BÀI GIẢNG MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KINH TẾ – Tài liệu text

BÀI GIẢNG MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.92 KB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TÊ

BÀI GIẢNG MÔN
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
KINH TẾ
Ts. Lê Đức Niêm
NĂM 2011
i
Chương I:
Chương I 1
KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1
1.1 Một số vấn đề cơ bản 1
1.1.1 Khoa học 1
1.1.2 Nghiên cứu khoa học 3
1.1.3 Phương pháp nghiên cứu khoa học 4
1.2 Quá trình nghiên cứu khoa học: 6
1.2.1 Xác định đề tài nghiên cứu 7
1.2.2 Xây dựng đề cương nghiên cứu 7
1.2.3 Tổ chức công tác nghiên cứu 10
1.2.4 Công bố kết quả nghiên cứu 11
Chương II 11
SUY LUẬN KHOA HỌC 11
2.1. Lý thuyết khoa học 11
2.1.1 Lý thuyết khoa học 11
2.1.2 Thế nào là “khái niệm” 11
2.1.3 Mối quan hệ giữa các khái niệm 12
2.2. Giả thuyết nghiên cứu (hypothesis) và phương pháp suy luận 12
2.2.1 Phán đoán 12
2.2.2 Suy luận 12
2.3. Cấu trúc của phương pháp luận nghiên cứu khoa học 14

2.3.1 Luận đề 14
2.3.2 Luận cứ 14
2.3.3 Luận chứng 14
2.4. Phương pháp khoa học 15
2.4.1Phương pháp khoa học (PPKH) 15
Chương III 16
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ 16
3.1 Tích luỹ tài liệu trong nghiên cứu kinh tế 16
3.1.1 Tích luỹ tài liệu từ nguồn sẵn có trong sách báo 16
3.1.2 Tổ chức điều tra để thu thập số liệu 18
3.1.3 Tổng kết kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến 21
3.2 Xử lý số liệu 21
3.2.1 Đối với số liệu thứ cấp 22
3.2.2 Đối với số liệu sơ cấp 22
3.3 Sử dụng phương pháp thống kê trong mô tả và so sánh 24
3.3.1 Phản ánh và phân tích mức độ của hiện tượng 24
3.3.2 Phản ánh và phân tích tình biến động của hiện tượng 26
3.3.3 Phản ánh và phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng 26
3.3.4 Phương pháp so sánh 28
2.4 Một số ứng dụng của toán học trong nghiên cứu kinh tế 28
2.4.1 Mô hình toán 28
3.4.2 Ứng dụng hàm sản xuất trong nghiên cứu kinh tế 29
3.4.3 Ứng dụng mô hình quy hoạch tuyến tính trong nghiên cứu kinh tế 30
3.4.4 Lý thuyết trò chơi 30
ii
PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC 31
4.1. Sự cần thiết phải thực tập tốt nghiệp và viết luận văn tốt nghiệp đại học 31
4.2. Yêu cầu của một luận văn tốt nghiệp đại học 32
4.3 Nội dung cơ bản của một luận văn tốt nghiệp đại học 33
4.4 Các bước tiến hành một luận văn tốt nghiệp 34

4.4.1 Xác định đề tài nghiên cứu 34
4.4.2 Xây dựng đề cương nghiên cứu 35
iii
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1 Một số vấn đề cơ bản
1.1.1 Khoa học.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về khái niệm khoa học xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau.
• Quan điểm xem khoa học là một hệ thống tri thức:
Theo quan điểm này, “khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và sự vận
động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy”.
1

Hệ thống tri thức này là hệ thống tri thức khoa học, hình thành trong lịch sử và không ngừng phát
triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Khi nói đến tri thức khoa học chúng ta cần phân biệt nó với tri thức kinh nghiệm
– Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ
giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên.
– Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động NCKH, các hoạt
động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học.
Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua
những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa
học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế
học, toán học, sinh học…
2
• Khoa học là một hoạt động xã hội
Với tư cách là một hoạt động xã hội, khoa học hướng vào các mục tiêu sau:
Phát hiện bản chất các sự vật, phát triển nhật thức về thế giới
Dự báo quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng
Sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho các mục tiêu tồn tại và phát triển của con người.

• Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
Triết học xem khoa học là một hình thái ý thức xã hội.
3
Với tư cách này, khoa học cùng tồn tại bên cạnh các
hình thức ý thức xã hội khác. Chính vì vậy, mỗi lần khoa học có hiện mới thường va chạm với các định kiến
xã hội khác. Ví dụ tiêu biểu là mối quan hệ giữa khoa học và chính trị.
a) Quy luật hình thành và phát triển của khoa học.
1
Piere Auger (1961). Vũ Cao Đàm (1999).
2
Vũ Cao Đàm (1999).
3
Rozental M. M. (1975); Vũ Cao Đàm (1999).
1
Khoa học được hình thành do một số nguyên nhân sau:
– Do sự phát kiến ra các tiên đề (một tri thức khoa học mặc nhiên được thừa nhận không cần phải
chứng minh). Ví dụ: Từ tiên đề Ơclit đã hình thành nên hình học phẳng (hình học Ơclit).
– Do sự phân lập các bộ môn khoa học: Từ một bộ môn khoa học đang tồn tại tách ra thành một hoặc
một số bộ môn khoa học mới có đối tượng nghiên cứu hẹp hơn. Ví dụ: Triết học tách ra khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội.Từ toán học hình thành các bộ môn khoa học như số học, đại số học, hình học, lượng
giác bản chất của quá trình này là do sự phát triển của khoa học dẫn đến phân lập đối tượng nghiên cứu và
hình thành nên những bộ môn khoa học mới.
– Do sự tích hợp các khoa học: Do sự phát triển của khoa học, phương pháp luận riêng của một bộ
môn khoa học không đủ giải quyết vấn đề, cần có sự kết hợp giữa các bộ môn khoa học, từ đó hình thành nên
bộ môn khoa học mới: Ví dụ toán-lý, hoá – sinh, toán – kinh tế.
b) Cơ sở để phân biệt một khoa học.
– Có một đối tượng nghiên cứu.
– Có một hệ thống lý thuyết.
– Có hệ thống phương pháp luận.
– Có mục đích ứng dụng.

– Có một lịch sử nghiên cứu.
Ta có thể phân loại khoa học theo các tiêu thức sau:
• Theo phương pháp hình thành:
+ Khoa học tiền nghiệm (được hình thành trên cơ sở tiên đề hay hệ tiên đề: Hình học ).
+ Khoa học hậu nghiệm: Được hình thành trên cơ sở quan sát thực nghiệm: Khoa học xã hội, kỹ thuật
trồng trọt, kỹ thật chăn nuôi.
• Theo đối tượng nghiên cứu của khoa học:
+ Khoa học tự nhiên.
+ Khoa học xã hội.
+ Khoa học kỹ thuật.
+ Khoa học nhân văn.
• Theo cơ cấu kiến trúc:
+ Khoa học cơ bản.
+ Khoa học cơ sở.
+ Khoa học chuyên môn.
2
1.1.2 Nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học là quá trình hoạt động nhằm hình thành các hiểu biết khoa học để nhận thức và biến
đổi thế giới khách quan.
4
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm nhằm phát hiện bản chất
sự vật hay nhận thức về thế giới. Cái đạt được từ các NCKH là cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự
nhiên và xã hội hay việc sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn.
Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lãnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn
luyện cách làm việc khoa học, có phương pháp ngay ở trường học.
a. Mục đích của nghiên cứu khoa học.
– Nhận thức thế giới khách quan:
+ Phát hiện các thuộc tính, bản chất của sự vật, hiên tượng, các mối quan hệ.
+ Phát hiện quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Cải tạo và biến đổi thế giới khách quan:

+ Khám phá ra con đường, cách thức vận dụng các tri thức khoa học vào thực tiễn sản xuất và đời
sống.
Chú ý mối quan hệ giữa nhận thức và cải tạo thế giới khách quan:
+ Nếu không nhận thức đúng thì không thể có hành động đúng.
+ Nếu chỉ dừng ở nhận thức mà không hành động thì kết quả của nghiên cứu khoa học rất hạn chế,
thiếu tác dụng thiết thực.
+ Có một sự khác biệt lớn giữa các quan điểm cải tạo thế giới khách quan trước đây và hiện tại: ví dụ
như khái niệm phát triển bền vững.
b. Chức năng của khoa học.
– Quan sát: là xem xét một cách tỉ mỉ và cặn kẽ về sự vật hay hiện tượng. Quan sát là khâu đầu tiên
giúp ta thu thập được các sự kiện, từ đó hình thành nên nhận thức.
– Mô tả: là trình bày rõ về hiện tượng.Nó giúp cho nhận dạng sự vật, hiện tượng. Mô tả có hai mặt:
mô tả định tính (chỉ rõ đặc trưng về chất) và mô tả định lượng (chỉ rõ đặc trưng về lượng).Ví Dụ: mô tả về sự
quay của trái đất, tình hình cơ bản của một địa phương.
– Giải thích: là làm rõ nguồn gốc, các mối quan hệ, qui luật chi phối quá trình vận động và phát
triển.giải thích cho nhận thức đi từ nhận thức hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong của sự vật, hiện
tượng.
– Sáng tạo: là đưa ra những cái mới chưa từng có.Đó chính là những đề xuất về giải pháp để cải tạo,
biến đổi thế giới khách quan phục vụ thực tiễn sản xuất và đời sống.
4
Tô Dũng Tiến (2005).
3
– Tiên đoán: là nhìn thấy trước sự hình thành,vận động, phát triển, tiêu vong của sự vật hiện tương.
c. Phân loại nghiên cứu khoa học.
Có nhiều tiêu thức phân loại khoa học nhưng về đại thể có thể chia thành ba loại sau đây:
– Nghiên cứu cơ bản: là những nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái của sự vật,
tương tác của sự vật cũng như mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác.
Nghiên cứu cơ bản nhằm trước hết phát triển khoa học và làm cơ sở cho các nghiên cứu khoa học
khác.
– Nghiên cứu ứng dụng: là vận dụng qui luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để đề ra những

nguyên lý và giải pháp trong điều kiện ứng dụng cụ thể.Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu ứng dụng thì chưa
ứng dụng được.Để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn còn phải tiến hành nghiên cứu triển
khai.
– Nghiên cứu triển khai: là vận dụng các qui luật từ kết quả nghiên cứu ứng dụng và các nguyên lý
thu được từ nghiên cứu triển khai để xây dựng mô hình trong thực tiễn.

Đối với nghiên cứu triển khai, cần chú ý:
+ Các nguyên lý và các giải pháp của nghiên cứu triển khai vừa phải đảm bảo tính khoa học, nhưng
phải khả thi (khả thi về kỹ thuật và tài chính).
+ Các nguyên lý và các giải pháp của nghiên cứu triển khai vừa phải đảm bảo sự phát triển trước mắt
nhưng phải ổn định và bền vững về lâu dài. Muốn vậy cần phải kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với xã hội và
môi trường.
1.1.3 Phương pháp nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là tập hợp tất cả những biện pháp, cách thức để nhận thức hiện
tượng và sự vật.
5
Cơ sở để xây dựng lên các phương pháp nghiên cứu khoa học gọi là phương pháp luận nghiên cứu
khoa học. Đó là học thuyết về các phương pháp nghiên cứu khoa học, là cơ sở lý luận để xây dựng phương
pháp, hình thành các giải pháp trong tất cả các giai đoạn của hoạt động nghiên cứu khoa học.
Cơ sở của phương pháp luận nghiên cứu khoa học là triết học Mác Lênin, bao gồm Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà một số quan điểm cơ bản có liên quan tới nghiên cứu khoa học là:
– Xem xét sự vật không phải trong trạng thái tĩnh mà trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển
không ngừng.
– Xem xét sự vật không phải trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
– Coi sự phát triển của hiện tượng là sự thay đổi dần dần từ số lượng sang sự thay đổi về chất lượng.
– Coi sự phát triển của hiện tượng là sự thống nhất và đấu trnh giữa các mặt đối lập.
5
Tô Dũng Tiến (2005).
4
– Coi thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức.

a- Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu khoa học được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo yêu cầu nghiên
cứu. Xét một cách khái quát, phương pháp nghiên cứu khoa học được chia làm ba loại sau đây:
– Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Là phương pháp nghiên cứu khoa học thuần tuý dựa trên cơ
sở tính toán,suy luận và phán đoán mà không qua bất kỳ một thực nghiệm khoa học nào.
Ví dụ việc tính toán để phát hiện các hành tinh xa xôi của hệ mặt trời trước khi quan sát thấy hay việc
phát hiện ra phản hạt (của Paul Dirắc) trước khi phát hiện thấy qua thực nghiệm trên máy gia tốc.
Điều thú vị nhất đó là từ trong trí tưởng tượng, phản vật chất trở thành hiện thực, và mang tính
thuyết phục. Năm 1928, nhà vật lý người Anh Paul Dirac đã đặt ra một vấn đề: làm sao để kết hợp các định
luật trong thuyết lượng tử vào trong thuyết tương đối đặc biệt của Albert Einstein. Thông qua các bước tính
toán phức tạp, Dirac đã vạch định ra hướng để tổng quát hóa hai thuyết hoàn toàn riêng rẽ này. Ông đã giải
thích việc làm sao mọi vật càng nhỏ thì vận tốc càng lớn; trong trường hợp đó, các electron có vận tốc gần
bằng vận tốc ánh sáng. Đó là một thành công đáng kể, nhưng Dirac không chỉ dừng lại ở đó, ông nhận ra
rằng các bước tính toán của ông vẫn hợp lệ nếu electron vừa có thể có điện tích âm, vừa có thể có điện tích
dương – đây là một kết quả ngoài tầm mong đợi.
Dirac biện luận rằng, kết quả khác thường này chỉ ra sự tồn tại của một “đối hạt”, hay “phản hạt” của
electron, chúng hình thành nên một “cặp ma quỷ”. Trên thực tế, ông quả quyết rằng mọi hạt đều có “đối hạt”
của nó, cùng với những tính chất tương đồng, duy chỉ có sự đối lập về mặt điện tích. Và giống như proton,
neutron và electron hình thành nên các nguyên tử và vật chất, các phản proton, phản neutron, phản electron
(còn được gọi là positron) hình thành nên phản nguyên tử và phản vật chất. Nghiên cứu của ông dẫn đến
một suy đoán rằng có thể tồn tại một vũ trụ “ảo” tạo bởi các phản vật chất này.
Và dự đoán của ông đã được kiểm chứng trong thí nghiệm của Carl Anderson vào năm 1932, cả hai ông đều
được giải Nobel cho thành tựu ấy.
– Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên những thực nghiệm, theo
những mô hình, trong đó các yếu tố được theo dõi là khống chế.Ví dụ nghiên cứu kỹ thuật trồng trọt, kỹ
thuật chăn nuôi. Trong kinh tế cũng áp dụng phương pháp nghiêm cứu thực nghiêm tuy ít. Ví dụ bố trí về
thực nghiệm dây truyền sản xuất, xây dựng mô hình quỹ tín dụng nhân dân. Đây là phương pháp nghiên cứu
khoa học trên cơ sở tổ chức các thực nghiêm khoa học (như trên đã trình bày). Để áp dụng phương pháp này
phải tiến hành:
– Tổ chức thực nghiệm theo nhiệm vụ đã đặt ra

