tiểu luận ‘ tại sao phải nghiên cứu kinh tế vi mô’

Ngày đăng: 29/06/2014, 11:16

vật chất và tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng tăng trong khi nguồn lực thì chỉ có hạn. vậy, để tồn tại con người không còn cách nào khác là tiến hành các phương thức phân chia nguồn lực khan hiếm đó nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao. Từ đó, các nhà kinh tế học đã cho hình thành một khái niệm là kinh tế học. Nó là một bộ môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. các nhà kinh tế cho rằng kinh tế học chính là “Khoa học của sự lựa chọn”. Bộ phận của kinh tế học gồm: kinh tế học vi kinh tế học mô. Trong đó kinh tế học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế tổng thể của một quốc gia. vậy, nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế của chính phủ. NỘI DUNG I. Sơ lược về kinh tế học mô: 1. Khái niệm: Kinh tế là bộ môn khoa học nghiên cứu hoạt động nền kinh tế với tư cách là một tổng thể. Đây là một môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề của nền kinh tế tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế của “Một bức tranh lớn”. 2. 1 những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, mức giá chung, cán cân thương mại, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội, các chính sách kinh tế (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập…). Phân tích kinh tế hướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của biến số này? Điều gì quy định những thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Trong kinh tế mô, chúng ta sẽ khảo sát mỗi biến số ứng với mỗi khoảng thời gian khác nhau: Hiện tại, ngắn hạn, và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian lại đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến số kinh tế này. 3. Phương pháp nghiên cứu: Các nhà một cách khách quan. Khi nghiên cứu các nhà kinh tế sử dụng nhiều phương pháp khác nhau: tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, hình hóa kinh tế, hình kinh tế lượng,… Phương pháp nghiên cứu chủ yếu phân thành: – Phương pháp quan sát, lý thuyết và tiếp tục quan sát. – Phương pháp sử dụng các hình. II. Tại sao phải nghiên cứu kinh tế học mô? 1. Nghiên cứu kinh tế với tư cách là một tổng thể: Nền kinh tế nhà nước là một nền kinh tế tổng thể, kinh tế cơ bản như: lạm phát, thất nghiệp, sản lượng bình quân,… theo thời gian. 2 Các nhà kinh tế học thu nhập số liệu, giá cả và nhiều biến số kinh tế khác nhau của một quốc gia theo từng thời kỳ. Sau đó họ tìm cách xây dựng những lý thuyết tổng quát, góp phần giải thích các số liệu này. Các biến số kinh tế là những chỉ tiêu phản ánh rõ nét nền kinh tế của một quốc gia. Để đánh giá một nền kinh tế, các nhà khoa học thường sử dụng các biến số kinh tế chủ yếu sau: – Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. – Chu kỳ kinh tế (kinh doanh): là sự dao động của tổng sản phẩm quốc dân thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng lý thuyết (tiềm năng). – Thất nghiệp: khi những người trong độ tuổi lao động không có việc làm sẽ trở thành thất nghiệp. nạn thất nghiệp thực tế đã trở thành vấn đề nan giải của một quốc gia trong nền kinh tế thị trường. – Lạm phát: là sự tăng giá trung bình của hàng hóa dịch vụ theo thời gian. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả, của toàn bộ hàng hóa cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Đây chính là GNP danh nghĩa trên GNP thực tế. Nhìn chung, các biến số kinh tế có mối quan hệ mật thiết vói nhau không tách rời. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là thước đo cơ bản nhất đánh giá thành tựu của một nền kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát, nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng nhằm tìm ra các giải pháp ổn định kinh tế chống lại các chu kỳ kinh tế, thiếu hụt kinh tế về bản chất đó chính là lỗ hổng GNP. Khi một nền kinh tế tăng trưởng, có nghĩa là lực lượng lao động được sử dụng tốt hơn và có hiệu quả 3 hơn. Tuy nhiên, kinh tế tăng trưởng đồng nghĩa với việc lạm phát tăng lên và ngược lại. Trong thời kỳ ngắn hạn, thất nghiêp tỷ lệ nghịch với lạm phát còn trong dài hạn tỷ lệ thất nghiệp cơ bản phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong một thời gian dài. Các biến số kinh tế giải thích các vấn đề kinh tế cơ bản có liên quan đến nhau. Khi một vấn đề kinh tế xảy ra chúng sẽ kéo theo các vấn đề kinh tế khác. Đứng trên vị trí nghiên cứu với tư cách là một tổng thể kinh tế. dụ: … 2. Các biến số kinh tế và ảnh hưởng của chúng: 2.1. Biến số kinh tế và đời sống xã hội: Tất cả các biến số kinh tế đều đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta. Như: Khi dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, hội đồng quản trị ở các doanh nghiệp phải đoán xem thu nhập của người tiêu dùng tăng nhanh đến mức nào; Người già sống bằng thu nhập cố định thường băn khoăn về tốc độ tăng giá; Những công nhân thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm hi vọng nền kinh tế phục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm người… Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thực trạng của nền kinh tế. Để đánh giá được tầm quan trọng của kinh tế trong nền kinh tế, chúng ta chỉ cần thường xuyên theo dõi thông tin trên báo chí, các phương tiện truyền thông,… với các mục đề như: Quỹ thu nhập cá nhân tăng 4%, ngân hàng và biến động kinh tế mô, giá vàng bất ngờ tăng mạnh,… hầu như không ngày nào là xuất hiện trên báo chí. Biến số kinh tế đánh giá được cuộc sống của người dân qua từng thời kỳ. Các số liệu thống kê các chỉ số kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, các doanh nghiệp các nhà kinh doanh,… dụ: 4 Trong lạm phát, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân và doanh nghiệp nhỏ và vừa, do công nghệ lạc hậu, năng lực tài chính hạn chế. Do vậy, doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản xuất, tập trung vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mình có lợi thế cạnh tranh, thâm dụng lao động (lạm phát tăng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ diễn ra, cần sử dụng lực lượng lao động giá rẻ, có tay nghề để giải quyết bài toán an sinh). Để cân bằng cán cân tiền – hàng, giải quyết lạm phát phải có lộ trình cụ thể. Song, cũng phải chấp nhận lạm phát, nhưng ở mức chịu đựng được của nền kinh tế để kích thích sản xuất phát triển. 2.2. Biến số kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của chính phủ: Các chính sách kinh tế là biến số kinh tế chịu sự chi phối trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ. Thay đổi các chính sách này sẽ có tác động đến một hay nhiều mục tiêu kinh tế của nhà nước. Đó là các mục tiêu sau: • Mục tiêu sản lượng. • Mục tiêu công ăn việc làm. • Mục tiêu ổn định giá cả. • Mục tiêu kinh tế đối ngoại. • Mục tiêu phân phối công bằng Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, nhà nước có thể sử dụng nhiều chính sách khác nhau. Dưới đây là một số chính sách kinh tế chủ yếu: • Chính sách tài khóa. • Chính sách tiền tệ. • Chính sách thu nhập. • Chính sách kinh tế đối ngoại. 5 Các chính sách của chính phủ thông qua các kế hoạch đầu tư phát triển, các nghị quyết của chính phủ,… những chính sách đó là công cụ để Nhà nước quản lý và phát triển nền kinh tế. dụ: Ngày 24/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế mô, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, sẽ mạnh tay thắt chặt đầu tư công, không rót vốn đầu tư đối với dự án mới chưa bức thiết. Biến số kinh tế cũng phản ánh rõ nét và trung thực nhất về hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước được triển khai qua từng thời kỳ (năm). Những chính sách kinh tế của nhà nước có hiệu quả hay không đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân với những bất