ truyền, mọi việc phần lớn như còn tùy thuộc vào sự định đoạt của Trời. Cuộc sống tuy có muôn vàn cơ cực, ăn buổi hôm lo buổi mai, thế nhưng việc tiêu tốn cho 3 ngày Tết lại không thể dè xẻn được. Thế nên có nhiều gia đình đã phải chịu cái cảnh:
“Đi cày ba vụ
Không đủ ăn ba ngày Tết!”.
Tết đến, trăm vạn nỗi lo quấn quít trong đầu, thứ nhất là lo nợ nần chưa trang trải:
“Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không an”.
Thật là trớ trêu. Tiền không có mà tiếng còi của gánh hát Quảng Đông lại quyến rũ, thúc giục. Về nhà thì nợ đòi. Mà nợ đòi thì nguy lắm. Các chủ nợ có lệ cuối năm giằng thúc con nợ, cố đòi cho được số tiền đã cho vay, dù rằng đòi được tiền về để đấy. Người ta cho rằng, nếu không đòi được tiền trước Giao Thừa, ngày hôm sau, món tiền nợ đã ra nợ cũ, và ngày Mồng Một đầu năm và những ngày sau nữa, người ta không dám đòi nợ, vì con nợ kiêng sợ giông.
Tục lệ như vậy nên cái ngày tất niên nầy, những người có nợ làm ăn kém may mắn, không có tiền trả mà phải khất chủ nợ không chịu, đành phải đi trốn nợ đến lúc Giao Thừa mới trở về.
Tục ngữ lại có câu:
“Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu có 30 Tết mới hay”.
Hoặc là:
“Có, không: mùa Đông mới biết
Giàu nghèo: 30 Tết mới hay”.
Trên đây là những quan sát thực tế của người bình dân ta ngày xưa. Kẻ khôn ngoan là kẻ khéo biện bạch trước cửa quan (tức cơ quan chính quyền hàng Xã, Tổng, Huyện…) để giành lẽ phải về mình. Mùa Đông là mùa giá rét. Nhiều công việc làm ăn hầu như đình trệ. Đây thường là khoảng thời gian đem lương thực dự trữ ra để ăn. Nhà giàu có của dự trữ nên không lo. Nhà nghèo phải đi vay từng đấu gạo. Đến ngày giáp Tết, nhà giàu sắm sửa ê hề, dân nhà nghèo đôi khi còn phải lo trốn nợ. Thế nên dù ai có tài khoe mẽ đến đâu, đến ngày giáp Tết là người ta biết hết, không thể nào giấu giếm được.
Ngoài những ngày kỵ giỗ bình thường để con cháu tưởng nhớ đến ngày từ trần của người đã khuất, hàng năm người Việt ta còn có lệ Chạp mả, tất cả mồ mả của dòng họ đều được giẫy cỏ sạch sẽ vào tháng Chạp để sửa soạn mời gia tiên về ăn Tết với con cháu. Cũng có nơi để sang tháng Giêng mới giẫy mả.
“Đi đâu mặc kệ đi đâu
Đến ngày giỗ chạp phải mau mà về”.
Con cháu không thể bỏ được ngày giỗ chạp bởi vì “con cháu muốn tròn đạo hiếu với tổ tiên thì những ngày kỵ Chạp, Tết nhứt phải cúng cấp tử tế. Những người bỏ giỗ bỏ Tết là bất hiếu chi cực”.
Bỏ sêu Tết kỵ Chạp là một điều bất hiếu. Vì thế đã có cô gái trách cứ vị hôn phu của mình một cách nặng nề:
“Chiều 30 anh không đi Tết,
Rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ,
Hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công”.
Lạy bàn thờ gia tiên quả là một điều hệ trọng. Về Tết Nguyên Đán, từ ngày 29 tháng Chạp, gia trưởng phải làm lễ Rước Ông Bà. Trong 3 ngày Tết, suốt đêm ngày lúc nào cũng có hương đèn và lễ vật để cúng tổ tiên. Đền chiều Mồng 3 hay sang Mùng 4 thì làm lễ Đưa Ông Bà để đốt vàng mã cúng trong 3 ngày Tết.
