Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương: 25 năm xây dựng& phát triển

Thứ Sáu 19/12/2014, 07 : 30 ( GMT + 7 )Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương được xây dựng theo Quyết định số 47NN – TCCB-QĐ ngày 17/2/1989 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, nay là Bộ NN-PTNT .Trung tâm xây dựng trên cơ sở sáp nhập Bộ môn Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương vào Trại Nghiên cứu chăn nuôi gia cầm Thụy Phương.

Hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương có 13 đơn vị trực thuộc gồm: 6 đơn vị nghiên cứu SX (Trạm Nghiên cứu chăn nuôi gà Thụy Phương, Trạm Nghiên cứu chăn nuôi gà Phổ Yên, Trạm Nghiên cứu chăn nuôi gia cầm Cẩm Bình, Trạm Nghiên cứu chăn nuôi thủy cầm, Trạm Nghiên cứu chăn nuôi đà điểu Ba Vì, Trạm Nghiên cứu chăn nuôi Bình Thuận).

7 phòng công dụng ( Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế, Phòng Tổng hợp, Phòng Hành chính – Quản trị và XNK, Phòng Tài chính – kế toán, Phòng Bảo vệ sức khỏe thể chất động vật hoang dã, Phòng Cơ điện và thiết bị và Phòng Tư vấn, chuyển giao công nghệ tiên tiến ).

I. THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ

25 năm qua, TT đã được Bộ NN-PTNT, Bộ KH-CN giao trách nhiệm chủ trì, thực thi và phối hợp triển khai 101 đề tài nghiên cứu, dự án Bất Động Sản thử nghiệm trong đó có 52 đề tài nghiên cứu, dự án Bất Động Sản thử nghiệm cấp Nhà nước và 49 đề tài, dự án Bất Động Sản cấp ngành, phối hợp cấp ngành trong những nghành nghiên cứu : di truyền chọn giống, dinh dưỡng thức ăn, ấp trứng, thú y phòng bệnh, VSATTP và bảo vệ thiên nhiên và môi trường. Ngoài ra còn thực thi hàng trăm đề tài nghiên cứu cơ sở Giao hàng SX, huấn luyện và đào tạo nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên ĐH. Nổi bật trong số những đề tài, dự án Bất Động Sản đã được nghiệm thu sát hoạch có 41 mẫu sản phẩm nghiên cứu là những giống gà, giống vịt, giống ngan và đà điểu cũng như những quy trình tiến độ chăm nom nuôi dưỡng, thú y phòng bệnh và ấp trứng được Bộ NN-PTNT công nhận là văn minh kỹ thuật ( TBKT ). Kết quả trong 10 năm trở lại đây, TT đã nghiên cứu chọn tạo được 3 dòng gà LV có đặc thù ngoại hình và năng lực SX tương thích với những vùng sinh thái xanh trong cả nước. Các dòng gà này có hiệu suất trứng / mái / 68 tuần tuổi đạt 155 – 165 quả ; gà thương phẩm có khối lượng khung hình lúc 10 tuần tuổi đạt 1,8 – 1,9 kg, chất lượng thịt thơm ngon, cung ứng được nhu yếu của người tiêu dùng. Tháng 3/2004 Bộ NN-PTNT công nhận và đưa vào hạng mục giống gốc. Nghiên cứu tinh lọc nhân giống thành công xuất sắc gà Ai Cập tương thích với sinh thái xanh Nước Ta. Năng suất trứng 180 – 200 quả / mái / năm, tỷ suất lòng đỏ 31 – 32 %. Năm 2004, Bộ NN-PTNT công nhận dòng gà thuần và đưa vào hạng mục giống gốc. Từ nguyên vật liệu gà Ai Cập và gà Hyline, TT đã chọn tạo 2 dòng gà hướng trứng HA1 và HA2 có hiệu suất trứng 230 – 235 quả / mái / năm, chất lượng trứng thơm ngon. Gà Ai Cập, gà HA đã trở thành giống gà hướng trứng chất lượng cao được người tiêu dùng yêu thích và tăng trưởng nhanh trong SX. Trước nhu yếu được yên cầu thị trường về con giống hiệu suất cao, thời hạn nuôi gà thương phẩm ngắn, từ nguồn nguyên vật liệu gà Sasso, gà LV, TT đã nghiên cứu chọn tạo những dòng gà lông màu hiệu suất chất lượng cao. Gà TP có vận tốc sinh trưởng nhanh, hiệu suất trứng đạt 175 – 180 quả / mái / 68 tuần tuổi, gà nuôi thương phẩm đến 9 tuần tuổi, khối lượng khung hình đạt 2,4 – 2,5 kg / con với tiêu tốn thức ăn 2,4 – 2,6 kg / kg tăng khối lượng. Kết quả khu công trình được nhận phần thưởng ” Khoa học phát minh sáng tạo Nước Ta năm 2012 “. Để khai thác đặc thù di truyền chất lượng thịt thơm ngon của những giống gà nội, năng lực sinh sản, sinh trưởng cao của những giống gà ngoại, TT đã nghiên cứu tạo những tổng hợp lai hướng thịt, có lợi thế lai về năng lực SX và chất lượng mẫu sản phẩm, tương thích với điều kiện kèm theo chăn nuội những vùng sinh thái xanh VN. Các công thức lai được công nhận là những TBKT và được cho phép vận dụng rộng trong SX như gà Sasso x Lương Phượng ( 2009 ), gà Mía x LV ( năm trước ). Nhằm giảm bớt kinh phí đầu tư nhập khẩu, từng bước dữ thế chủ động được con giống, từ những nguồn gen nhập ngoại trong tiến trình 2006 – 2013, TT được Bộ NN-PTNT giao triển khai đề tài “ Nghiên cứu chọn tạo một số ít dòng ngan giá trị kinh tế tài chính cao ”.