ổn trong nền kinh tế hiện nay như: lạm phát tăng nhanh, chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) tăng cao, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đồng tiền mất giá,… đã khiến cuộc sống của người dân trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với những người thu nhập thấp, những người sống dựa chủ yếu vào trợ cấp của chính phủ ( người già neo đơn, người tàn tật,…). Sự yếu kém của nhà nước trong các chính sách kinh tế không chỉ làm hao tổn nguồn lực quốc gia rất lớn mà còn làm suy giảm niềm tin của người dân đối với các môi trường chính sách vào năng lực quản trị mô. dụ: Chỉ số CPI và GDP của Việt Nam qua 3 giai đoạn phát triển kinh tế ( Đơn vị: %) CPI GDP 1996 – 2000 3,4 6,96 2001 – 2005 5,1 7,51 2006 – 2010 11,4 7,2 6 Như vậy, trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút rất mạnh. Năm 2010, kinh tế việt nam có sự phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II 6,4%, quý III tăng lên 7,14%, quý IV là 7,41%. Đến năm 2010, tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 41% GDP thì tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,7%, chỉ số ICOR đã tăng tới mức quá cao trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Khi kinh tế thế giới bị suy trầm thì đà sa sút của Việt Nam lại không quá nặng kinh tế vẫn tăng trưởng hơn 5% vào năm 2009, là năm mà lợi tức bình quân một đầu người đã vượt cái ngưỡng tâm lý là 1.000 Mỹ kim một năm. Tuy nhiên, nguồn đầu tư quá lớn trong khi hiệu quả đầu tư không cao; sự yếu kém trong môi tường đầu tư; nhập siêu quá lớn trong khi xuất khẩu không tăng, nhập khẩu thì vẫn quá nhiều để duy trì nhịp độ sản xuất khiến giữ trữ ngoại tệ trong nước bị bào mỏng – chỉ còn 14 tỷ đô la giữ trữ. Đó là bất trắc về cơ cấu kinh tế mô, thứ nhất là sự thiếu quân bình, thứ hai là khả năng đối phó quá yếu của chính quyền. vậy, sự quản lý của nhà nước thông qua các chính sách đã tác động trực tiếp lên các hoạt động kinh tế và đời sống của người dân. Nền kinh tế phát triển đi lên hay đi xuống đều do sự quản lý của nhà nước và hiệu quả của các chính sách kinh tế mang lại. 3. kinh tế học là một bộ môn khoa học chưa hoàn thiện: 7 Kinh tế học là một ngành khoa học non trẻ và chưa hoàn chỉnh. Khả năng dự báo của các kinh tế về đường hướng phát triển tương lai của các sự kiện kinh tế chưa thể nắm vững hoàn toàn. Song, như các bạn sẽ thấy, chúng ta biết khá nhiều về phương thức hoạt động của nền kinh tế. Mục tiêu của chúng ta trong việc nghiên cứu kinh tế không phải chỉ dừng lại ở phạm vi lí giải các biến cố kinh tế, mà còn nhằm cải thiện chất lượng của chính sách kinh tế. Các công cụ tài chính và tiền tệ của chính phủ có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế – bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực – và khoa kinh tế giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá những chính sách khác nhau. Nhà kinh tế phải nghiên cứu nền kinh tế như nó đang tồn tại và suy ngẫm xem chúng ta nên làm gì để cải thiện nó. KẾT LUẬN Qua bài tiểu luận trên, có thể nói rằng kinh tế học tác động rất lớn đến cuộc sống của chúng ta. Nghiên cứu kinh tế học mô, xây dựng các chính sách phát triển kinh tế hoàn thiện đưa nền kinh tế phát triển bền vững là mục tiêu của các quốc gia hiện nay. Mặc dù bộ môn khoa học kinh tế học còn non trẻ và chưa hoàn thiện. Nghiên cứu kinh tế học là công việc vô cùng quan trọng, cần thiết để hoàn chỉnh bộ môn và nắm vững hơn các phương thức hoạt động kinh tế. 8 . nghiên cứu kinh tế học vĩ mô? 1. Nghiên cứu kinh tế vĩ mô với tư cách là một tổng thể: Nền kinh tế nhà nước là một nền kinh tế tổng thể, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các vấn đề kinh tế cơ bản. các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. các nhà kinh tế cho rằng kinh tế học chính là “Khoa học của sự lựa chọn”. Bộ phận của kinh tế học gồm: kinh tế học vi mô và kinh tế học. tâm đến vi c nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề của nền kinh tế tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế của “Một bức tranh lớn”. 2. Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu những cái gì? 1 Kinh tế học