– Tiến hành thu thập tài liệu về số lượng và chất lượng qua các thực nghiệm.
– Xử lý thông tin thu thập được.
5
– Tiến hành phân tích và rút ra các kết luận khoa học.
-Áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Phương pháp thực nghiệm có tác dụng là rút ra được các kết luận có độ chính xác cao. Tuy nhiên
trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, phương pháp này áp dụng có những hạn chế nhất định do tất cả các yếu tố
đều thay đổi nên rất khó cố định các yếu tố không cần nghiên cứu trong thực nghiệm.
– Phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm: Ngoài hai phương pháp trên, trong nghiên cứu khoa học,
người ta còn áp dụng phương pháp điều tra, khảo sát, mô tả. Đó là phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm.
Trong nghiên cứu kinh tế thường áp dụng phương pháp phi thực nghiệm.
Trên cơ sở phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung đó, mỗi một khoa học lại có những phương
pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đặc điểm riêng của bộ môn khoa học đó.
Đối với khoa học kinh tế, có nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trong đó có các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
1.2 Quá trình nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu khoa học là 1 quá trình phức tạp, nó bao gôm nhiều giai đoạn với nhiều công việc cụ thể
khác nhau. Quá trình nghiên cứu khoa học bao gồm các bước:
6
Bước 1: Lựa chọn vấn đề nghiên cứu
Bước 2: Miêu tả vấn đề, làm rõ và nổi bật
câu hỏi nghiên cứu
Bước 3: Thiết kế hay lập kế hoạch nghiên
cứu
Bước 4: Đo lường, thu thập dữ liệu
Bước 5: Phân tích số liệu
Bước 6: Giải thích làm sáng tỏ số liệu
Bước 7: Viết báo cáo kết quả, các kiến
nghị, thông tin cho người khác
Các giai đoạn cụ thể gốm:

1.2.1 Xác định đề tài nghiên cứu.
Đề tài là một hình thức tổ chức NCKH do một người hoặc một nhóm người thực hiện. Một số hình
thức tổ chức nghiên cứu khác không hoàn toàn mang tính chất nghiên cứu khoa học, chẳng hạn như: Chương
trình, dự án, đề án. Sự khác biệt giữa các hình thức NCKH nầy như sau:
• Đề tài (topic): được thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật, có thể chưa để ý đến việc
ứng dụng trong hoạt động thực tế.
• Dự án (project): được thực hiện nhằm vào mục đích ứng dụng, có xác định cụ thể hiệu quả về kinh tế
và xã hội. Dự án có tính ứng dụng cao, có ràng buộc thời gian và nguồn lực.
• Đề án (proposal): là loại văn kiện, được xây dựng để trình cấp quản lý cao hơn, hoặc gởi cho một cơ
quan tài trợ để xin thực hiện một công việc nào đó như: thành lập một tổ chức; tài trợ cho một hoạt
động xã hội Sau khi đề án được phê chuẩn, sẽ hình thành những dự án, chương trình, đề tài theo yêu
cầu của đề án.
• Chương trình (programme): là một nhóm đề tài hoặc dự án được tập hợp theo một mục đích xác định.
Giữa chúng có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ thực hiện đề tài, dự án trong chương trình không
nhất thiết phải giống nhau, nhưng nội dung của chương trình thì phải đồng bộ. – Giải quyết thiết thực
1 vấn đề của sản xuất và đời sống.
a. Căn cứ để xác định đề tài:
– Do yêu cầu thực tiễn (yêu cầu nghiên cứu lý luận hoặc yêu cầu cảu thực tiễn sản xuất).
– Do năng lực của người nghiên cứu bao gồm trình đó nghiên cứu, trang thiết bị, khả năng nguồn tài
chính, điều kiện triển khai.
b. Khi xác định đề tài nghiên cứu cần chú ý:
– Tên đề tái phải phản ánh đúng nội dung cần nghiên cứu.
– Tên đề tài phải ngắn, gọn nhưng chính xác và dễ hiểu.
– Tên đề tài phải hấp dẫn.
1.2.2 Xây dựng đề cương nghiên cứu.
Đề cương nghiên cứu là 1 bản kế hoạch chỉ rõ những vấn đề cơ bản cần được giải quyết thuộc phạm
vi đề tài nghiên cứu.
Đề cương nghiên cứu được xây dựng để trình cơ quan và tổ chức tài trợ phê duyệt và làm cơ sở để làm
việc trong nhóm nghiên cứu. Trong đề cương nghiên cứu cần thuyết minh những vấn đề sau:
1- Lý do chọn đề tài (tính cấp thiết của đề tài).

7
Khi thuyết minh lý do chọn đề tài, người nghiên cứu cần làm rõ 3 nội dung sau:
– Phân tích được lịch sử nghiên cứu.
– Làm rõ mức độï nghiên cứu của các đồng nghiệp đi trước để chỉ rõ để tài sẽ kế thừa những gì và tiếp
tục nghiên cứu ra sao.
– Giải thích lý do chọn đề tài về lý thuyết cũng như thực tiễn về tính cấp thiết cũng như năng lực
nghiên cứu.
2- Trình bày rõ mục tiêu nghiên cứu.
Khi viết đề cương nghiên cứu, một điều rất quan trọng là làm sao thể hiện được mục tiêu và mục đích
nghiên cứu mà không có sự trùng lấp lẫn nhau. Vì vậy, cần thiết để phân biệt sự khác nhau giữa mục đích và
mục tiêu.
• Mục đích: là hướng đến một điều gì hay một công việc nào đó trong nghiên cứu mà người nghiên cứu
mong muốn để hoàn thành, nhưng thường thì mục đích khó có thể đo lường hay định lượng. Nói cách
khác, mục đích là sự sắp đặt công việc hay điều gì đó được đưa ra trong nghiên cứu. Mục đích trả lời
câu hỏi “nhằm vào việc gì?”, hoặc “để phục vụ cho điều gì?” và mang ý nghĩa thực tiễn của nghiên
cứu, nhắm đến đối tượng phục vụ sản xuất, nghiên cứu.
• Mục tiêu: là thực hiện điều gì hoặc hoạt động nào đó cụ thể, rõ ràng mà người nghiên cứu sẽ hoàn
thành theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo lường hay định lượng được. Nói
cách khác, mục tiêu là nền tảng hoạt động của đề tài và làm cơ sở cho việc đánh giá kế hoạch nghiên
cứu đã đưa ra, và là điều mà kết quả phải đạt được. Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái gì?”.
Thí dụ: phân biệt giữa mục đích và mục tiêu của đề tài sau đây.
Đề tài: “Ảnh hưởng của phân N đến năng suất lúa Hè thu trồng trên đất phù sa ven sông ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long”.
Mục đích của đề tài: Để tăng thu nhập cho người nông dân trồng lúa.
Ngoài ra có thể có mục đích khác mà tác giả không nói ra. Ví dụ như làm đề tài này để tác giả có công trình
phục vụ cho việc phong học hàm, hay láy bằng tiến sỹ, thạc sỹ…
Mục tiêu của đề tài:
1. Tìm ra được liều lượng bón phân N tối hảo cho lúa Hè thu.
2. Xác định được thời điểm và cách bón phân N thích hợp cho lúa Hè thu.
Lưu ý: Một số tài liệu chia mục tiêu nghiên cứu thành:

Mục tiêu nghiên cứu thường có nục tiêu chung hay mục tiêu tổng quát (mục tiêu cấp 1) và mục tiêu cụ thể
(mục tiêu cấp 2).
8
Cũng có thể mỗi mục tiêu cấp 2 lại bao gồm những mục tiêu chi tiết hơn (mục tiêu cấp 3). Như vậy sẽ hình
thành nên cây mục tiêu, trong đó mục tiêu cấp dưới là công cụ để thực hiện mục tiêu cấp trên, là luận cứ để
chứng minh hoặc bác bỏ giả thiết đã đặt ra ở mục tiêu cấp trên.
Thông thường 1 đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế gồm 1 mục tiêu chung và 3 hay 4 mục tiêu cụ thể (lý
luận, phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân hoặc yếu tố ảnh hưởng, nêu lên định hướng và giải pháp).
Khi xây dựng mục tiêu nghiên cứu, người ta thường nói đến tiêu chuẩn SMART (Specific, Measurable,
Achievable, Realistic, and Timable).
Một mục tiêu tốt phải cụ thể (S), đo lường được (M), phải đạt được (A), thực tế (R) và có đủ thời gian (T).
3- Xác định rõ đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu thường bao gồm 2 phạm trù: Khách thể nghiên cứu và đối tượng khảo sát (Ví
dụ: Cổ phần hoá doanh ghiệp Nhà nước; huy động và sử dụng vốn tín dụng).
Xác định khách thể nghiên cứu là chỉ rõ nghiên cứu cái gì, nội dung nghiên cứu tập trung vào vấn đề nào.
Còn đối tượng khảo sát chính là thực thể mà trên đó ta điều tra, khảo sát để thu thập tình hình và số liệu.
* Đối tượng nghiên cứu: là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên
cứu.
4- Xác định phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là 1 phần giới hạn của nghiên cứu liên quan đến đối tượng khảo sát và nội dung
nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu bao gồm những giới hạn về nội dung, về không gian và về thời gian của đối
tượng khảo sát
* Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong trong phạm vi nhất định về mặt thời gian,
không gian và lãnh vực nghiên cứu.
5- Lựa chọn phương pháp nghiên cứu.
Ở đây cần chỉ rõ những phương pháp nào sẽ sử dụng trong nghiên cứu.có những phương pháp dược
sử dụng trong suốt quá trinh nghiên cứu đề tài ở nhiều nội dung khác nhau. Cũng có phương pháp nghiên cứu
chỉ áp dụng để giải quyết 1 vài nội dung riêng biệt của đề tài. Do đó khi xác định phương pháp nghiên cứu
cần chỉ rõ phương pháp đó được áp dụng để nghiên cứu nội dung nào. Cũng cần chứng tỏ được phương pháp
nghiên cứu được áp dụng là đáng tin cậy, do đó các kết luận rút ra là có căn cứ khoa học.

6- Xác định nội dung nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu được xác định căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu. Việc xác định chính xác nội
dung nghiên cứu không phải là dễ dàng. Nó đòi hỏi người xây dựng đề cương nghiên cứu phải hiểu biết khá
sâu sắc về vấn đề nghiên cứu, đặc biệt là cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. Để xác định được nội dung
nghiên cứu, điều quan trọng là phải nêu lên được khá chinh xác những giả thuyết cần chứng minh hay bác bỏ
trong qua trình nghiên cứu.
9
Nội dung nghiên cứu được phân chia ra các phần tuỳ theo đề tài nghiên cứu. Thông thường nội dung
nghiên cứu được thiết kế gồm các phần bao quát từ trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn đến phân tích thực
trạng tinh hình, tìm nguyên nhân rồi tìm ra định hướng và giải pháp. Mỗi 1 phần lại có nội dung chi tiết phản
ánh từng khía cạnh cụ thể của phần đó (Ví dụ: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH).
7- Lập danh sách cộng tác viên.
Danh sách cộng tác viên bao gồm:
– Người chủ trì.
– Người tham gia.
– Trong số những người tham gia có thể phải xác định người chủ trì từng bộ phận nếu câøn thiết.
8- Xây dựng tiến độ thực hiện đề tài.
Kế hoạch được xây dựng căn cứ vào yêu cầu của cơ quan giao đề tài. Kế hoạch này phải rất chi tiết,
trong đó có mấy bước quan trọng là xây dựng đề cương sơ bộ, xây dựng đề cương chi tiết, thu thập tông tin,
xử lý thông tin, viết báo cáo, nghiệm thu sơ bộ, nghiệm thu chính thức. Kế hoạch tiến độ thường được xây
dựng theo bảng theo mẫu sau:
TT Tên công việc Thời gian tiến hành Địa điểm thực hiện Kết quả dự kiến
1
2
9- Dự toán kinh phí nghiên cứu.
Dự toán kinh phí bao gồm: chi phí lương, chi phí nghiên cứu, chi phí mua sắm tài liệu, trang thiết bị.
Các loại chi phí này thường được hướng dẫn khá chi tiết bởi các cơ quan quản lý.
1.2.3 Tổ chức công tác nghiên cứu.
Quá trình nghiên cứu thường bao gồm các bước sau:
1- Thu thập thông tin.