Kết quả sau thời gian 7 năm nghiên cứu đã chọn tạo thành công các dòng ngan V51, V52, V71, V72, VS1 và VS2 có năng suất, chất lượng cao hơn so với các dòng ngan hiện có. Năng suất trứng đạt 190 – 200 quả/2 chu kỳ đẻ, tỷ lệ phôi đạt 93 – 94%. Ngan thương phẩm 84 ngày tuổi có khối lượng ngan trống đạt 4,8 -5,2 kg/con, ngan mái đạt 2,6 – 2,7 kg/con.

Từ nguồn gen vịt Super M3 nhập từ hãng Cherry Valley của Vương quốc Anh năm 2006, TT đã tiến hành nghiên cứu chọn tạo ra hai dòng vịt SD1 và SD2 có hiệu suất trứng / mái / 48 tuần đẻ đạt 220 – 225 quả ; tỷ suất phôi đạt 90 – 92 % .
Từ nguồn gen vịt vịt Super M3 Haevy, TT đã nghiên cứu tinh lọc tạo hai dòng vịt SH1, SH2. Qua 4 thế hệ khả năng suất đã không thay đổi, hiệu suất trứng / mái / 48 tuần đẻ đạt 220 – 230 quả, tỷ suất phôi đạt 90 – 95 %. Vịt cha mẹ cho hiệu suất trứng / mái / 50 tuần đẻ đạt 240 – 245 quả ; tỷ suất phôi 93 – 95 % ; vịt nuôi thịt 56 ngày tuổi khối lượng khung hình vịt trống đạt 4,3 – 4,5 kg / con ; vịt mái đạt 3,3 – 3,5 kg / con. Không dừng lại ở việc tạo tổng hợp lai hai dòng, quy trình tiến độ 2011 – năm ngoái Trung tâm được Bộ NN-PTNT giao trách nhiệm “ Nghiên cứu chọn tạo bốn dòng vịt mới chuyên thịt hiệu suất chất lượng cao ”. Đến nay qua ba thế hệ chọn tạo, bốn dòng vịt TC đã khẳng định chắc chắn được năng lực sinh sản và cho thịt cao.