ĐẶT VẤN ĐỀ Trong đời sống hằng ngày, con người cần đáp ứng đầy đủ các nhu cầuvật chất và tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng tăng trong khi nguồnlực thì chỉ có hạn.vậy, để tồncon người không còn cách nào khác làtiến hành các phương thức phân chia nguồn lực khan hiếm đó nhằm đáp ứngnhu cầu sử dụng ngày càng cao. Từ đó, các nhàhọc đã cho hình thành một khái niệm làhọc. Nó là một bộ môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vậnhành nềnnói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gianói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nềnhaycác đơnlựa chọn. các nhàcho rằnghọc chínhlà “Khoa học của sự lựa chọn”. Bộ phận củahọc gồm:họcvàhọcmô.Trong đóhọcđóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nềntổng thể của một quốc gia.vậy, nghiên cứu kinh tế học lànhiệm vụ hàng đầu để thực hiện các chiến lược, chính sách phát triểncủa chính phủ. NỘI DUNG I. Sơ lược vềhọcmô: 1. Khái niệm:là bộ môn khoa họchoạt động nềnvới tưcách là một tổng thể. Đây là một môn khoa học quan tâm đến việccứu, phân tích vàlựa chọn các vấn đề của nềntổng hợp của toàn bộ nềncủa“Một bức tranh lớn”. 2. Kinh tế học nghiên cứu những cái gì? Kinh tế học nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trướcnhững vấn đềxã hội cơ bản như: Tăng trưởngtế, lạm phát, thấtnghiệp, mức giá chung, cán cân thương mại, sự phân phối nguồn lực vàphân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội, các chính sách(chính sáchkhóa, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập…). Phân tíchhướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gìquyết định giá trị hiệncủa biến số này? Điều gì quy định những thay đổicủa các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Trongmô, chúngta sẽ khảo sát mỗi biến số ứng với mỗi khoảng thời gian khác nhau: Hiện tại,ngắn hạn, và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian lại đòi hỏi chúng tasử dụngcáchình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến sốnày.3. Phương phápcứu:Các nhà kinh tế học nghiên cứu kinh tế học vĩmột cách kháchquan. Khicác nhàsử dụng nhiều phương pháp khácnhau: tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn,hình hóatế,hìnhlượng,… Phương phápchủ yếu phân thành: – Phương pháp quan sát, lý thuyết và tiếp tục quan sát. – Phương pháp sử dụng cáchình. II.họcmô? 1.với tư cách là một tổng thể: Nềnnhà nước là một nềntổng thể, kinh tế học nghiên cứu các vấn đềcơ bản như: lạm phát, thất nghiệp, sản lượngbình quân,… theo thời gian. 2 Các nhàhọcthu nhập số liệu, giá cả và nhiều biến sốkhác nhau của một quốc gia theo từng thời kỳ. Sau đó họ tìm cách xâydựng những lý thuyết tổng quát, góp phần giải thích các số liệu này. Các biến sốlà những chỉphản ánh rõ nét nềncủa một quốc gia. Để đánh giá một nềntế, các nhà khoa học thường sửdụng các biến sốchủ yếu sau: – Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là một chỉđo lường tổng giátrị bằng tiền của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốcgia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếutố sản xuất của mình.- Chu kỳ(kinh doanh): là sự dao động của tổng sản phẩm quốcdân thựcxung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng lý thuyết(tiềm năng).- Thất nghiệp: khi những người trong độ tuổi lao động không có việclàm sẽ trở thành thất nghiệp. nạn thất nghiệp thựcđã trở thành vấnđề nan giải của một quốc gia trong nềnthị trường.- Lạm phát: là sự tăng giá trung bình của hàng hóa dịch vụ theo thờigian. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả, của toànbộ hàng hóa cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Đây chính là GNPdanh nghĩa trên GNP thực tế. Nhìn chung, các biến sốcó mối quan hệ mật thiết vói nhaukhông tách rời. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là thước đo cơ bản nhấtđánh giá thành tựu của một nềntế. Liên quan đến chu kỳlà sựđình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát,sự thiếu hụt sản lượngnhằm tìm ra các giải pháp ổn địnhchống lại các chu kỳtế, thiếuhụtvề bản chất đó chính là lỗ hổng GNP. Khi một nềntăngtrưởng, có nghĩa là lực lượng lao động được sử dụng tốt hơn và có hiệu quả3 hơn. Tuy nhiên,tăng trưởng đồng nghĩa với việc lạm phát tăng lên vàngược lại. Trong thời kỳ ngắn hạn, thất nghiêp tỷ lệ nghịch với lạm phát còntrong dài hạn tỷ lệ thất nghiệp cơ bản phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong mộtthời gian dài. Các biến sốgiải thích các vấn đềcơ bản có liênquan đến nhau. Khi một vấn đềxảy ra chúng sẽ kéo theo các vấn đềkhác. Đứng trêntrívới tư cách là một tổng thểtế.dụ: … 2. Các biến sốvà ảnh hưởng của chúng: 2.1. Biến sốvà đời sống xã hội: Tất cả các biến sốđều đụng chạm đến cuộc sống củachúng ta. Như: Khi dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, hội đồng quảntrị ở các doanh nghiệpđoán xem thu nhập của ngườidùng tăngnhanh đến mức nào; Người già sống bằng thu nhập cố định thường bănkhoăn về tốc độ tăng giá; Những công nhân thất nghiệp đang tìm kiếm việclàm hi vọng nềnphục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm người…Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thực trạng của nềntế. Để đánh giá được tầm quan trọng củatrong nềntế,chúng ta chỉ cần thường xuyên theo dõi thông tin trên báo chí, các phươngtiện truyền thông,… với các mục đề như: Quỹ thu nhập cá nhân tăng 4%,ngân hàng và biến độngmô, giá vàng bất ngờ tăng mạnh,… hầunhư không ngày nào là xuất hiện trên báo chí.Biến sốđánh giá được cuộc sống của người dân qua từngthời kỳ. Các số liệu thống kê các chỉ sốảnh hưởng trực tiếp đếnngười dân, các doanh nghiệp các nhàdoanh,…dụ:4 Trong lạm phát, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân vàdoanh nghiệp nhỏ và vừa, do công nghệ lạc hậu, năng lựcchính hạn chế.Do vậy, doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản xuất, tập trung vào những lĩnh vựcsản xuấtdoanh mình có lợi thế cạnh tranh, thâm dụng lao động (lạmphát tăng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ diễn ra, cần sử dụng lực lượng lao động giá rẻ,có tay nghề để giải quyết bài toán an sinh). Để cân bằng cán cân tiền – hàng,giải quyết lạm phátcó lộ trình cụ thể. Song, cũngchấp nhận lạmphát, nhưng ở mức chịu đựng được của nềnđể kích thích sản xuấtphát triển. 2.2. Biến sốvà chính sách phát triểncủa chính phủ: Các chính sáchlà biến sốchịu sự chi phốitrực tiếp hay gián tiếp của chính phủ. Thay đổi các chính sách này sẽ có tácđộng đến một hay nhiều mụccủa nhà nước. Đó là các mụcsau: • Mụcsản lượng. • Mụccông ăn việc làm. • Mụcổn định giá cả. • Mụcđối ngoại. • Mụcphân phối công bằng Để thực hiện được các mụcnêu trên, nhà nước có thể sử dụngnhiều chính sách khác nhau. Dưới đây là một số chính sáchchủ yếu: • Chính sáchkhóa. • Chính sách tiền tệ. • Chính sách thu nhập. • Chính sáchđối ngoại. 5 Các chính sách của chính phủ thông qua các kế hoạch đầu tư phát triển,các nghị quyết của chính phủ,… những chính sách đó là công cụ để Nhànước quản lý và phát triển nềntế.dụ:Ngày 24/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP để kiềmchế lạm phát, ổn địnhmô, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, sẽmạnh tay thắt chặt đầu tư công, không rót vốn đầu tư đối với dự án mớichưa bức thiết. Biến sốcũng phản ánh rõ nét và trung thực nhất về hiệuquả các chính sách phát triểncủa nhà nước được triển khai qua từngthời kỳ (năm). Những chính sáchcủa nhà nước có hiệu quả haykhông đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân với những bất ổntrong nềnhiện nay như: lạm phát tăng nhanh, chỉ số