Công việc này được tiến hành ngay từ khi nghiên cứu đêû xác định đề tài và sẽ chi tiết hơn khi xây
dựng đề cương, đặc biệt khi đã có đề cương nghiên cứu, nhất là đề cương chi tiết thì thông tin cần thu thập
càng phải chi tiết và tỉ mỉ hơn. Thông tin này bao gồm cả số liệu và tình hình từ nhiều nguồn khác nhau, chia
ra thông tin thư cấp (tài liệu có sẵn) và thông tin sơ cấp (tài liệu điều tra). Thông tin thu thập phải phù hợp
với nội dung nghiên cứu, tránh thừa thãi và đặc biệt nhất là không được thiếu sót. Muốn đáp ứng được yêu
cầu trên thì viêc thu thập thông tin phải xuất phát từ đề cương chi tiết nghiên cứu đề tài.
2- Xử lý thông tin.
Thông thường, thông tin trong nghiên cứu khoa học được sử lý bằng máy vi tính. Ơû đây cần xác
định công cụ, phương tiện xử lý(máy móc nào, phần mềm gì) và phương pháp xử lý (các loại phân tổ thống
10
kê, các hàm sản xuất, các mô hình toán học. Tài liệu sau khi được xử lý sẽ được phản ánh bằng các bản thống
kê, các biểu đồ, đồ thị, các hàm toán học. Từ đó có thể phân tích để rút ra các kết luận khoa học.
3- Viết báo cáo.
Báo cáo khoa học là sản phẩm cuối cùng và là sản phẩm công bố đầu tiên trước cộng động nghiên
cứu. Nó cũng là sản phẩm được trình bày trước hội đôøng đánh giá và nghiêm thu đề tài. Vì vậy báo cáo cần
được trinh bày một cách có cân nhắc không chỉ về nội dung mà cả hình thức, bố cục
Về cơ bản báo cáo được xây dựng theo yêu cầu đựoc đặt ra ngay từ đầu khi bắt tay vào nghiên cứu.
Báo cáo phải được xây dựng theo đúng yêu cầu của từng loại đề tài nghiên cứu.
1.2.4 Công bố kết quả nghiên cứu.
Công đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu khoa học, là công bố kết quả nghiên cứu. Trừ những
công trinh liên quan đến bí mật quốc gia, các công trình khoa học phải được công bố.
Một kết quả nghiên cứu khoa học được công bố mang nhiều ý nghĩa như:
– Đóng góp 1 nhận thức mới trong hệ thống tri thức khoa học.
– Mở rộng sự trao đổi để phát triển lĩnh vực nghiên cứu.
– Khẳn định về mặt sở hữu của người nghiên cứu đối với sản phẩm của đề tài nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu có thể được công bố trên báo, tạp chí chuyên ngành, cũng có thể công bố trên
phượng tiện thông tin đại chúng, trong các hội nghị khoa học, hội thảo hoặc in thành sách.
Chương II
SUY LUẬN KHOA HỌC
2.1. Lý thuyết khoa học

Dù nghiên cứu khoa học trong bất kỳ lĩnh vực nào, người nghiên cứu cũng đụng chạm với các cơ sở lý thuyết
của khoa học. Lý thuyết là một đặc trưng cơ bản của khoa học, không có lý thuyết thì không có khoa học.
2.1.1 Lý thuyết khoa học
Lý thuyết được xem là “khuôn mẫu” (paradigm) hiểu biết.
6
Đơn giản hơn, lý thuyết còn được xem là
những phát biểu về bản chất sự vật.
Theo Stephen Hawking: “lý thuyết phải thỏa mãn hai đòi hỏi: phải mô tả mạch lạc một lớp lớn các
quan sát trên cơ sở một mô hình gồm một số rất ít các yếu tố tùy hứng, đồng thời phải có thể sử dụng mô
hình ấy để đoán trước các kết quả quan sát trong tương lai”.
2.1.2 Thế nào là “khái niệm”
“Khái niệm” là quá trình nhận thức hay tư duy của con người bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan
sát sự vật hiện thực tác động vào giác quan. Như vậy, “khái niệm” có thể hiểu là hình thức tư duy của con
người về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối liên hệ của những đặc tính đó với nhau.
6
Vũ Cao Đàm (1999).
11
Người NCKH hình thành các “khái niệm” để tìm hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm với nhau, để
phân biệt sự vật này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật hay hình thành khái niệm
nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận.
Khái niệm là một trong những đối tượng của logic học và được định nghĩa là một hình thức tư duy
nhằm chỉ rõ bản chất vốn có của sự kiện khoa học. Khía niệm bao gồm hai bộ phận: nội hàm và ngoại diên.
Khái niệm có thể biểu diễn bởi một định nghĩa hoặc không thể định nghĩa được. Định nghĩa chính là
việc tách ngoại diên của khái niệm đó ra khỏi khái niệm gần nó và chỉ rõ nội hàm.
Một khái niệm khoa học không thể hiểu theo nhiều nghĩa.
( Cho ví dụ minh họa)
2.1.3 Mối quan hệ giữa các khái niệm
Lý thuyết khoa học bao gồm những mối quan hệ bản chất của các sự kiện khoa học. Nó có thể là định lý
(toán), định luật (lý), nguyên lý (công nghệ), quy luật (khoa học xã hội)…
2.2. Giả thuyết nghiên cứu (hypothesis) và phương pháp suy luận.

Là một kết luận giả định về mặt bản chất sự vật, do người nghiên cứu đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ.
7
2.2.1 Phán đoán
Trong nghiên cứu, người ta thường vận dụng các khái niệm để phán đoán hay tiên đoán. Phán đoán là vận
dụng các khái niệm để phân biệt, so sánh những đặc tính, bản chất của sự vật và tìm mối liên hệ giữa đặc tính
chung và đặc tính riêng của các sự vật đó.
Phán đoán là một thao tác logic luôn được thực hiện trong nghiên cứu khoa học. Phán đoán có thể là
phán đoán trong hiên tại, quá khứ hoặc tương lai. Phán đoán trong tương lai gọi là tiên đoán.
Trong cuộc sống, con người luôn phải đưa ra các phán đoán. Có những phán đoán đơn giản, co những
phán đoán phức tạp.
Ví dụ: Trước khi đi thi sinh viên thường phán đoán giáo viên sẽ ra đề về phần nào trong môn học. Độ
chính xác của phán đoán này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nắm bắt vấn đề cốt lõi của bài giảng, những
điểm nhấn của giáo viên khi giảng bài hay là các đề cũ đã sử dụng trong các năm qua.
Trong nghiên cứu khoa học, phán đoán là tiền đề để tìm ra cái mới hay cái có tính đột phá.
2.2.2 Suy luận
Có 2 cách suy luận: suy luận “suy diễn” (deductive method) và suy luận “qui nạp” (inductive method)
a) Cách suy luận suy diễn
Theo Aristotle, kiến thức đạt được nhờ sự suy luận. Muốn suy luận phải có tiền đề và tiền đề đó đã được
chấp nhận. Vì vậy, một tiền đề có mối quan hệ với kết luận rất rõ ràng.
7
Vũ Cao Đàm (1999).
12
Suy luận suy diễn theo Aristotle là suy luận đi từ cái chung tới cái riêng, về mối quan hệ đặc biệt. Lưu
ý rằng cái chung nằm trong cái riêng.
Thí dụ về suy luận suy diễn của Aristotle trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1 Thí dụ về suy luận suy diễn
Tiền đề chính: Tất cả sinh viên đi học đều đặn
Tiền đề phụ: Nam là sinh viên
Kết luận: Nam đi học đều đặn
Suy luận trên được diễn giải như sau: vì Nam là một cái riêng nằm trong tổng thể cái chung sinh viên

nên Nam chứa các thuộc tính của tổng thể đó.
b) Suy luận qui nạp
Vào đầu những năm 1600s, Francis Bacon đã đưa ra một phương pháp tiếp cận khác về kiến thức khác
phương pháp suy luận của Aristotle. Ông ta cho rằng, để đạt được kiến thức mới phải đi từ thông tin riêng
đến kết luận chung, phương pháp này gọi là phương pháp qui nạp. Phương pháp này cho phép chúng ta dùng
những tiền đề riêng, là những kiến thức đã được chấp nhận, như là phương tiện để đạt được kiến thức mới.
Bảng 2.2 Thí dụ về suy luận qui nạp
Tiền đề riêng: Nam, Bắc, Đông và Tây tham dự lớp đều đặn
Tiền đề riêng: Nam, Bắc, Đông và Tây đạt được điểm cao
Kết luận: Sinh viên tham dự lớp đều đặn thì đạt được điểm cao
Suy luận quy nạp có thể mổ xẻ như sau: cần phải xác định tiền đề chính (gọi là giả thuyết) và sau đó
phân tích các kiến thức có được (nghiên cứu riêng) một cách logic để kết luận giả thuyết.
13
2.3. Cấu trúc của phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học phải sử dụng phương pháp khoa học:
Phương pháp khoa học bao gồm việc chọn phương pháp thích hợp (hay đó chính là việc xây dựng
luận chứng) để chứng minh mối quan hệ giữa các luận cứ và giữa toàn bộ luận cứ với luận đề.
Phương pháp khoa học cũng liên quan đến cách đặt giả thuyết hay phán đoán sử dụng các luận cứ và
phương pháp thu thập thông tin cũng như xử lý thông tin để xây dựng luận đề.
2.3.1 Luận đề
Luận đề trả lời câu hỏi “cần chứng minh điều gì?” trong nghiên cứu. Như vậy, luận đề thực chất là một
“phán đoán” hay một “giả thuyết” cần được chứng minh.
8
Ví dụ: Ông cha ta có câu: “con hư tại mẹ”
Đây là một luận đề cần phải chứng minh. Để chứng minh luận đề này ta phải tìm kiếm các luận cứ-
đó là chứng cứ khoa học.
2.3.2 Luận cứ
Để chứng minh một luận đề thì nhà khoa học cần đưa ra các bằng chứng hay luận cứ khoa học. Luận cứ bao
gồm các thông tin, tài liệu tham khảo; quan sát và thực nghiệm. Luận cứ trả lời câu hỏi “Chứng minh bằng
cái gì?”. Các nhà khoa học sử dụng luận cứ làm cơ sở để chứng minh một luận đề. Có hai loại luận cứ được

sử dụng trong nghiên cứu khoa học:
• Luận cứ lý thuyết: bao gồm các lý thuyết, luận điểm, tiền đề, định lý, định luật, qui luật đã được khoa học
chứng minh và xác nhận là đúng. Luận cứ lý thuyết cũng được xem là cơ sở lý luận.
• Luận cứ thực tiễn: dựa trên cơ sở số liệu thu thập, quan sát và làm thí nghiệm.
Trong ví dụ trên, để chứng minh luận đề “con hư tại mẹ” người ta sử dụng phương pháp phỏng vấn các đứa
trẻ hư hỏng (một cách khéo léo). Kết quả cho thấy 30% những đứa trẻ này thừa nhận mình hư hỏng do mẹ
quá nuông chiều, 50% cho rằng mình hư hỏng là do bố rượu chè quá mức, còn 20% cho rằng mình hư hỏng
vì nguyên nhân khác. Như vậy kết quả trên cho thấy luận đề “con hư tại mẹ” là không phù hợp.
2.3.3 Luận chứng
Để chứng minh một luận đề, nhà nghiên cứu khoa học phải đưa ra phương pháp để xác định mối liên hệ giữa
các luận cứ và giữa luận cứ với luận đề. Luận chứng trả lời câu hỏi “Chứng minh bằng cách nào?”. Trong
nghiên cứu khoa học, để chứng minh một luận đề, một giả thuyết hay sự tiên đoán thì nhà nghiên cứu sử
dụng luận chứng, chẳng hạn kết hợp các phép suy luận, giữa suy luận suy diễn, suy luận qui nạp và loại suy.
Một cách sử dụng luận chứng khác, đó là phương pháp tiếp cận và thu thập thông tin làm luận cứ khoa học,
thu thập số liệu thống kê trong thực nghiệm hay trong các loại nghiên cứu điều tra.
8
Vũ Cao Đàm (1999).
14
Trong ví dụ trên, nếu có nhiều luận cứ ủng hộ quan điểm “con hư tại mẹ” ta có thể xâu chuỗi nó lại
thành một luận chứng. Ví dụ, kết quả điều tra trên được tiến hành ở vùng nông thôn nhỏ hẹp với mẫu chọn
nhỏ, trong khi đó có cuộc điều tra khác quy mô lớn hơn cho rằng 80% những đứa trẻ hư hỏng là do mẹ quá
nuông chiều.
Về mặt tâm lý học, người ta công nhận rằng thời gian và sự gũi với con cái của người mẹ nhiều hơn
bố vì vậy ảnh hưởng của mẹ đến con cái cũng nhiều hơn bố. Đây được xem là luận cứ lý thuyết cho luận đề
“con hư tại mẹ”.
2.4. Phương pháp khoa học
2.4.1Phương pháp khoa học (PPKH).
Những ngành khoa học khác nhau cũng có thể có những PPKH khác nhau. Ngành khoa học tự nhiên
như vật lý, hoá học, nông nghiệp sử dụng PPKH thực nghiệm, như tiến hành bố trí thí nghiệm để thu thập số
liệu, để giải thích và kết luận. Còn ngành khoa học xã hội như nhân chủng học, kinh tế, lịch sử… sử dụng