Lạy bàn thờ gia tiên vào 3 ngày Tết là một nghi lễ không thể thiếu của con cháu đối với những người đã khuất. Thế nhưng khi bị vị hôn thê trách cứ, người con trai đã khéo biện bạch cho sự vắng mặt của mình bằng một lễ nghi có vẻ còn quan trọng hơn: lo việc hộ, việc làng.
“Hôm Ba Mươi anh mắc lo việc hộ,
Sáng Mồng Một anh bận việc làng,
Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!”
Đến ngày Tết, con cháu dù làm ăn ở đâu cũng cố tìm cách về nhà để ăn Tết, mừng tuổi ông bà cha mẹ. Con cái dù đã lập gia đình ra ở riêng cũng đem con cái về thăm và chúc Tết cha mẹ mình:
“Mồng Một Tết Cha
Mồng Ba Tết Thầy”.
Lệ Tết thầy của ta ngày xưa thật đẹp. Đó là tinh thần “tôn sư trọng đạo”, là tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”. Học trò học nghề hay học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, quý mến thầy mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.
Lúc học, gặp khi Mồng Năm ngày Tết như: Tết Nguyên Đán, Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Thu,… mùa nào thức nấy, hoặc cặp gà thúng gạo, đường mứt bánh trái hoặc năm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ Thầy.
Trong các tục lệ về ngày Tết, ta có tục xông đất hay xông nhà đầu năm. Theo tục lệ nầy, có nhiều người tin rằng, có người vía xấu đến xông đất nhà nào (tức là người đến chúc Tết đầu tiên) nhà đó sẽ gặp điều xui xẻo quanh năm. Vì thế, nếu không có người nhà dễ vía để xông lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày Mồng Một Tết đến xông nhà, trước khi có khách đến chúc Tết, để người này đem sự dễ dãi may mắn lại.
Do tục lệ nầy, vào sáng Mồng Một Tết ít người dám ra khỏi nhà để đi thăm bà con láng giềng, sợ mình sẽ đem điều xui xẻo đến cho người khác. Cũng do tục lệ nầy, người ta rất sợ những kẻ “mang tiếng không tốt” đến xông nhà mình.
Ở đất Hà thành vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có hai nhân vật trào phúng nổi tiếng, một cặp bài trùng mà những tay có máu mặt thời bấy giờ đều ngán, đó là Ba Giai và Tú Xuất. Hai nhân vật này mang tiếng là hay chòng ghẹo và phá phách thiên hạ. Vì thế người ta đã hù dọa nhau:
“Hễ ai mà nói dối ai
Thì Mồng Một Tết Ba Giai đến nhà”.
Đa số dân ta sống bằng nghề nông. Hàng năm, nhiều nhà dâng lễ cúng đất, còn gọi là lễ “tạ thổ kỳ yên” vào những ngày đầu năm. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, lệ cúng đất được thực hiện vào ngày 10 Tháng Giêng:
“Mồng Chín vía Trời
Mồng Mười vía Đất”.
Ngày vía đất có lệ cúng đất. Ở nhà quê miền Nam, đến ngày 10 tháng Giêng người nhà nông làm lễ cúng đất. Nghi lễ rất giản dị. Nhà khá giả thì dọn mâm cơm có gà vịt đem ra ruộng cúng rồi cùng nhau ăn uống tại chỗ. Ở nhà thì dọn lễ vật ra cúng tại bàn thờ Thổ Địa đặt trong nhà. Lễ vật cũng đơn giản: con gà, miếng thị hoặc rút gọn chỉ còn bộ tam sên với dĩa gạo muối.
Trong 3 ngày Tết ta có lệ chúc Tết. Con cháu chúc Tết ông bà cha mẹ, ông bà cha mẹ chúc Tết lại con cháu; bà con láng giềng chúc Tết nhau. Ba ngày Tết là 3 ngày mọi người quên đi mọi ghen ghét, giận hờn; hễ gặp nhau là gửi lời cầu chúc tốt đẹp cho nhau:
“Này mừng tứ hải đồng xuân
Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình.
Sĩ thời chăm việc học hành,
Một mai khoa bảng để dành công danh.