giádùng( CPI) tăng cao, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đồng tiền mất giá,… đã khiếncuộc sống của người dân trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với những ngườithu nhập thấp, những người sống dựa chủ yếu vào trợ cấp của chính phủ( người già neo đơn, người tàn tật,…). Sự yếu kém của nhà nước trong cácchính sáchkhông chỉ làm hao tổn nguồn lực quốc gia rất lớn mà cònlàm suy giảm niềm tin của người dân đối với các môi trường chính sách vàonăng lực quản trịmô.dụ: Chỉ số CPI và GDP của Việt Nam qua 3 giai đoạn phát triển( Đơn vị: %) CPI GDP 1996 – 2000 3,4 6,96 2001 – 2005 5,1 7,51 2006 – 2010 11,4 7,2 6 Như vậy, trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tănggần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việcphân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu vàđầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập thựcvà mức sốngthực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút rất mạnh. Năm 2010,việt nam có sự phục hồi nhanh chóng sau khủnghoảngtoàn cầu. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II 6,4%, quýIII tăng lên 7,14%, quý IV là 7,41%. Đến năm 2010, tổng mức đầu tư toànxã hội lên tới 41% GDP thì tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,7%, chỉ số ICOR đãtăng tới mức quá cao trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Khithế giới bịsuy trầm thì đà sa sút của Việt Nam lại không quá nặngvẫn tăngtrưởng hơn 5% vào năm 2009, là năm mà lợi tức bình quân một đầu ngườiđã vượt cái ngưỡng tâm lý là 1.000 Mỹ kim một năm. Tuy nhiên, nguồn đầutư quá lớn trong khi hiệu quả đầu tư không cao; sự yếu kém trong môi tườngđầu tư; nhập siêu quá lớn trong khi xuất khẩu không tăng, nhập khẩu thì vẫnquá nhiều để duy trì nhịp độ sản xuất khiến giữ trữ ngoạitrong nước bịbào mỏng – chỉ còn 14 tỷ đô la giữ trữ. Đó là bất trắc về cơ cấumô, thứ nhất là sự thiếu quân bình, thứ hai là khả năng đối phó quá yếu củachính quyền.vậy, sự quản lý của nhà nước thông qua các chính sáchđã tácđộng trực tiếp lên các hoạt độngvà đời sống của người dân. Nềnphát triển đi lên hay đi xuống đều do sự quản lý của nhà nước vàhiệu quả của các chính sáchmang lại. 3.họclà một bộ môn khoa học chưa hoàn thiện:họclà một ngành khoa học non trẻ và chưa hoàn chỉnh.Khả năng dự báo của cácvề đường hướng phát triển tương laicủa các sự kiệnchưa thể nắm vững hoàn toàn. Song, như các bạn sẽthấy, chúng ta biết khá nhiều về phương thức hoạt động của nềntế. Mụccủa chúng ta trong việckhôngchỉ dừng lại ở phạmlí giải các biến cốtế, mà còn nhằm cải thiện chấtlượng của chính sáchtế. Các công cụchính và tiềncủa chính phủcó thể tác động mạnh mẽ đến nền- bao gồm cả mặt tích cực vàcực – và khoagiúp cho các nhà hoạch định chính sách đánhgiá những chính sách khác nhau. Nhànềnnhư nó đang tồnvà suy ngẫm xem chúng ta nên làm gì để cảithiện nó. KẾTQua bàitrên, có thể nói rằnghọctác động rất lớnđến cuộc sống của chúng ta.họcmô, xây dựng các chính sách phát triểnhoàn thiện đưa nềnphát triển bền vững là mụccủa các quốcgia hiện nay.Mặc dù bộ môn khoa họchọccòn non trẻ và chưa hoànthiện.họclà công việc vô cùng quan trọng, cầnthiết để hoàn chỉnh bộ môn và nắm vững hơn các phương thức hoạt độngtế. 8. nghiên cứu kinh tế học vĩ mô? 1. Nghiên cứu kinh tế vĩ mô với tư cách là một tổng thể: Nền kinh tế nhà nước là một nền kinh tế tổng thể, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các vấn đề kinh tế cơ bản. các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. các nhà kinh tế cho rằng kinh tế học chính là “Khoa học của sự lựa chọn”. Bộ phận của kinh tế học gồm: kinh tế học vi mô và kinh tế học. tâm đến vi c nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề của nền kinh tế tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế của “Một bức tranh lớn”. 2. Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu những cái gì? 1 Kinh tế học