PPKH thu thập thông tin từ sự quan sát, phỏng vấn hay điều tra. Tuy nhiên, PPKH có những bước chung
như: Quan sát sự vật hay hiện tượng, đặt vấn đề và lập giả thuyết, thu thập số liệu và dựa trên số liệu để rút ra
kết luận (Bảng 2.4). Nhưng vẫn có sự khác nhau về quá trình thu thập số liệu, xử lý và phân tích số liệu.
Bảng 2.4 Các bước cơ bản trong phương pháp khoa học
Bước Nội dung
1 Quan sát sự vật, hiện
tượng
2 Đặt vấn đề nghiên cứu
3 Đặt giả thuyết hay sự tiên
đoán
4 Thu thập thông tin hay số
liệu thí nghiệm
5 Kết luận
15
Chương III
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ
3.1 Tích luỹ tài liệu trong nghiên cứu kinh tế.
Để nghiên cứu kinh tế, chúng ta cần rất nhiều tài liệu. Tích lũy tài liệu là khâu quan trọng bước đầu trong qúa
trình nghiên cứu khoa học. Tài liệu càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì công việc nghiên cứu càng được
thuận lợi, các kết luận rút ra càng đảm bảo tính khoa học. Tuy nhiên, nếu quá nhiều tài liệu mà không có cách
xắp xếp khoa học có thể làm người nghiên cứu bị nhiễu thông tin. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu, sinh
viên cần chọn lọc các tài liệu tham khảo.
Tài liệu trong nghiên cứu kinh tế có 5 nguồn:
-Từ sách báo.
– Từ điều tra.
– Từ tổng kết kinh nghiệm trong thực tiễn.
– Từ thực nghiệm khoa học.
– Từ tính toán
3.1.1 Tích luỹ tài liệu từ nguồn sẵn có trong sách báo.
Đây là nguồn tài liệu đầu tiên được tiếp cận nghiên cứu nó rất quan trọng vì nó cung cấp cho chúng ta cái

nhìn bao quát về vấn đề nghiên cứu, về những kết quả nghiên cứu cũng như phương pháp tiếp cận đã được
thực hiện. Khi chuẩn bị bắt tay vào nghiên cứu, công việc đầu tiên là phải tìm đọc các sách báo liên quan.
a- Tác dụng của sách báo:
– Cung cấp lý luận cơ bản liên quan đến đề tài.
– Cung cấp thông tin về thực trạng tình hình.
– Cung cấp những định hướng và giải pháp cơ bản.
– Cho biết tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực đang quan tâm.
b- Nguồn tài liệu từ sách báo:
– Các nghị định, thông tư, luật … cung cấp các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương
– Sách tham khảo hay giáo khoa cung cấp các vấn đề lý luận.
– Các thông tin được công bố trên các báo và các tạp chí (đặc biệt là tạp chí chuyên ngành).
– Các công trình khoa học bao gồm các đề tài nghiên cứu thuộc các cấp, các luận văn, luận án từ cử
nhân đến thạc sĩ tiến sĩ.
– Số liệu thông kê từ các cấp thuộc hệ thống kê Nhà nước và thống kê các ngành.
– Các báo cáo tại địa phương, các cơ quan, các cơ sở sản xuất.
16
– Thông tin trên mạng internet.
c-Cách đọc và ghi chép.
Trong thời kỳ bùng nổ thông tin, tài liệu tham khảo rất phong phú. Vấn đề đặt ra là làm sao đọc được nhanh
chóng và thu thập được những thông tin cần thiết.
Cách đọc: Mỗi người trong quá trình đọc sẽ tự tìm ra cho mình phương pháp đọc sao cho có hiệu quả. Đối
với mỗi ấn phẩm, không nên đọc tràn lan mà cần sớm tìm ra những chỗ cần đọc. Trong quá trình đọc cũng
cần rút ra kinh nghiệm sao cho đọc được nhanh chóng.
d- Phân loại thông tin thu nhập được.
Thông tin thu thập được qua sách báo thương liên quan đến nhiều nội dung khác nhau thuộc đề tài nghiên
cứu. Để thuận lợi cho việc sử dụng cần sớm phân loại. Thông thường những thông tin thu thập được người ta
ghi vào những phiếu riêng biệt đã được phân loại ngay từ đầu hoặc lưu trữ vào máy tính theo thư mục đã
định sẵn.
Việc sớm phân loại thông tin sẽ tránh sự lộn xộn về tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý

thông tin về sau.
e- Tổng hợp tài liệu trong quá trình đọc.
Khi tham khảo được một số tài liệu nhất định cần được tổng hợp lại. Trong quá trình tổng hợp, chúng ta sẽ
biết được các quan điểm của các tác giả khác nhau về lĩnh vực đang quan tâm. Từ đó có thể phân loại ra các
nhóm quan điểm khác nhau, tìm quan điểm cho là phù hợp nhất hoặc có thể suy nghĩ trên những vấn đề đang
xem xét. Làm như vậy người nghiên cứu đã biến kiến thức sách vở thành kiến thức của mình.
(Giải thích kỹ càng cho sinh viên về vấn đề này và nhắc nhỡ sinh viên về vấn đề tích luỹ kiến thức qua đọc
sách báo).
Lưu ý: Với sự hỗ trợ của máy tính, người đọc tài liệu tham khảo có thể ghi chép ngay trên máy tính:
* Mở 1 file trong word processing:
Cách ghi chép thô:
Ghi trích đoạn nguyên văn hoặc tóm lược thô các thông tin liên quan đến đề tài và phải kèm nguồn của thông
tin. Cụ thể, trong khi ghi chép phải ghi nguồn tài liệu đã sử dụng bao gồm tên tác giả, tên tác phẩm, nhà xuất
bản, năm xuất bản, trang sử dụng. Đây là vấn đề quan trọng và là yêu cầu bắt buộc đối với người sử dụng tài
liệu trong nghiên cứu khoa học. Làm như vậy cũng thể hiện sự nghiêm túc của người nghiên cứu, không mập
mờ giữa sáng tạo của mình với sáng tạo của người khác và nhất là không chiếm dụng thành quả lao động
khoa học của người khác.
Ở file này chúng ta không cần xắp xếp theo nội dung mà chỉ liệt kê các nội dung liên quan đến đề tài.
* Xắp xếp theo cấu trúc phần cơ sở lý luận.
Từ file trên chúng ta xắp xếp theo cấu trúc của phần cơ sở lý luận mà ta xây dựng trong một file mới.
17
* Đọc và viết lại các trich dẫn:
Từ file thô trên chúng ta đọc, tổng hợp, tinh lọc và viết lại nhưng phải đảm bảo tính lôgic. Ngoài ra người
viết có thể so sánh, lồng ghép các vấn đề lại với nhau hoặc đưa các nhận định của mình vào bài viết.
Như vậy thông qua ba bước trên, người nghiên cứu sẽ có một cái nhìn tổng quát và có ngay phần
”tổng quan tài liệu”. (Xem kỹ thêm bước d và e).
Hiện nay, internet là một phương tiện tốt để sinh viên khai thác các tài liệu. Tuy nhiên người khai
thác tài liệu trên internet cần lưu ý:
Chọn thông tin chính thống:
Thông thường các tạp chí khoa học được chia thành tạp chí SCI (rất tốt), SCIE (tốt và rất tốt) và các

tạp chí khác. Tạp chí SCI và SCIE do ISI liệt kê (indexing) dựa trên số lượng trích dẫn. Như vậy, các bài báo
thuộc các tạp chí này có chất lượng.
Các tạp chí được liệt kê trong danh mục các tạp chí tính điểm phong hàm GS, PGS theo Quyết định
số 207/QĐ-HĐCDGSNN năm 2009.
– Các tạp chí khoa học của các trường đại học trong nước.
Ghi nhớ: ”Tam sao thất bổn”- nên tham khảo tài liệu gốc!
3.1.2 Tổ chức điều tra để thu thập số liệu.
a) Sự cần thiết phải điều tra để thu thập số liệu
Nguồn tài liệu từ sách báo tuy rất phong phú nhưng không thể bao quát đẩy đủ mọi thông tin cần thiết cho
quá trình nghiên cứu, nhất là các thông tin chi tiết tại địa bàn nghiên cứu. Vì vậy cần phải tổ chức điều tra để
thu thập số liệu.
b) Về hình thức tổ chức điều tra:
Có hai hình thức tổ chức thu thập số liệu:
– Điều tra theo kiểu báo cáo thống kê định kì: Là hình thức tổ chức thu thập tài liệu được tiến hành
trên cơ sở ghi chép thường xuyên theo sổ sách, chứng từ đã được chuẩn bị sẵn.
– Điều tra chuyên môn: Là hình thức tổ chức thu thập số liệu được tiến hành theo một kế hoạch và
phương pháp riêng cho mỗi lần điều tra.
c) Xây dựng phương án điều tra:
Để thu thập số liệu cần phải xây dựng phương án điều tra. Nội dung dung của phương án điều tra bao gồm:
– Xác định mục đích điều tra.
– Xác định đối tượng điều tra và đơn vị điều tra.
– Xác định nội dung điều tra.
– Xây dựng bảng điều tra và bảng giải thích.
– Xác định phương pháp điều tra.
18
– Xây dựng kế hoạch tổ chức điều tra.
d) Xác định phạm vi điều tra:
Xét về phạm vi điều tra, có thể chia làm hai loại:
Điều tra toàn bộ:
Là điều tra tiến hành trên tất cả các đơn vị tổng thể. Điều tra toàn bộ có ưu điểm là cung cấp cho chúng ta số

liệu có độï chính xác cao, độ tin cậy lớn. Tuy nhiên điều tra toàn bộ rất tốn kém và khó đảm bảo tính đầy đủ
và kịp thời của số liệu.
Điều tra bộ phận:
Là điều tra chỉ tiến hành ở một bộ phận tổng thể. Điều tra bộ phận cung cấp cho chúng ta số liệu tuy có độ
chính xác và độ tin cậy kém hơn điều tra toàn bộ nhưng đỡ tốn kém và nâng cao được tính đầy đủ và kịp thời
của số liệu.
Điều quan trọng đối với điều tra bộ phận để thu thập số liệu nghiên cứu khoa học là phải đảm bảo tính đại
biểu của mẫu điều tra. Muốn vậy phải giải quyết hai vấn đề là xác định số đơn vị mẫu và cách lựa chọn đơn
vị mẫu để điều ra.
• Ước lượng kích thước mẫu:
Xuất phát từ công thức:
/ 2 / 2
z z
x x
n n
α α
σ σ
µ
− < < +
Nếu ta gọi
/ 2
z
n
α
σ
∆ =
là một nửa khoảng tin cậy. Khi n đủ lớn, ta đễ dàng xác định công thức tính số đơn vị
mẫu đáp ứng yêu cầu nghiên cứu như sau:
2 2
1, / 2

2
( )
n
t
n
α
σ

=

Như vậy trong điều tra chọn mẫu, số đơn vị mẫu phụ thuộc vào:
-Độ tin cậy: Độ tin cậy càng cao (t lớn, tức xác suất yêu cầu lớn) thì số đơn vị mẫu càng lớn.
– Độ chính xác (

) (1/2 khoảng tin cậy): độ chính xác càng cao, tức

càng nhỏ, thì số đơn vị mẫu càng phải
lớn.
Tuỳ theo yêu cầu của cuộc điều tra mà ta xác định độ chính xác và độ tin cậy sao cho hợp lý dể đảm
bảo được yêu cầu nhưng số mẫu điều tra không quá lớn. Về lý thuyết thì giữa độ chính xác vá độ tin cậy có
sự mâu thuẫn với nhau: Yêu cầu độ chính xác càng cao thì độ tin cậy lại giảm đi và ngược lại. Do đó tuỳ thao
yêu cầu của công tác nghiên cứu mà xác định đọ chính xác và độ tin cậy sao cho phù hợp. Trong trường hợp
đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy đều phải cao thì số đơn vị mẫu điều tra sẽ lớn.
19
Chúng ta chú ý rằng trong các công thức tính trên, ta gặp một khó khăn là không biết trước phương
sai của tổng thể chung
σ
2
. Khó khăn này được giải quyết như sau:

1- Lấy phương sai của lần điều tra trước. Nếu trước đó có nhiều lần điều tra thì lấy
σ
2
lớn nhất.
2- Có thể lấy
σ
2
của cuộc điều tra tương tự tiến hành ở địa phương lân cận.
3- Cũng có thể tiến hành điều tra thử một mẫu, sau đó tính phương sai mẫu (s
2
) thay cho phương sai
tổng thể chung. Người ta đã chứng minh được phương sai chung và phương sai mẫu không khác nhau đáng
kể nếu số đơn vị mẫu không quá nhỏ. Điều đó thể hiện qua công thức về mối liên hệ giữa phương sai chung
và phương sai mẫu mà khoa học thống kê đã xây dựng như sau:
1
22

=
n
n
s
σ
Nếu n càng lớn thi phương sai của tổng thể và phương sai của mẫu càng gần bằng nhau.
+ Phương pháp chọn mẫu điều tra.
Để đảm bảo tính đại diện của mẫu, ngoài việc xác định chính xác số đơn vị mẫu còn phải tiến hành chọn đơn
vị mẫu điều tra theo đúng phương pháp khoa học. Nguyên tắc chung khi chọn đơn vị cụ thể ra để điều tra là
phải đảm bảo tính khách quan. Việc chọn mẫu có thể tiến hành theo nhiều cách khác nhau. Thống kê thường
dùng các cách sau:
– Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản.
– Chọn mẫu máy móc.