img-2376114627563
Các giống gà TP của trung tâm cho năng suất, chất lượng tốt 

Hằng năm trung tâm chuyển giao vào SX hơn 3,6 triệu gà giống (trong đó có trên 300.000 gà bố mẹ, từ đó SX ra 38 triệu gà thương phẩm); trên 500.000 ngan giống (trong đó có hơn 100.000 ngan bố mẹ, từ đó SX ra 10 triệu ngan thương phẩm); hơn 1,3 triệu vịt con giống (trong đó có 120.000 vịt bố mẹ từ đó SX ra khoảng 15 triệu con thương phẩm và 2.500 con đà điều giống các loại).

Vịt TC cha mẹ cho hiệu suất trứng / mái / 50 tuần đẻ đạt 250 – 255 quả ; tỷ suất phôi 93 – 95 % ; vịt nuôi thịt 56 ngày tuổi khối lượng khung hình trung bình đạt 3,6 – 3,8 kg / con ; tiêu tốn thức ăn / kg tăng khối lượng 2,5 – 2,7 kg. Để triển khai xong quy trình tiến độ công nghệ tiên tiến chăn nuôi đà điểu, TT đã tiến hành những đề tài nghiên cứu thích nghi, chọn tạo giống, dinh dưỡng thức ăn, ấp trứng và thú y phòng bệnh … Năm 2008, Bộ NN-PTNT đã có Quyết định số 3205Q Đ / BNN-CN bổ trợ đà điểu BV1, BV2, BV3 và BV4 vào hạng mục giống vật nuôi được phép SXKD.

II. XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC

1. Đào tạo nâng cao năng lượng đội ngũ cán bộ Từ khi xây dựng năm 1989, đội ngũ cán bộ, công nhân viên toàn TT không quá 81 người, trong đó có 25 người có trình độ kỹ sư, trẻ tuổi đời và non tuổi nghề.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, trung tâm đã nhanh chóng xây dựng chương trình đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên bằng nhiều hình thức cả trong và ngoài nước. Đến nay, trong tổng số 247 cán bộ, công nhân viên có 106 cán bộ đại học và trên đại học, 6 tiến sỹ, 37 thạc sỹ và 63 cán bộ đại học. Hiện có 5 nghiên cứu sinh và 10 học viên cao học. Lực lượng cán bộ có trình độ trên đại học chiếm 40,5% cán bộ chuyên môn.

2. Nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị Cơ sở vật chất chuồng trại, trang thiết bị của TT ngày càng được lan rộng ra và tăng cấp. Năm 1989 TT chỉ được giao quản trị và sử dụng 1 cơ sở nghiên cứu, nuôi giữ và SX giống tại Thụy Phương với 9,9 ha. Đến nay, TT đã lan rộng ra thêm lên 6 cơ sở với tổng diện tích quy hoạnh 237 ha từ Bắc vào Nam. Trong đó 5 cơ sở đã được góp vốn đầu tư xây chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi. Một số khu công trình và khuôn khổ khu công trình xây mới, tái tạo được tiến hành lan rộng ra, phân phối nhu yếu nghiên cứu khoa học và chuyển giao TBKT vào SX.

Trung tâm đã được Đảng và Nhà nước trao tặng: Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, 2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 2 Cờ thi đua của Bộ NN-PTNT, 3 Bằng khen của Bộ NN-PTNT.
Với thành tích xuất sắc, tập thể nữ khoa học của Trung tâm đã được Uỷ ban Giải thưởng Kovalevskaia tặng Giải thưởng Kovalevskaia năm 2002.
Ngoài ra, trung tâm còn nhận giải thưởng Nhà nước về KH-CN năm 2005, giải thưởng Sáng tạo KH-CN Việt Nam (giải Ba năm 2006, giải Nhì năm 2010 và giải Nhất năm 2012).