Kinh tế Việt Nam năm 2008 nhìn từ CPI và GDP

Lạm phát đã từng trở thành tâm điểm của điều hành chính sách
vĩ mô khi giá cả các mặt hàng lên tới mức đỉnh điểm.

Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi
vào suy thoái.

GDP đã không hề về đích

Lạm phát đã từng trở thành tâm điểm của điều hành chính sách vĩ mô khi giá cả các mặt hàng lên tới mức đỉnh điểm.Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái.

GDP của Việt Nam
đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm
2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,23%, chỉ số lạm phát ở mức
19,9%.

Trước đó, ngày 22/4, Chính phủ tuyên bố điều chỉnh GDP năm 2008 từ mức 8,5% – 9% xuống 7%.

Từ 8 nhóm giải pháp hạn chế lạm phát

Già nửa đầu năm 2008, lạm phát là yếu tố số 1 của chủ trương kinh tế tài chính. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng liên tục leo thang từ tháng 2, đạt đỉnh điểm vào tháng 5 ( tăng 3,19 % ) .

Số liệu: Tổng cục thống kê

Biểu đồ tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 ( % )

Hội tụ đầy đủ các nguyên nhân từ lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí
đẩy và dư thừa tiền tệ. Chính phủ đã phải ra các biện pháp khắc phục cho từng
nguyên nhân.

Lạm phát chi phí đẩy và nhập khẩu lạm phát, thời kỳ này đồng
USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối.

Giá dầu thô tháng từ mức
89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến 147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng
khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu sợ giá có thể tăng lên tiếp.

Nhập siêu trở thành vấn đề nghiêm trọng. Nhập
siêu của 5 tháng/2008 đã trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả
năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu).

Mức tăng của CPI vào tháng 5 cũng đạt mức đỉnh điểm của năm.

Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày
27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu.

Số liệu : Tổng cục hải quan

Lạm phát do cầu kéo

Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ
đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt
21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006.

Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt
khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng,
bằng 5% GDP.

Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng
kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006.

Đà tăng trưởng đó khiến lượng tiền đồng
trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, gia tăng
áp lực lạm phát.

Lạm phát do thừa tiền, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán
và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006.

Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7%
so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so
với năm 2006.

Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là
do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên
tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP.

Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ
ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng
lớn nội tệ ra thị trường.

Chính phủ đã thực hiện cắt giảm đầu tư công, hạn chế tín
dụng bằng việc buộc NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, khống chế  dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế năm 2008
xuống 30%.

8 nhóm giải pháp hạn chế lạm phát (ngày 7/5/2008)

1. Thắt chặt tiền tệ;

2. Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết;

3. Đẩy mạnh sản xuất;

4. Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu;

5. Triệt để tiết kiệm trong sản
xuất và tiêu dùng;

6. Quản lý thị trường, chống đầu cơ;

7. Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội;

8. Ổn định tình hình kinh tế xã hội.

Đến chỉ số giá tiêu dùng tăng trưởng âm, xuất khẩu sụt giảm và gói kích cầu 6 tỷ USD


Xuất khẩu và nhập khẩu liên tục sụt giảm từ tháng 7/2008
( Số liệu Tổng cục hải quan )

Trong vòng bảy tháng, sau khi ban hành tám nhóm giải pháp
kiềm chế lạm phát, giúp hạ nhiệt nền kinh tế vào 17/4/2008. Ngày 11/12/2008, Chính
phủ ban hành 9 chính sách thuế nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế.

Như giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giãn thời gian nộp thuê thu nhập doanh nghiệp, tạm hoàn 90% thuế GTGT đầu vào dù chưa có chứng từ thanh toán, tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu.

Trong vòng bảy tháng, sau khi phát hành tám nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, giúp hạ nhiệt nền kinh tế tài chính vào 17/4/2008. Ngày 11/12/2008, nhà nước phát hành 9 chủ trương thuế nhằm mục đích ngăn ngừa suy giảm kinh tế tài chính. Như giảm 30 % thuế thu nhập doanh nghiệp cho những doanh nghiệp nhỏ và vừa, giãn thời hạn nộp thuê thu nhập doanh nghiệp, tạm hoàn 90 % thuế GTGT nguồn vào dù chưa có chứng từ giao dịch thanh toán, tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu 1 số ít loại sản phẩm nhằm mục đích không thay đổi nguồn vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu .

Trước đó, ngân hàng nhà nước đã liên tục có các động thái
giảm lãi suất cơ bản kéo trần lãi suất cho vay xuống, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn
để sản xuất kinh doanh.

Đến ngày 22/12, lãi suất cơ bản hạ xuống còn 8,5% về gần bằng mức đầu năm là 8,25%, sau khi lên cao nhất ở mức 14% năm.

Đồng thời hạ tỷ suất dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất vay cho vay tái chiết khấu, tăng lãi suất vay tiền gửi dự trữ bắt buộc, … để tương hỗ vốn cho ngân hàng nhà nước .

Số liệu: Ngân hàng Nhà nước

Dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD

Các nước lần lượt công bố các gói kích cầu hỗ trợ nền kinh tế

.

Mỹ 3/10/2008 thông qua kế hoạch gói 700 tỷ USD để cứu ngành
ngân hàng. Châu Âu kế hoạch 267 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế (ngày
12/12/2008).
Các nước lần lượt công bố những gói kích thích tương hỗ nền kinh tếMỹ 3/10/2008 trải qua kế hoạch gói 700 tỷ USD để cứu ngành ngân hàng nhà nước. Châu Âu kế hoạch 267 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế tài chính ( ngày 12/12/2008 ) .