– Chọn mẫu phân loại.
– Chọn mẫu cả khối.
– Chọn mẫu nhiều cấp.
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản: Là phương pháp tổ chức chọn mẫu từ tổng thể chung một cách hết
sức ngẫu nhiên không qua sự sắp xếp nào. Chẳng hạn rút thăm, quay số, hoặc dùng bảng số ngẫu nhiên.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản có thể cho kết quả tốt nếu trị số của các đơn vị tổng thể
không khác nhau nhiều. Nếu tổng thể chung có kết cấu phức tạp thì chọn theo phương pháp này khó đảm bảo
tính đại biểu. Mặt khác, đối với các tổng thể lớn thì việc rút thăm trở nên rất phức tạp.
Chọn mẫu máy móc: là phương pháp tổ chức chọn mẫu, trong đó các đơn vị được lựa chọn từ tổng
thể chung theo khoảng cách thời gian, không gian hoặc thứ hạng bằng nhau. Chẳng hạn xếp theo thứ tự
ABC, theo số nhà, theo ngõ xóm.
Chọn mẫu phân loại: Để chọn mẫu phân loại, trước tiên phân chia tổng thể thành các tổ, nhóm có độ
thuần nhất cao (trong cùng một tổ hay nhóm, các đơn vị phải có tính chất giống nhau). Sau đó chọn các đơn
vị đại diện cho từng tổ theo cách chọn ngẫu nhiên hoặc chọn máy móc. Số đơn vị chọn ra cho mỗi tổ thường
20
tỷ lệ với số đơn vị trong tổ. Khi đó gọi là chọn điển hình theo tỷ lệ. Cách chọn này thường cho mẫu có tính
đại diện cao, nhất là khi phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Chọn mẫu cả khối: Là phương pháp tổ chức chọn mẫu mà mỗi lần lấy ra không phải là một đơn vị mà
là một khối đơn vị. Ví dụ: thuốc lá kiểm tra cả tút, sản phẩm hàng hóa lấy ra trong một lô hàng. Ưu thế của
cách chọn này là đơn giản nhưng thường có sai số lớn, nhất là khi có những bất thường xảy ra.
Chọn mẫu nhiều cấp: Trong trường hợp các đơn vị tổng thể phân tán quá rộng và thiếu thông tin về
chúng, người ta tiến hành chọn mẫu nhiều cấp. Chẳng hạn để điều tra đời sống nông dân trong cả nước, có
thể chọn mẫu theo ba cấp như sau:
– Đơn vị mẫu cấp 1: Chọn các tỉnh, thành phố đại diện.
– Đơn vị mẫu cấp 2: Trong các tỉnh, thành phố đã chọn, chọn ra các quận huyện đại diện.
– Đơn vị mẫu cấp 3: Trong các quận, huyện đã chọn, chọn ra các hộ để điều tra.
Việc chọn mẫu ở mỗi cấp có thể tiến hành theo phương pháp chọn ngẫu nhiên đơn giản, máy móc hay
phân loại.
3.1.3 Tổng kết kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến.
a) Lý do:

Phương pháp thống kê chỉ dùng để nghiên cứu các thuộc tính của tổng thể, mang tính đại diện. Do đó các
đơn vị cá biệt bị che lấp và thông thường thống kê học loại bỏ các cá thể này như là cá thể dị biệt (outliers).
Bản chất các đơn vị tiên tiến là cá biệt ở hiện tại. Mặc dù các đơn vị tiên tiến không ảnh hưởng đáng kể tới
tổng thể nhưng là nhân tố mới, nhân tố tích cực, trong tương lai có thể sẽ là phổ biến, có tác dụng quyết định
đến sự phát triển của tổng thể. Do đó tổng kết được kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến sẽ giúp ta nhận thức
sâu sắc hơn về bản chất của hiện tượng, từ đó cho phép rút ra các kết luận có căn cứ khoa học.
b) Phương pháp tiến hành
Điều quan trọng là qua tổng kết rút kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến, ta phải phân tích cho được nguyên
nhân hoặc các yếu tố thúc đẩy đơn vị trở thành tiên tiến và từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm cần
thiết. Kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến, một mặt giúp người nghiên cứu có cơ sở chắc chắn hơn trong
việc đánh giá thực trạng tình hình, mặt khác là những gợi ý hết sức quan trọng cho việc xác định định hướng
và các giải pháp để giải quyết vấn đề.
3.2 Xử lý số liệu.
Xử lý số liệu là một khâu quan trọng. Số liệu thu thập được trong nghiên cứu kinh tế có nhiều nguồn và giá
trị của các số liệu này cũng rất khác nhau do đó phải xử lý trước khi sử dụng.
21
3.2.1 Đối với số liệu thứ cấp.
Trước tiên chúng ta cần loại bỏ những số liệu kém giá trị. Để đơn giản chúng ta cần so sánh các nguồn số
liệu với nhau. Ví dụ loại bổ những số liệu khác thường (outliers). Việc tính toán lại lại số liệu trên cơ sở tôn
trọng số liệu gốc. Hơn nữa, chúng ta phải thống nhất về mặt đơn vị: chẳng hạn quy đổi sào thước ra ha hoặc
tính toán lại theo cùng một mặt bằng giá.
Ví dụ 1: GDP của Trung Quốc trong thời kỳ 2005 – 2010 như sau:
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
GDP
(tỷ USD )

2.257

2.713

4.494

4.520

4.900

5.000
Trong đó từ 2005 đến 2008 tính theo giá cố định 2004 được lấy từ nguồn WB, trong khi đó số liệu từ
2009 đến năm 2010 tính theo giá cố định năm 2008 lấy từ ADB.
Như vậy, chúng ta không thể so sánh GDP Trung Quốc năm 2010 với GDP của Trung Quốc năm 2005
được. Do đó chúng ta phải đưa chúng về chung một gốc, ví dụ lấy năm gốc là 2004. Để đưa số liệu năm 2009
và 2010 về năm gốc 2004 ta chỉ cần chia số liệu đó với chỉ số giá (chỉ số khử lạm phát) năm 2008 so với năm
2004.
3.2.2 Đối với số liệu sơ cấp.
Đây là số liệu điều tra ban đầu thường được gọi là số liệu thô. Những số liệu này rất phong phú và phản ánh
chi tiết về từng đơn vị của tổng thể, tuy nhiên không nói lên đặc điểm chung của cả hiện tượng nghiên cứu.
Do đó cần được tổng hợp, hệ thống hóa lại mới có thể sử dụng trong phân tích được.
Phương pháp cơ bản để tổng hợp và hệ thống hóa số liệu điều tra là phương pháp phân tổ thống kê.
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một vài tiêu thức nào đó để phân chia tổng thể thành các tổ hoặc
các tiểu tổ có tính chất khác nhau
9
.
Ví dụ: Căn cứ vào tiêu thức giới tính để phân chia sinh viên trong lớp thành hai tổ là nam và nữ; căn cứ vào
trình độ phát triển kinh tế phân chia các hộ nông dân thành năm tổ: đói, nghèo, trung bình, khá và giàu.
Lý luận phân tổ bắt nguồn từ bản thân các hiện tượng kinh tế và xã hội mà thông kê nghiên cứu. Đó là
những hiện tượng phức tạp, luôn bao gồm các nhóm, các bộ phận có quy mô khác nhau, tính chất khác nhau,
phát triển theo những xu hướng khác nhau. Do đó để thông qua mặt lượng hiểu được bản chất và quy luật
phát triển của hiện tượng trong điều kiện và thời gian cụ thể, chúng ta không thể nghiên cứu chung cả tổng
thể mà từng đi sâu xem xét từng bộ phận, từng nhóm, nghiên cứu đặc trưng của chúng cũng như mối liên hệ
của chúng với nhau. Do đó tổng hợp thống kê phải được tiến hành trên cơ sở phân tổ thống kê.