Công thì phượng các long đình
Đủ nghề su khoáng, rứt nghề công thâu.
Nông thời cuốc bẫm cày sâu,
Thu hòa hạ mạch, phong thâu có ngày.
Thương thời buôn bán liền tay
Rứt tài Tử Cống ai tày cho đang!”.
Ở miền Bắc có tục hát “súc sắc súc sẻ” để mừng Tết ngay vào đêm Giao Thừa. Một đoàn trẻ con gồm chừng 10, 15 em tay cầm ống bương có đựng đồng tiền kẽm. Ngay từ lúc chạng vạng, bọn trẻ lũ lượt kéo đến từng nhà để mừng gia chủ sang năm mới gặp nhiều điều may mắn với lời hát mừng đầy ắp những điều tốt đẹp:
“Súc sắc súc sẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào
Bước lên giường cao: Có đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp: có đôi rồng chầu
Bước ra đằng sau: có nhà ngói lợp
Ngựa ông còn buộc
Voi ông còn cầm
Ông sống một trăm linh năm tuổi lẻ
Vợ ông sinh đẻ
Những con tốt lành
Những con như tranh
Những con như đối…”.
Ở một số địa phương lại có tục “hát sắc bùa” vào ngày Tết. Thông thường hát sắc bùa do phường sắc bùa hát theo điệu dân ca sắc bùa của từng địa phương. Có một số địa phương lại kết hợp múa sắc bùa với hát sắc bùa thành một vũ điệu dân gian đầy quyến rũ. Phường sắc bùa còn có những bài hát riêng cho từng nghề nghiệp: buôn bán, nông tang, canh cửi…:
“Thánh chúa vạn niên
Thánh chúa vạn niên!
Chúng tôi nay dâng cách đội đèn
Thái hòa gặp tiết xuân thiên
Gió đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng
Trong nhà ta đèn thắp sáng trưng
Song le còn muốn chơi trăng ngoài thềm
Để cho trong ấm ngoài êm…”
Vào sáng Mồng Một Tết, một số chức sắc trong làng từ Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lý trưởng, Trương tuần cùng các bô lão đều tề tựu về đình làng để tế cáo thần linh bản thổ và thần Thành hoàng. Trong ngày gặp mặt đầu năm ở nơi linh thiêng này, quý chức sắc của làng đều dâng lời cầu nguyện xin Thành hoàng và thành linh bản thổ phù trợ cho dân làng sang năm mới được vạn sự như ý:
“Chúc mừng thượng đẳng tối linh
Phù trì dân xã hiển vinh sang giàu
Trước đình lại có rồng chầu
Có đôi qui phụng tựa màu non tiên
Giữa đình có đấng bát tiên…”
Trong những hội Xuân đầu năm, làng thường tổ chức các hội hát nam nữ như: hát đúm, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ… Thường vào cuộc hát, người khởi xướng thường hát những lời chúc tụng tốt đẹp:
“Tới đây viếng cảnh, thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân.
Sau nữa tôi mừng cả làng tuần
Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy
Một mai đàn có bén dây
Ơn dân vạn bội biết ngày nào quên!”
Vào 3 ngày Tết, các làng thường tổ chức các trò chơi tại sân đình, sân chùa hay một khoảng đất trống nào đó để dân làng tụ tập vui Xuân. Các trò chơi thông thường gồm có: cờ người, tổ tôm điếm, đánh đu, ném cầu, chọi gà, đô vật… Ngoài dịp Tết Nguyên Đán, các làng còn tổ chức hội Xuân vào các ngày Thần kỵ tức ngày húy kỵ của vị Thành hoàng của làng. Các lễ hội này thường được tổ chức vào mùa Xuân hay mùa Thu với nhiều trò chơi đặc biệt hơn.
Ngoài địa điểm chính nêu trên, dọc theo đường làng dưới bóng các lũy tre hay cây đa, cây bàng, người ta thấy tụ tập từng đám 5, 7 người, có nơi 10, 15 người để chơi các trò cờ bạc như xóc dĩa, đánh đáo…
“Mồng Một chơi cửa chơi nhà,
Mồng Hai chơi xóm, Mồng Ba chơi đình”.