Trung Quốc, kế hoạch 586 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh
tế.

Không nằm ngoài dòng chảy kinh tế thế giới, ngày 24/12/2008, trong buổi họp báo của Văn phòng Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ đề ra là
“ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng 6,5%, giải quyết tốt các vấn
đề an sinh xã hội”.

nhà nước dự tính tiến hành gói kích thích 6 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD dùng để tương hỗ lãi suất vay cho vay của những ngân hàng nhà nước với mức 4 % .

Còn lạilà chính sách dùng để hoãn, giảm thuế cho doanh nghiệp.

Sự kiện và các con số năm 2008

1. CPI cả
nước tăng  19,9% so với tháng 12/2007. Chỉ
số giá trung bình tăng 22,97% so với năm 2007. kiềm chế.

GDP cả năm đạt 6,23% chưa đạt kế
hoạch đề ra.

2. Giá trị xuất khẩu năm 2008 của Việt Nam đạt 62,906 tỷ
USD, tăng gần 30% so với năm 2007. Kim ngach nhập khẩu lên đến 79,91 tỷ USD,
tăng 28% so với năm 2007.

3. FDI thu
hút 64 tỷ USD, gấp 3 lần cùng kỳ 2007. Giải ngân đạt 11,5 tỷ USD,
tăng 43% về giá trị so năm 2007.

4. Giá
xăng, đã từng vọt lên mức 19.000 đồng/lít (ngày) khi giá dầu thế giới leo thang.
Liên bộ tài chính công thương đã từng tuyên bố trích 10.000 tỷ đồng bù lỗ cho DN
nhập khẩu xăng dầu.

5. Đưa nhiều
mỏ dầu vào khai thác: 19/12 Sông Đốc, 21/11 Sư tử vàng (65.000 thùng/ngày), 3/8
mỏ Cá ngừ vàng  (20.000 thùng và 50 triệu bộ khối khí đốt/ngày).

6. Đã có
11 măt hàng XK đạt tỷ 1USD: dầu thô (10,45 tỷ USD), dệt may (9,1 tỷ), thủy sản
(4,56 tỷ), gạo (2,9 tỷ), sản phẩm gỗ (2,78 tỷ), hàng điện tử, vi tính và linh
kiện (2,7 tỷ), cà phê (2,02 tỷ), cao su (1,6 tỷ), than đá (1,44 tỷ), dây cáp
điện (1,01 tỷ).

7. Dự án
FDI lớn nhất được đăng ký năm 2008 thuộc về  tập đoàn Formosa,
7,87 tỷ USD đầu tư tại khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh.  Sản xuất thép và kinh doanh cảng biển.

8. Khởi công giai đoạn 1 dự án FDI lớn
nhất cả nước- dự án Khu liên hợp Thép Cà Ná, công suất 14,42 triệu tấn thép/năm.

9. Ngày  21/11 Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã
tuyên bố kết quả rà soát lần thứ 3 đối với hàng dệt may nhập khẩu từ
Việt Nam. DOC
kết luận rằng không đủ bằng chứng để tiến hành việc điều tra chống bán phá giá.

Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ ( ITC ) thực thi xem xét lại thuế chống bán phá giá so với cá tra, basa từ Việt Nam theo định kỳ 5 năm một lần. Tuy nhiên theo đánh giá và nhận định thì khó có năng lực xóa bỏ thuế CBPG so với cá tra, basa từ Việt Nam .

Sản phẩm lò xo không bọc xuất xứ
Việt Nam
đã bị kết luận bán phá giá tại thị trường Mỹ, và sẽ bị áp thuế chống bán phá
giá từ ngày 4/12.

Cuối tháng 10, Hiệp hội Công nghiệp
giày Brazil – Abicalcado đã nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá đối với
các loại giày Việt Nam xuất khẩu sang Brazil.

10. Thêm nhiều
nhà máy hòa lưới điện quốc gia

Ngày 24/4, nhà máy thủy điện Sê San 3 (tại
Gia Lai – Kon Tum) công suất lắp máy 130
MW, điện lượng 611,23 triệu Kwh/ năm.

Ngày 22/5 tổ máy số 1 nhà máy khí điện Nhơn Trạch 1 (tỉnh Đồng Nai) sẽ
được phát điện ở mức công suất thiết kế là 150
MW, sau 1 tháng sẽ tăng lên 300 MW và 
sau 1 năm sẽ đạt 450 MW.

Ngày 9/10, 2.800MW tổ máy số 1 Nhà máy Điện Ô
Môn I thuộc Trung tâm điện lực Ô Môn đã chính thức vận hành và hòa vào lưới
điện quốc gia.

Ngày 11/10/2008, Công ty cổ phần thủy điện A Vương
chính thức vận hành tổ máy số 1 (Nhà máy thủy điện A Vương) công suất 105
MW.

Ngày 25.11, 280MW Thuỷ điện Buôn Kuốp.

Ngày 15/12, tổ máy số 3, tổ máy cuối cùng của
Nhà máy thủy điện Tuyên Quang đã chính thức phát điện và hòa vào lưới điện quốc
gia. Nâng tổng công suất của cả nhà máy đạt công suất thiết kế là 342 MW.

Ngày 27/12, 1.500 MW điện từ hai nhà máy Cà
mau 1&2 hòa lưới điện quốc gia.

Thanh Thu