• Những vấn đề cần được giải quyết khi tiến hành phân tổ thống kê
9
Tô Dũng Tiến (2005).
22
2.3.1 Luận đề 142.3.2 Luận cứ 142.3.3 Luận chứng 142.4. Phương pháp khoa học 152.4.1 Phương pháp khoa học ( PPKH ) 15C hương III 16NH ỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ 163.1 Tích luỹ tài liệu trong nghiên cứu kinh tế 163.1.1 Tích luỹ tài liệu từ nguồn sẵn có trong sách báo 163.1.2 Tổ chức tìm hiểu để tích lũy số liệu 183.1.3 Tổng kết kinh nghiệm tay nghề của những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển 213.2 Xử lý số liệu 213.2.1 Đối với số liệu thứ cấp 223.2.2 Đối với số liệu sơ cấp 223.3 Sử dụng phương pháp thống kê trong miêu tả và so sánh 243.3.1 Phản ánh và nghiên cứu và phân tích mức độ của hiện tượng kỳ lạ 243.3.2 Phản ánh và nghiên cứu và phân tích tình dịch chuyển của hiện tượng kỳ lạ 263.3.3 Phản ánh và nghiên cứu và phân tích mối liên hệ giữa những hiện tượng kỳ lạ 263.3.4 Phương pháp so sánh 282.4 Một số ứng dụng của toán học trong nghiên cứu kinh tế 282.4.1 Mô hình toán 283.4.2 Ứng dụng hàm sản xuất trong nghiên cứu kinh tế 293.4.3 Ứng dụng quy mô quy hoạch tuyến tính trong nghiên cứu kinh tế 303.4.4 Lý thuyết game show 30 iiPHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC 314.1. Sự thiết yếu phải thực tập tốt nghiệp và viết luận văn tốt nghiệp ĐH 314.2. Yêu cầu của một luận văn tốt nghiệp ĐH 324.3 Nội dung cơ bản của một luận văn tốt nghiệp ĐH 334.4 Các bước thực thi một luận văn tốt nghiệp 344.4.1 Xác định đề tài nghiên cứu 344.4.2 Xây dựng đề cương nghiên cứu 35 iiiChương IKHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC1. 1 Một số yếu tố cơ bản1. 1.1 Khoa học. Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về khái niệm khoa học xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. • Quan điểm xem khoa học là một mạng lưới hệ thống tri thức : Theo quan điểm này, “ khoa học gồm có một mạng lưới hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và sự vậnđộng của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy ”. Hệ thống tri thức này là mạng lưới hệ thống tri thức khoa học, hình thành trong lịch sử dân tộc và không ngừng pháttriển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Khi nói đến tri thức khoa học tất cả chúng ta cần phân biệt nó với tri thức kinh nghiệm tay nghề – Tri thức kinh nghiệm tay nghề : là những hiểu biết được tích góp qua hoạt động giải trí sống hàng ngày trong mối quan hệgiữa con người với con người và giữa con người với vạn vật thiên nhiên. – Tri thức khoa học : là những hiểu biết được tích góp một cách có mạng lưới hệ thống nhờ hoạt động giải trí NCKH, những hoạtđộng này có tiềm năng xác lập và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm tay nghề, tri thức khoa học dựa trên hiệu quả quan sát, tích lũy được quanhững thí nghiệm và qua những sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động giải trí xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoahọc được tổ chức triển khai trong khuôn khổ những ngành và bộ môn khoa học ( discipline ) như : triết học, sử học, kinh tếhọc, toán học, sinh học … • Khoa học là một hoạt động giải trí xã hộiVới tư cách là một hoạt động giải trí xã hội, khoa học hướng vào những tiềm năng sau : Phát hiện thực chất những sự vật, tăng trưởng nhật thức về thế giớiDự báo quy trình tăng trưởng của sự vật, hiện tượngSáng tạo ra những sự vật mới Giao hàng cho những tiềm năng sống sót và tăng trưởng của con người. • Khoa học là một hình thái ý thức xã hộiTriết học xem khoa học là một hình thái ý thức xã hội. Với tư cách này, khoa học cùng sống sót bên cạnh cáchình thức ý thức xã hội khác. Chính thế cho nên, mỗi lần khoa học có hiện mới thường va chạm với những định kiếnxã hội khác. Ví dụ tiêu biểu vượt trội là mối quan hệ giữa khoa học và chính trị. a ) Quy luật hình thành và tăng trưởng của khoa học. Piere Auger ( 1961 ). Vũ Cao Đàm ( 1999 ). Vũ Cao Đàm ( 1999 ). Rozental M. M. ( 1975 ) ; Vũ Cao Đàm ( 1999 ). Khoa học được hình thành do 1 số ít nguyên do sau : – Do sự phát kiến ra những tiên đề ( một tri thức khoa học mặc nhiên được thừa nhận không cần phảichứng minh ). Ví dụ : Từ tiên đề Ơclit đã hình thành nên hình học phẳng ( hình học Ơclit ). – Do sự phân lập những bộ môn khoa học : Từ một bộ môn khoa học đang sống sót tách ra thành một hoặcmột số bộ môn khoa học mới có đối tượng người dùng nghiên cứu hẹp hơn. Ví dụ : Triết học tách ra khoa học tự nhiên vàkhoa học xã hội. Từ toán học hình thành những bộ môn khoa học như số học, đại số học, hình học, lượnggiác thực chất của quy trình này là do sự tăng trưởng của khoa học dẫn đến phân lập đối tượng người dùng nghiên cứu vàhình thành nên những bộ môn khoa học mới. – Do sự tích hợp những khoa học : Do sự tăng trưởng của khoa học, phương pháp luận riêng của một bộmôn khoa học không đủ xử lý yếu tố, cần có sự tích hợp giữa những bộ môn khoa học, từ đó hình thành nênbộ môn khoa học mới : Ví dụ toán-lý, hoá – sinh, toán – kinh tế. b ) Cơ sở để phân biệt một khoa học. – Có một đối tượng người dùng nghiên cứu. – Có một hệ thống lý thuyết. – Có mạng lưới hệ thống phương pháp luận. – Có mục tiêu ứng dụng. – Có một lịch sử vẻ vang nghiên cứu. Ta hoàn toàn có thể phân loại khoa học theo những tiêu thức sau : • Theo phương pháp hình thành : + Khoa học tiền nghiệm ( được hình thành trên cơ sở tiên đề hay hệ tiên đề : Hình học ). + Khoa học hậu nghiệm : Được hình thành trên cơ sở quan sát thực nghiệm : Khoa học xã hội, kỹ thuậttrồng trọt, kỹ thật chăn nuôi. • Theo đối tượng người tiêu dùng nghiên cứu của khoa học : + Khoa học tự nhiên. + Khoa học xã hội. + Khoa học kỹ thuật. + Khoa học nhân văn. • Theo cơ cấu tổ chức kiến trúc : + Khoa học cơ bản. + Khoa học cơ sở. + Khoa học trình độ. 1.1.2 Nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là quy trình hoạt động giải trí nhằm mục đích hình thành những hiểu biết khoa học để nhận thức và biếnđổi quốc tế khách quan. Nghiên cứu khoa học là một hoạt động giải trí tìm kiếm, xem xét, tìm hiểu, hoặc thử nghiệm nhằm mục đích phát hiện bản chấtsự vật hay nhận thức về quốc tế. Cái đạt được từ những NCKH là cái mới về thực chất sự vật, về quốc tế tựnhiên và xã hội hay việc phát minh sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm NCKH phải có kỹ năng và kiến thức nhất định về lãnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rènluyện cách thao tác khoa học, có phương pháp ngay ở trường học. a. Mục đích của nghiên cứu khoa học. – Nhận thức quốc tế khách quan : + Phát hiện những thuộc tính, thực chất của sự vật, hiên tượng, những mối quan hệ. + Phát hiện quy luật hoạt động và tăng trưởng của sự vật, hiện tượng kỳ lạ. – Cải tạo và biến hóa quốc tế khách quan : + Khám phá ra con đường, phương pháp vận dụng những tri thức khoa học vào thực tiễn sản xuất và đờisống. Chú ý mối quan hệ giữa nhận thức và tái tạo quốc tế khách quan : + Nếu không nhận thức đúng thì không hề có hành vi đúng. + Nếu chỉ dừng ở nhận thức mà không hành vi thì tác dụng của nghiên cứu khoa học rất hạn chế, thiếu tính năng thiết thực. + Có một sự độc lạ lớn giữa những quan điểm tái tạo quốc tế khách quan trước đây và hiện tại : ví dụnhư khái niệm tăng trưởng vững chắc. b. Chức năng của khoa học. – Quan sát : là xem xét một cách tỉ mỉ và cặn kẽ về sự vật hay hiện tượng kỳ lạ. Quan sát là khâu đầu tiêngiúp ta tích lũy được những sự kiện, từ đó hình thành nên nhận thức. – Mô tả : là trình diễn rõ về hiện tượng kỳ lạ. Nó giúp cho nhận dạng sự vật, hiện tượng kỳ lạ. Mô tả có hai mặt : miêu tả định tính ( chỉ rõ đặc trưng về chất ) và miêu tả định lượng ( chỉ rõ đặc trưng về lượng ). Ví Dụ : diễn đạt về sựquay của toàn cầu, tình hình cơ bản của một địa phương. – Giải thích : là làm rõ nguồn gốc, những mối quan hệ, qui luật chi phối quy trình hoạt động và pháttriển. lý giải cho nhận thức đi từ nhận thức hiện tượng kỳ lạ bên ngoài đến thực chất bên trong của sự vật, hiệntượng. – Sáng tạo : là đưa ra những cái mới chưa từng có. Đó chính là những đề xuất kiến nghị về giải pháp để tái tạo, đổi khác quốc tế khách quan Giao hàng thực tiễn sản xuất và đời sống. Tô Dũng Tiến ( 2005 ). – Tiên đoán : là nhìn thấy trước sự hình thành, hoạt động, tăng trưởng, diệt vong của sự vật hiện tương. c. Phân loại nghiên cứu khoa học. Có nhiều tiêu thức phân loại khoa học nhưng về đại thể hoàn toàn có thể chia thành ba loại sau đây : – Nghiên cứu cơ bản : là những nghiên cứu nhằm mục đích phát hiện thuộc tính, cấu trúc, hành động của sự vật, tương tác của sự vật cũng như mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Nghiên cứu cơ bản nhằm mục đích trước hết tăng trưởng khoa học và làm cơ sở cho những nghiên cứu khoa họckhác. – Nghiên cứu ứng dụng : là vận dụng qui luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để đề ra nhữngnguyên lý và giải pháp trong điều kiện kèm theo ứng dụng đơn cử. Tuy nhiên, tác dụng của nghiên cứu ứng dụng thì chưaứng dụng được. Để hoàn toàn có thể đưa tác dụng nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn còn phải thực thi nghiên cứu triểnkhai. – Nghiên cứu tiến hành : là vận dụng những qui luật từ hiệu quả nghiên cứu ứng dụng và những nguyên lýthu được từ nghiên cứu tiến hành để thiết kế xây dựng quy mô trong thực tiễn. Đối với nghiên cứu tiến hành, cần quan tâm : + Các nguyên tắc và những giải pháp của nghiên cứu tiến hành vừa phải bảo vệ tính khoa học, nhưngphải khả thi ( khả thi về kỹ thuật và kinh tế tài chính ). + Các nguyên tắc và những giải pháp của nghiên cứu tiến hành vừa phải bảo vệ sự tăng trưởng trước mắtnhưng phải không thay đổi và vững chắc về lâu dài hơn. Muốn vậy cần phải phối hợp ngặt nghèo giữa kinh tế với xã hội vàmôi trường. 1.1.3 Phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp nghiên cứu khoa học là tập hợp tổng thể những giải pháp, phương pháp để nhận thức hiệntượng và sự vật. Cơ sở để kiến thiết xây dựng lên những phương pháp nghiên cứu khoa học gọi là phương pháp luận nghiên cứukhoa học. Đó là học thuyết về những phương pháp nghiên cứu khoa học, là cơ sở lý luận để kiến thiết xây dựng phươngpháp, hình thành những giải pháp trong tổng thể những quy trình tiến độ của hoạt động giải trí nghiên cứu khoa học. Cơ sở của phương pháp luận nghiên cứu khoa học là triết học Mác Lênin, gồm có Chủ nghĩa duy vật biệnchứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử dân tộc, mà một số ít quan điểm cơ bản có tương quan tới nghiên cứu khoa học là : – Xem xét sự vật không phải trong trạng thái tĩnh mà trong trạng thái hoạt động, biến hóa và phát triểnkhông ngừng. – Xem xét sự vật không phải trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. – Coi sự tăng trưởng của hiện tượng kỳ lạ là sự biến hóa từ từ từ số lượng sang sự đổi khác về chất lượng. – Coi sự tăng trưởng của hiện tượng kỳ lạ là sự thống nhất và đấu trnh giữa những mặt trái chiều. Tô Dũng Tiến ( 2005 ). – Coi thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức. a – Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp nghiên cứu khoa học được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo nhu yếu nghiêncứu. Xét một cách khái quát, phương pháp nghiên cứu khoa học được chia làm ba loại sau đây : – Phương pháp nghiên cứu triết lý : Là phương pháp nghiên cứu khoa học thuần tuý dựa trên cơsở giám sát, suy luận và phán đoán mà không qua bất kể một thực nghiệm khoa học nào. Ví dụ việc giám sát để phát hiện những hành tinh xa xôi của hệ mặt trời trước khi quan sát thấy hay việcphát hiện ra phản hạt ( của Paul Dirắc ) trước khi phát hiện thấy qua thực nghiệm trên máy gia tốc. Điều mê hoặc nhất đó là từ trong trí tưởng tượng, phản vật chất trở thành hiện thực, và mang tínhthuyết phục. Năm 1928, nhà vật lý người Anh Paul Dirac đã đặt ra một yếu tố : làm thế nào để tích hợp những địnhluật trong thuyết lượng tử vào trong thuyết tương đối đặc biệt quan trọng của Albert Einstein. Thông qua những bước tínhtoán phức tạp, Dirac đã vạch định ra hướng để tổng quát hóa hai thuyết trọn vẹn riêng rẽ này. Ông đã giảithích việc làm sao mọi vật càng nhỏ thì tốc độ càng lớn ; trong trường hợp đó, những electron có tốc độ gầnbằng tốc độ ánh sáng. Đó là một thành công xuất sắc đáng kể, nhưng Dirac không chỉ dừng lại ở đó, ông nhận rarằng những bước thống kê giám sát của ông vẫn hợp lệ nếu electron vừa hoàn toàn có thể có điện tích âm, vừa hoàn toàn có thể có điện tíchdương – đây là một hiệu quả ngoài tầm mong đợi. Dirac biện luận rằng, tác dụng khác thường này chỉ ra sự sống sót của một ” đối hạt “, hay ” phản hạt ” củaelectron, chúng hình thành nên một ” cặp ma quỷ “. Trên trong thực tiễn, ông quả quyết rằng mọi