Thực ra, các nơi vui Xuân không phân biệt ra từng ngày rạch ròi như trên mà còn tùy thuộc vào từng hạng người, lứa tuổi. Phần lớn các người lớn tuổi thích tụ tập về sân đình, sân chùa để thưởng thức các trò vui Xuân, lớp con cháu lại thích tụ tập ở các nơi xóc dĩa, bầu cua, đánh đáo…
Một số tỉnh thuộc miền Trung Trung phần, ngoài các trò chơi như xóc dĩa, bầu cua, đánh đáo,… còn có thú chơi bài chòi:
“Rủ nhau đi đánh bài chòi
Ở nhà con khóc nó lòi rún ra”.
Đây là một hội bài chòi được nhà văn Võ Phiến thuật lại theo tài liệu của nhà thơ Quách Tấn:
“Trên một khoảnh đất, dựng lên 9 cái chòi. Các chân bài, mỗi chân chiếm một chòi. Người ta dùng bộ bài Tam Cúc 27 cặp, đem mỗi lá bài dán vào một thẻ tre. Bộ bài chia ra làm đôi: một nửa bỏ vào ống do người hô hiệu giữ, một nửa đem phân phối cho 9 chòi, mỗi chòi 3 lá. Lúc vào cuộc, anh hiệu rút bài trong ống ra, hô lên, chòi nào trúng lá ấy thì gọi hiệu đem lại. Khi có một chòi trúng đến lá thứ 3 là xong một ván. Người hô hiệu thu hết bài, trộn nhau, rồi lại phát ra mỗi chòi 3 lá để bắt đầu lại ván khác. Cứ thế cho đến 8 ván là mãn hội”.
Phần lớn những người thích chơi bài chòi là thích cái điệu hô đặc biệt gọi là hô bài chòi của các tay hô hiệu.
Nói đến Tết mà không nhắc đến các phiên chợ Tết là cả một điều thiếu sót. Chợ Tết có thể là những phiên chợ cuối năm bày bán các hàng Tết từ đồ cúng tế, hoa quả đến quần áo và đồ chơi trẻ con. Chợ Tết cũng có thể là những phiên chợ đầu năm họp lấy hên và thường được tổ chức các trò vui Xuân cùng với việc bày bán hàng Tết. Có những phiên chợ Tết mỗi năm chỉ họp một lần:
“Bỏ con bỏ cháu,
Không ai bỏ Hai Mươi Sáu chợ Yên
Bỏ tổ bỏ tiên
Không ai bỏ chợ Viềng Mồng Tám”.
Đây là hai phiên chợ Tết đặc biệt của Nam Định xưa: chợ Yên mỗi năm chỉ họp một phiên vào ngày 26 tháng Chạp. Đây là một phiên chợ Tết thật sầm uất với đầy đủ mặt hàng Tết cho người lớn và trẻ con, quy tụ khá đông đảo người quanh vùng về mua sắm.
Chợ Viềng lại họp vào ngày 8 tháng Giêng. Tương truyền ngày xưa ở Nam định có đến 3, 4 chợ cùng mang tên chợ Viềng. Chợ Viềng chính nằm ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản; họp phiên đầu năm vào Mùng 8 tháng Giêng, quy tụ dân quanh vùng 2 huyện Nam Định, Vụ Bản. Dân vùng này tin rằng buôn bán mở hàng ở chợ Viềng vào phiên đầu năm sẽ được buôn bán may mắn quanh năm.
Do đó, nếu gặp những ngày có mưa gió, lại gặp đò ngang cách trở, dân buôn tự động họp chợ ở một nơi nào đó để buôn bán gọi là “lấy ngày”, cầu may cho cả năm và phiên chợ đó vẫn được gọi là phiên chợ Viềng. Thế là một phiên chợ Viềng mới được thành hình. Sau phiên chợ họp lấy may đầu năm đó chợ không còn để lại một dấu vết nào.
Năm sau hoặc những năm sau nữa, nếu lại gặp trở ngại như trên, dân buôn quanh vùng lại hình thành một chợ Viềng khác, có thể là ở vùng đất năm trước hay một nơi nào khác. Những phiên chợ Viềng này mỗi năm chỉ họp một lần thôi.
Ở kinh đô Huế có chợ Gia Lạc, mỗi năm cũng chỉ họp có một phiên:
“Gia Lạc chỉ mở ngày Xuân
Quanh năm, suốt tháng khó lần tìm ra”.
Gia Lạc là một phiên chợ đặc biệt gần thôn Vĩ Dạ, hàng năm chỉ họp vào mấy ngày Tết: từ 29 tháng Chạp đến Mồng 3 Tết. Tương truyền đây là phiên chợ đặc biệt do vị Hoàng Tử thứ 4 của Vua Gia Long là Nguyễn Phúc Bính cho lập vào 3 ngày Xuân trên một khoảnh rộng gần phủ đệ của ông để cho các người trong hoàng phái đến sắm hàng Tết và vui Xuân như đánh bài chòi, đổ xăm hường, đánh đáo lỗ… Chợ tập trung được nhiều mặt hàng Tết nhất là đồ chơi cho trẻ con do dân các phủ huyện lân cận sản xuất và mang về bán.
Dần dần về sau dân quanh vùng cũng được tham dự trong các sinh hoạt của phiên chợ Tết này và mỗi năm chợ cũng chỉ họp vào 3 ngày Tết mà thôi.
Ở tỉnh Vĩnh Yên có phiên chợ Dưng cũng rất nổi tiếng:
“Bỏ con, bỏ cháu
Không ai bỏ hội Mùng 6 chợ Dưng”.
Dưng là tên nôm na của làng Văn Trưng thuộc phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên. Hàng năm làng Văn Trưng mở hội Xuân vào ngày Mùng 6 tháng Giêng. Chợ Dưng tọa lạc gần đình làng Dưng và mở phiên chợ đầu năm cũng vào Mùng 6 tháng Giêng. Vừa gặp ngày hội Xuân, vừa gặp phiên chợ đầu năm nên chợ Dưng vào ngày này thật đông đúc. Ngoài việc buôn bán lấy may, dân chúng còn được thưởng thức các trò vui Xuân, đặc biệt là trò chơi trai gái bắt chạch trong chum.
Ở huyện Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Cầu Quan cũng thật hấp dẫn. Chợ Cầu Quan, dân quanh vùng quen gọi là chợ Thượng, họp chợ ngay bên bờ một con sông đào từ thời nhà Lê vào dịp đầu Xuân. Dân chúng vừa đi chợ Tết vừa xem đua thuyền rồng:
“Cầu Quan vui lắm ai ơi,
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng!”.
Vùng quan họ đất Bắc cũng có những phiên chợ Tết nổi tiếng một thời còn được dân chúng nhắc nhở qua câu ca dao:
“Xứ Nam: nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc: Vân Khám, xứ Đoài: Hướng Canh”.
Xứ Nam, xứ Bắc, xứ Đoài là tên gọi nôm na của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Tây ngày xưa. Riêng đất Nam Định còn có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:
“Mồng Một chơi cửa, chơi nhà
Mồng Hai chơi xóm, Mồng Ba chơi đình.
Mồng Bốn chơi chợ Quả Linh
Mồng Năm chợ Trình, Mồng Sáu non Côi.
Qua ngày Mồng Bảy nghỉ ngơi
Bước sang Mồng Tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua”.
Tết Nguyên đán là ngày lễ cổ truyền trọng đại của dân tộc Việt nam. Trên đây chúng tôi đã nêu lên một số tục ngữ ca dao phản ảnh một số tập tục và hình ảnh quen thuộc của ngày lễ trọng đại đó.
Ngày nay, vì hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, một phần con dân Việt phải sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng dù sống trong hoàn cảnh, châu lục, quốc gia nào người Việt ta cũng vẫn nhớ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc và vẫn tổ chức những hội vui Xuân một cách trọng thể.
Tổ chức vui Xuân để giữ gìn truyền thống Việt và quảng bá phần nào văn hóa Việt với các sắc dân khác đang cùng sống trên một địa bàn với chúng ta. Đó là ý nghĩa quan trọng của ngày Tết Nguyên Đán mà chúng ta vẫn thường tổ chức hàng năm.