hạt đều có ” đối hạt ” của nó, cùng với những đặc thù tương đương, duy chỉ có sự trái chiều về mặt điện tích. Và giống như proton, neutron và electron hình thành nên những nguyên tử và vật chất, những phản proton, phản neutron, phản electron ( còn được gọi là positron ) hình thành nên phản nguyên tử và phản vật chất. Nghiên cứu của ông dẫn đếnmột suy đoán rằng hoàn toàn có thể sống sót một ngoài hành tinh “ ảo ” tạo bởi những phản vật chất này. Và Dự kiến của ông đã được kiểm chứng trong thí nghiệm của Carl Anderson vào năm 1932, cả hai ông đềuđược giải Nobel cho thành tựu ấy. – Phương pháp thực nghiệm : Là phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên những thực nghiệm, theonhững quy mô, trong đó những yếu tố được theo dõi là khống chế. Ví dụ nghiên cứu kỹ thuật trồng trọt, kỹthuật chăn nuôi. Trong kinh tế cũng vận dụng phương pháp nghiêm cứu thực nghiêm tuy ít. Ví dụ sắp xếp vềthực nghiệm dây truyền sản xuất, thiết kế xây dựng quy mô quỹ tín dụng nhân dân. Đây là phương pháp nghiên cứukhoa học trên cơ sở tổ chức triển khai những thực nghiêm khoa học ( như trên đã trình diễn ). Để vận dụng phương pháp nàyphải triển khai : – Tổ chức thực nghiệm theo trách nhiệm đã đặt ra – Tiến hành tích lũy tài liệu về số lượng và chất lượng qua những thực nghiệm. – Xử lý thông tin tích lũy được. – Tiến hành nghiên cứu và phân tích và rút ra những Kết luận khoa học. – Áp dụng hiệu quả nghiên cứu vào thực tiễn. Phương pháp thực nghiệm có tính năng là rút ra được những Tóm lại có độ đúng mực cao. Tuy nhiêntrong nghành kinh tế – xã hội, phương pháp này vận dụng có những hạn chế nhất định do tổng thể những yếu tốđều biến hóa nên rất khó cố định và thắt chặt những yếu tố không cần nghiên cứu trong thực nghiệm. – Phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm : Ngoài hai phương pháp trên, trong nghiên cứu khoa học, người ta còn vận dụng phương pháp tìm hiểu, khảo sát, miêu tả. Đó là phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm. Trong nghiên cứu kinh tế thường vận dụng phương pháp phi thực nghiệm. Trên cơ sở phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung đó, mỗi một khoa học lại có những phươngpháp nghiên cứu đơn cử tương thích với đặc thù riêng của bộ môn khoa học đó. Đối với khoa học kinh tế, có nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trong đó có những phương phápnghiên cứu hầu hết sau : 1.2 Quá trình nghiên cứu khoa học : Nghiên cứu khoa học là 1 quy trình phức tạp, nó bao gôm nhiều tiến trình với nhiều việc làm cụ thểkhác nhau. Quá trình nghiên cứu khoa học gồm có những bước : Bước 1 : Lựa chọn yếu tố nghiên cứuBước 2 : Miêu tả yếu tố, làm rõ và nổi bậtcâu hỏi nghiên cứuBước 3 : Thiết kế hay lập kế hoạch nghiêncứuBước 4 : Đo lường, tích lũy dữ liệuBước 5 : Phân tích số liệuBước 6 : Giải thích làm sáng tỏ số liệuBước 7 : Viết báo cáo giải trình hiệu quả, những kiếnnghị, thông tin cho người khácCác tiến trình đơn cử gốm : 1.2.1 Xác định đề tài nghiên cứu. Đề tài là một hình thức tổ chức triển khai NCKH do một người hoặc một nhóm người thực thi. Một số hìnhthức tổ chức triển khai nghiên cứu khác không trọn vẹn mang đặc thù nghiên cứu khoa học, ví dụ điển hình như : Chươngtrình, dự án Bất Động Sản, đề án. Sự độc lạ giữa những hình thức NCKH nầy như sau : • Đề tài ( topic ) : được thực thi để vấn đáp những câu hỏi mang tính học thuật, hoàn toàn có thể chưa chú ý đến việcứng dụng trong hoạt động giải trí trong thực tiễn. • Dự án ( project ) : được thực thi nhằm mục đích vào mục tiêu ứng dụng, có xác lập đơn cử hiệu suất cao về kinh tếvà xã hội. Dự án có tính ứng dụng cao, có ràng buộc thời hạn và nguồn lực. • Đề án ( proposal ) : là loại văn kiện, được thiết kế xây dựng để trình cấp quản trị cao hơn, hoặc gởi cho một cơquan hỗ trợ vốn để xin triển khai một việc làm nào đó như : xây dựng một tổ chức triển khai ; hỗ trợ vốn cho một hoạtđộng xã hội Sau khi đề án được phê chuẩn, sẽ hình thành những dự án Bất Động Sản, chương trình, đề tài theo yêucầu của đề án. • Chương trình ( programme ) : là một nhóm đề tài hoặc dự án Bất Động Sản được tập hợp theo một mục tiêu xác lập. Giữa chúng có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ thực thi đề tài, dự án Bất Động Sản trong chương trình khôngnhất thiết phải giống nhau, nhưng nội dung của chương trình thì phải đồng điệu. – Giải quyết thiết thực1 yếu tố của sản xuất và đời sống. a. Căn cứ để xác lập đề tài : – Do nhu yếu thực tiễn ( nhu yếu nghiên cứu lý luận hoặc nhu yếu cảu thực tiễn sản xuất ). – Do năng lượng của người nghiên cứu gồm có trình đó nghiên cứu, trang thiết bị, năng lực nguồn tàichính, điều kiện kèm theo tiến hành. b. Khi xác lập đề tài nghiên cứu cần quan tâm : – Tên đề tái phải phản ánh đúng nội dung cần nghiên cứu. – Tên đề tài phải ngắn, gọn nhưng đúng chuẩn và dễ hiểu. – Tên đề tài phải mê hoặc. 1.2.2 Xây dựng đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là 1 bản kế hoạch chỉ rõ những yếu tố cơ bản cần được xử lý thuộc phạmvi đề tài nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu được kiến thiết xây dựng để trình cơ quan và tổ chức triển khai hỗ trợ vốn phê duyệt và làm cơ sở để làmviệc trong nhóm nghiên cứu. Trong đề cương nghiên cứu cần thuyết minh những yếu tố sau : 1 – Lý do chọn đề tài ( tính cấp thiết của đề tài ). Khi thuyết minh nguyên do chọn đề tài, người nghiên cứu cần làm rõ 3 nội dung sau : – Phân tích được lịch sử vẻ vang nghiên cứu. – Làm rõ mức độï nghiên cứu của những đồng nghiệp đi trước để chỉ rõ để tài sẽ thừa kế những gì và tiếptục nghiên cứu ra làm sao. – Giải thích nguyên do chọn đề tài về kim chỉ nan cũng như thực tiễn về tính cấp thiết cũng như năng lựcnghiên cứu. 2 – Trình bày rõ tiềm năng nghiên cứu. Khi viết đề cương nghiên cứu, một điều rất quan trọng là làm thế nào biểu lộ được tiềm năng và mục đíchnghiên cứu mà không có sự trùng lấp lẫn nhau. Vì vậy, thiết yếu để phân biệt sự khác nhau giữa mục tiêu vàmục tiêu. • Mục đích : là hướng đến một điều gì hay một việc làm nào đó trong nghiên cứu mà người nghiên cứumong muốn để triển khai xong, nhưng thường thì mục tiêu khó hoàn toàn có thể đo lường và thống kê hay định lượng. Nói cáchkhác, mục tiêu là sự sắp xếp việc làm hay điều gì đó được đưa ra trong nghiên cứu. Mục đích trả lờicâu hỏi “ nhằm mục đích vào việc gì ? ”, hoặc “ để ship hàng cho điều gì ? ” và mang ý nghĩa thực tiễn của nghiêncứu, nhắm đến đối tượng người dùng ship hàng sản xuất, nghiên cứu. • Mục tiêu : là thực thi điều gì hoặc hoạt động giải trí nào đó đơn cử, rõ ràng mà người nghiên cứu sẽ hoànthành theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu hoàn toàn có thể thống kê giám sát hay định lượng được. Nóicách khác, tiềm năng là nền tảng hoạt động giải trí của đề tài và làm cơ sở cho việc nhìn nhận kế hoạch nghiêncứu đã đưa ra, và là điều mà tác dụng phải đạt được. Mục tiêu vấn đáp câu hỏi “ làm cái gì ? ”. Thí dụ : phân biệt giữa mục tiêu và tiềm năng của đề tài sau đây. Đề tài : “ Ảnh hưởng của phân N đến hiệu suất lúa Hè thu trồng trên đất phù sa ven sông ở Đồng Bằng SôngCửu Long ”. Mục đích của đề tài : Để tăng thu nhập cho người nông dân trồng lúa. Ngoài ra hoàn toàn có thể có mục tiêu khác mà tác giả không nói ra. Ví dụ như làm đề tài này để tác giả có công trìnhphục vụ cho việc phong học hàm, hay láy bằng tiến sỹ, thạc sỹ … Mục tiêu của đề tài : 1. Tìm ra được liều lượng bón phân N tối hảo cho lúa Hè thu. 2. Xác định được thời gian và cách bón phân N thích hợp cho lúa Hè thu. Lưu ý : Một số tài liệu chia tiềm năng nghiên cứu thành : Mục tiêu nghiên cứu thường có nục tiêu chung hay tiềm năng tổng quát ( tiềm năng cấp 1 ) và tiềm năng đơn cử ( tiềm năng cấp 2 ). Cũng hoàn toàn có thể mỗi tiềm năng cấp 2 lại gồm có những tiềm năng cụ thể hơn ( tiềm năng cấp 3 ). Như vậy sẽ hìnhthành nên cây tiềm năng, trong đó tiềm năng cấp dưới là công cụ để triển khai tiềm năng cấp trên, là luận cứ đểchứng minh hoặc bác bỏ giả thiết đã đặt ra ở tiềm năng cấp trên. Thông thường 1 đề tài nghiên cứu trong nghành nghề dịch vụ kinh tế gồm 1 tiềm năng chung và 3 hay 4 tiềm năng đơn cử ( lýluận, nghiên cứu và phân tích tình hình, xác lập nguyên do hoặc yếu tố tác động ảnh hưởng, nêu lên xu thế và giải pháp ). Khi kiến thiết xây dựng tiềm năng nghiên cứu, người ta thường nói đến tiêu chuẩn SMART ( Specific, Measurable, Achievable, Realistic, and Timable ). Một tiềm năng tốt phải đơn cử ( S ), thống kê giám sát được ( M ), phải đạt được ( A ), trong thực tiễn ( R ) và có đủ thời hạn ( T ). 3 – Xác định rõ đối tượng người dùng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu thường gồm có 2 phạm trù : Khách thể nghiên cứu và đối tượng người dùng khảo sát ( Vídụ : Cổ phần hoá doanh ghiệp Nhà nước ; kêu gọi và sử dụng vốn tín dụng thanh toán ). Xác định khách thể nghiên cứu là chỉ rõ nghiên cứu cái gì, nội dung nghiên cứu tập trung chuyên sâu vào yếu tố nào. Còn đối tượng người tiêu dùng khảo sát chính là thực thể mà trên đó ta tìm hiểu, khảo sát để tích lũy tình hình và số liệu. * Đối tượng nghiên cứu : là thực chất của sự vật hay hiện tượng kỳ lạ cần xem xét và làm rõ trong trách nhiệm nghiêncứu. 4 – Xác định khoanh vùng phạm vi nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu là 1 phần số lượng giới hạn của nghiên cứu tương quan đến đối tượng người tiêu dùng khảo sát và nội dungnghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu gồm có những số lượng giới hạn về nội dung, về khoảng trống và về thời hạn của đốitượng khảo sát * Phạm vi nghiên cứu : đối tượng người tiêu dùng nghiên cứu được khảo sát trong trong khoanh vùng phạm vi nhất định về mặt thời hạn, khoảng trống và lãnh vực nghiên cứu. 5 – Lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Ở đây cần chỉ rõ những phương pháp nào sẽ sử dụng trong nghiên cứu. có những phương pháp dượcsử dụng trong suốt quá trinh nghiên cứu đề tài ở nhiều nội dung khác nhau. Cũng có phương pháp nghiên cứuchỉ vận dụng để xử lý 1 vài nội dung riêng không liên quan gì đến nhau của đề tài. Do đó khi xác lập phương pháp nghiên cứucần chỉ rõ phương pháp đó được vận dụng để nghiên cứu nội dung nào. Cũng cần chứng tỏ được phương phápnghiên cứu được vận dụng là đáng đáng tin cậy, do đó những Kết luận rút ra là có địa thế căn cứ khoa học. 6 – Xác định nội dung nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu được xác lập địa thế căn cứ vào tiềm năng nghiên cứu. Việc xác lập đúng mực nộidung nghiên cứu không phải là thuận tiện. Nó yên cầu người kiến thiết xây dựng đề cương nghiên cứu phải hiểu biết khásâu sắc về yếu tố nghiên cứu, đặc biệt quan trọng là cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. Để xác lập được nội dungnghiên cứu, điều quan trọng là phải nêu lên được khá chinh xác những giả thuyết cần chứng tỏ hay bác bỏtrong qua trình nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu được phân loại ra những phần tuỳ theo đề tài nghiên cứu. Thông thường nội dungnghiên cứu được phong cách thiết kế gồm những phần bao quát từ trình diễn cơ sở lý luận và thực tiễn đến nghiên cứu và phân tích thựctrạng tinh hình, tìm nguyên do rồi tìm ra xu thế và giải pháp. Mỗi 1 phần lại có nội dung cụ thể phảnánh từng góc nhìn đơn cử của phần đó ( Ví dụ : Chuyển dịch cơ cấu tổ chức kinh tế theo hướng CNH, HĐH ). 7 – Lập list cộng tác viên. Danh sách cộng tác viên gồm có : – Người chủ trì. – Người tham gia. – Trong số những người tham gia hoàn toàn có thể phải xác lập người chủ trì từng bộ phận nếu câøn thiết. 8 – Xây dựng quá trình thực thi đề tài. Kế hoạch được kiến thiết xây dựng địa thế căn cứ vào nhu yếu của cơ quan giao đề tài. Kế hoạch này phải rất chi tiết cụ thể, trong đó có mấy bước quan trọng là kiến thiết xây dựng đề cương sơ bộ, thiết kế xây dựng đề cương chi tiết cụ thể, tích lũy tông tin, giải quyết và xử lý thông tin, viết báo cáo giải trình, nghiệm thu sơ bộ, nghiệm thu sát hoạch chính thức. Kế hoạch quá trình thường được xâydựng theo bảng theo mẫu sau : TT Tên việc làm Thời gian thực thi Địa điểm thực thi Kết quả dự kiến9 – Dự toán kinh phí đầu tư nghiên cứu. Dự toán kinh phí đầu tư gồm có : ngân sách lương, ngân sách nghiên cứu, ngân sách shopping tài liệu, trang thiết bị. Các loại ngân sách này thường được hướng dẫn khá chi tiết cụ thể bởi những cơ quan quản trị. 1.2.3 Tổ chức công tác làm việc nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu thường gồm có những bước sau : 1 – Thu thập thông tin. Công việc này được thực thi ngay từ khi nghiên cứu đêû xác lập đề tài và sẽ cụ thể hơn khi xâydựng đề cương, đặc biệt quan trọng khi đã có đề cương nghiên cứu, nhất là đề cương cụ thể thì thông tin cần thu thậpcàng phải cụ thể và tỉ mỉ hơn. Thông tin này gồm có cả số liệu và tình hình từ nhiều nguồn khác nhau, chiara thông tin thư cấp ( tài liệu có sẵn ) và thông tin sơ cấp ( tài liệu tìm hiểu ). Thông tin tích lũy phải phù hợpvới nội dung nghiên cứu, tránh thừa thãi và đặc biệt quan trọng nhất là không được thiếu sót. Muốn cung ứng được yêucầu trên thì viêc tích lũy thông tin phải xuất phát từ đề cương chi tiết cụ thể nghiên cứu đề tài. 2 – Xử lý thông tin. Thông thường, thông tin trong nghiên cứu khoa học được sử lý bằng máy vi tính. Ơû đây cần xácđịnh công cụ, phương tiện đi lại giải quyết và xử lý ( máy móc nào, ứng dụng gì ) và phương pháp giải quyết và xử lý ( những loại phân tổ thống10kê, những hàm sản xuất, những quy mô toán học. Tài liệu sau khi được giải quyết và xử lý sẽ được phản ánh bằng những bản thốngkê, những biểu đồ, đồ thị, những hàm toán học. Từ đó hoàn toàn có thể nghiên cứu và phân tích để rút ra những Kết luận khoa học. 3 – Viết báo cáo giải trình. Báo cáo khoa học là mẫu sản phẩm sau cuối và là loại sản phẩm công bố tiên phong trước cộng động nghiêncứu. Nó cũng là loại sản phẩm được trình diễn trước hội đôøng nhìn nhận và nghiêm thu đề tài. Vì vậy báo cáo giải trình cầnđược trinh bày một cách có xem xét không chỉ về nội dung mà cả hình thức, bố cụcVề cơ bản báo cáo giải trình được thiết kế xây dựng theo nhu yếu đựoc đặt ra ngay từ đầu khi bắt tay vào nghiên cứu. Báo cáo phải được kiến thiết xây dựng theo đúng nhu yếu của từng loại đề tài nghiên cứu. 1.2.4 Công bố tác dụng nghiên cứu. Công đoạn sau cuối của quy trình nghiên cứu khoa học, là công bố hiệu quả nghiên cứu. Trừ nhữngcông trinh tương quan đến bí hiểm vương quốc, những khu công trình khoa học phải được công bố. Một tác dụng nghiên cứu khoa học được công bố mang nhiều ý nghĩa như : – Đóng góp 1 nhận thức mới trong mạng lưới hệ thống tri thức khoa học. – Mở rộng sự trao đổi để tăng trưởng nghành nghề dịch vụ nghiên cứu. – Khẳn định về mặt chiếm hữu của người nghiên cứu so với mẫu sản phẩm của đề tài nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu hoàn toàn có thể được công bố trên báo, tạp chí chuyên ngành, cũng hoàn toàn có thể công bố trênphượng tiện thông tin đại chúng, trong những hội nghị khoa học, hội thảo chiến lược hoặc in thành sách. Chương IISUY LUẬN KHOA HỌC2. 1. Lý thuyết khoa họcDù nghiên cứu khoa học trong bất kể nghành nghề dịch vụ nào, người nghiên cứu cũng đụng chạm với những cơ sở lý thuyếtcủa khoa học. Lý thuyết là một đặc trưng cơ bản của khoa học, không có kim chỉ nan thì không có khoa học. 2.1.1 Lý thuyết khoa họcLý thuyết được xem là “ khuôn mẫu ” ( paradigm ) hiểu biết. Đơn giản hơn, kim chỉ nan còn được xem lànhững phát biểu về thực chất sự vật. Theo Stephen Hawking : “ triết lý phải thỏa mãn nhu cầu hai yên cầu : phải diễn đạt mạch lạc một lớp lớn cácquan sát trên cơ sở một quy mô gồm 1 số ít rất ít những yếu tố tùy hứng, đồng thời phải hoàn toàn có thể sử dụng môhình ấy để đoán trước những tác dụng quan sát trong tương lai ”. 2.1.2 Thế nào là “ khái niệm ” “ Khái niệm ” là quy trình nhận thức hay tư duy của con người mở màn từ những tri giác hay bằng những quansát sự vật hiện thực tác động ảnh hưởng vào giác quan. Như vậy, “ khái niệm ” hoàn toàn có thể hiểu là hình thức tư duy của conngười về những thuộc tính, thực chất của sự vật và mối liên hệ của những đặc tính đó với nhau. Vũ Cao Đàm ( 1999 ). 11N gười NCKH hình thành những “ khái niệm ” để tìm hiểu và khám phá mối quan hệ giữa những khái niệm với nhau, đểphân biệt sự vật này với sự vật khác và để giám sát thuộc tính thực chất của sự vật hay hình thành khái niệmnhằm mục tiêu thiết kế xây dựng cơ sở lý luận. Khái niệm là một trong những đối tượng người tiêu dùng của logic học và được định nghĩa là một hình thức tư duynhằm chỉ rõ thực chất vốn có của sự kiện khoa học. Khía niệm gồm có hai bộ phận : nội hàm và ngoại diên. Khái niệm hoàn toàn có thể trình diễn bởi một định nghĩa hoặc không hề định nghĩa được. Định nghĩa chính làviệc tách ngoại diên của khái niệm đó ra khỏi khái niệm gần nó và chỉ rõ nội hàm. Một khái niệm khoa học không hề hiểu theo nhiều nghĩa. ( Cho ví dụ minh họa ) 2.1.3 Mối quan hệ giữa những khái niệmLý thuyết khoa học gồm có những mối quan hệ thực chất của những sự kiện khoa học. Nó hoàn toàn có thể là định lý ( toán ), định luật ( lý ), nguyên tắc ( công nghệ tiên tiến ), quy luật ( khoa học xã hội ) … 2.2. Giả thuyết nghiên cứu ( hypothesis ) và phương pháp suy luận. Là một Kết luận giả định về mặt thực chất sự vật, do người nghiên cứu đưa ra để chứng tỏ hoặc bác bỏ. 2.2.1 Phán đoánTrong nghiên cứu, người ta thường vận dụng những khái niệm để phán đoán hay tiên đoán. Phán đoán là vậndụng những khái niệm để phân biệt, so sánh những đặc tính, thực chất của sự vật và tìm mối liên hệ giữa đặc tínhchung và đặc tính riêng của những sự vật đó. Phán đoán là một thao tác logic luôn được thực thi trong nghiên cứu khoa học. Phán đoán hoàn toàn có thể làphán đoán trong hiên tại, quá khứ hoặc tương lai. Phán đoán trong tương lai gọi là tiên đoán. Trong đời sống, con người luôn phải đưa ra những phán đoán. Có những phán đoán đơn thuần, co nhữngphán đoán phức tạp. Ví dụ : Trước khi đi thi sinh viên thường phán đoán giáo viên sẽ ra đề về phần nào trong môn học. Độchính xác của phán đoán này phụ thuộc vào rất nhiều vào năng lực chớp lấy yếu tố cốt lõi của bài giảng, nhữngđiểm nhấn của giáo viên khi giảng bài hay là những đề cũ đã sử dụng trong những năm qua. Trong nghiên cứu khoa học, phán đoán là tiền đề để tìm ra cái mới hay cái có tính nâng tầm. 2.2.2 Suy luậnCó 2 cách suy luận : suy luận “ suy diễn ” ( deductive method ) và suy luận “ qui nạp ” ( inductive method ) a ) Cách suy luận suy diễnTheo Aristotle, kỹ năng và kiến thức đạt được nhờ sự suy luận. Muốn suy luận phải có tiền đề và tiền đề đó đã đượcchấp nhận. Vì vậy, một tiền đề có mối quan hệ với Kết luận rất rõ ràng. Vũ Cao Đàm ( 1999 ). 12S uy luận suy diễn theo Aristotle là suy luận đi từ cái chung tới cái riêng, về mối quan hệ đặc biệt quan trọng. Lưuý rằng cái chung nằm trong cái riêng. Thí dụ về suy luận suy diễn của Aristotle trong Bảng 2.1. Bảng 2.1 Thí dụ về suy luận suy diễnTiền đề chính : Tất cả sinh viên đi học đều đặnTiền đề phụ : Nam là sinh viênKết luận : Nam đi học đều đặnSuy luận trên được diễn giải như sau : vì Nam là một cái riêng nằm trong toàn diện và tổng thể cái chung sinh viênnên Nam chứa những thuộc tính của toàn diện và tổng thể đó. b ) Suy luận qui nạpVào đầu những năm 1600 s, Francis Bacon đã đưa ra một phương pháp tiếp cận khác về kỹ năng và kiến thức khácphương pháp suy luận của Aristotle. Ông ta cho rằng, để đạt được kỹ năng và kiến thức mới phải đi từ thông tin riêngđến Tóm lại chung, phương pháp này gọi là phương pháp qui nạp. Phương pháp này được cho phép tất cả chúng ta dùngnhững tiền đề riêng, là những kỹ năng và kiến thức đã được gật đầu, như thể phương tiện đi lại để đạt được kiến thức và kỹ năng mới. Bảng 2.2 Thí dụ về suy luận qui nạpTiền đề riêng : Nam, Bắc, Đông và Tây tham gia lớp đều đặnTiền đề riêng : Nam, Bắc, Đông và Tây đạt được điểm caoKết luận : Sinh viên tham gia lớp đều đặn thì đạt được điểm caoSuy luận quy nạp hoàn toàn có thể phẫu thuật như sau : cần phải xác lập tiền đề chính ( gọi là giả thuyết ) và sau đóphân tích những kỹ năng và kiến thức có được ( nghiên cứu riêng ) một cách logic để Tóm lại giả thuyết. 132.3. Cấu trúc của phương pháp luận nghiên cứu khoa họcNghiên cứu khoa học phải sử dụng phương pháp khoa học : Phương pháp khoa học gồm có việc chọn phương pháp thích hợp ( hay đó chính là việc xây dựngluận chứng ) để chứng tỏ mối quan hệ giữa những luận cứ và giữa hàng loạt luận cứ với luận đề. Phương pháp khoa học cũng tương quan đến cách đặt giả thuyết hay phán đoán sử dụng những luận cứ vàphương pháp tích lũy thông tin cũng như giải quyết và xử lý thông tin để kiến thiết xây dựng luận đề. 2.3.1 Luận đềLuận đề vấn đáp thắc mắc “ cần chứng minh điều gì ? ” trong nghiên cứu. Như vậy, luận đề thực ra là một “ phán đoán ” hay một “ giả thuyết ” cần được chứng tỏ. Ví dụ : Ông cha ta có câu : “ con hư tại mẹ ” Đây là một luận đề cần phải chứng tỏ. Để chứng tỏ luận đề này ta phải tìm kiếm những luận cứ-đó là chứng cứ khoa học. 2.3.2 Luận cứĐể chứng tỏ một luận đề thì nhà khoa học cần đưa ra những dẫn chứng hay luận cứ khoa học. Luận cứ baogồm những thông tin, tài liệu tìm hiểu thêm ; quan sát và thực nghiệm. Luận cứ vấn đáp thắc mắc “ Chứng minh bằngcái gì ? ”. Các nhà khoa học sử dụng luận cứ làm cơ sở để chứng tỏ một luận đề. Có hai loại luận cứ đượcsử dụng trong nghiên cứu khoa học : • Luận cứ kim chỉ nan : gồm có những kim chỉ nan, vấn đề, tiền đề, định lý, định luật, qui luật đã được khoa họcchứng minh và xác nhận là đúng. Luận cứ triết lý cũng được xem là cơ sở lý luận. • Luận cứ thực tiễn : dựa trên cơ sở số liệu tích lũy, quan sát và làm thí nghiệm. Trong ví dụ trên, để chứng tỏ luận đề “ con hư tại mẹ ” người ta sử dụng phương pháp phỏng vấn những đứatrẻ hư hỏng ( một cách khôn khéo ). Kết quả cho thấy 30 % những đứa trẻ này thừa nhận mình hư hỏng do mẹquá nuông chiều, 50 % cho rằng mình hư hỏng là do bố rượu chè quá mức, còn 20 % cho rằng mình hư hỏngvì nguyên do khác. Như vậy tác dụng trên cho thấy luận đề “ con hư tại mẹ ” là không tương thích. 2.3.3 Luận chứngĐể chứng tỏ một luận đề, nhà nghiên cứu khoa học phải đưa ra phương pháp để xác lập mối liên hệ giữacác luận cứ và giữa luận cứ với luận đề. Luận chứng vấn đáp thắc mắc “ Chứng minh bằng cách nào ? ”. Trongnghiên cứu khoa học, để chứng tỏ một luận đề, một giả thuyết hay sự tiên đoán thì nhà nghiên cứu sửdụng luận chứng, ví dụ điển hình phối hợp những phép suy luận, giữa suy luận suy diễn, suy luận qui nạp và loại suy. Một cách sử dụng luận chứng khác, đó là phương pháp tiếp cận và tích lũy thông tin làm luận cứ khoa học, tích lũy số liệu thống kê trong thực nghiệm hay trong những loại nghiên cứu tìm hiểu. Vũ Cao Đàm ( 1999 ). 14T rong ví dụ trên, nếu có nhiều luận cứ ủng hộ quan điểm “ con hư tại mẹ ” ta hoàn toàn có thể xâu chuỗi nó lạithành một luận chứng. Ví dụ, hiệu quả tìm hiểu trên được thực thi ở vùng nông thôn nhỏ hẹp với mẫu chọnnhỏ, trong khi đó có cuộc tìm hiểu khác quy mô lớn hơn cho rằng 80 % những đứa trẻ hư hỏng là do mẹ quánuông chiều. Về mặt tâm lý học, người ta công nhận rằng thời hạn và sự gũi với con cái của người mẹ nhiều hơnbố vì thế ảnh hưởng tác động của mẹ đến con cháu cũng nhiều hơn bố. Đây được xem là luận cứ kim chỉ nan cho luận đề “ con hư tại mẹ ”. 2.4. Phương pháp khoa học2. 4.1 Phương pháp khoa học ( PPKH ). Những ngành khoa học khác nhau cũng hoàn toàn có thể có những PPKH khác nhau. Ngành khoa học tự nhiênnhư vật lý, hoá học, nông nghiệp sử dụng PPKH thực nghiệm, như thực thi sắp xếp thí nghiệm để tích lũy sốliệu, để lý giải và Tóm lại. Còn ngành khoa học xã hội như nhân chủng học, kinh tế, lịch sử dân tộc … sử dụngPPKH tích lũy thông tin từ sự quan sát, phỏng vấn hay tìm hiểu. Tuy nhiên, PPKH có những bước chungnhư : Quan sát sự vật hay hiện tượng kỳ lạ, đặt yếu tố và lập giả thuyết, tích lũy số liệu và dựa trên số liệu để rút rakết luận ( Bảng 2.4 ). Nhưng vẫn có sự khác nhau về quy trình tích lũy số liệu, giải quyết và xử lý và phân tích số liệu. Bảng 2.4 Các bước cơ bản trong phương pháp khoa họcBước Nội dung1 Quan sát sự vật, hiệntượng2 Đặt yếu tố nghiên cứu3 Đặt giả thuyết hay sự tiênđoán4 Thu thập thông tin hay sốliệu thí nghiệm5 Kết luận15Chương IIINHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ3. 1 Tích luỹ tài liệu trong nghiên cứu kinh tế. Để nghiên cứu kinh tế, tất cả chúng ta cần rất nhiều tài liệu. Tích lũy tài liệu là khâu quan trọng trong bước đầu trong qúatrình nghiên cứu khoa học. Tài liệu càng không thiếu, đúng mực, kịp thời thì việc làm nghiên cứu càng đượcthuận lợi, những Tóm lại rút ra càng bảo vệ tính khoa học. Tuy nhiên, nếu quá nhiều tài liệu mà không có cáchxắp xếp khoa học hoàn toàn có thể làm người nghiên cứu bị nhiễu thông tin. Vì vậy trong quy trình nghiên cứu, sinhviên cần tinh lọc những tài liệu tìm hiểu thêm. Tài liệu trong nghiên cứu kinh tế có 5 nguồn : – Từ sách báo. – Từ tìm hiểu. – Từ tổng kết kinh nghiệm tay nghề trong thực tiễn. – Từ thực nghiệm khoa học. – Từ tính toán3. 1.1 Tích luỹ tài liệu từ nguồn sẵn có trong sách báo. Đây là nguồn tài liệu tiên phong được tiếp cận nghiên cứu nó rất quan trọng vì nó cung ứng cho tất cả chúng ta cáinhìn bao quát về yếu tố nghiên cứu, về những tác dụng nghiên cứu cũng như phương pháp tiếp cận đã đượcthực hiện. Khi sẵn sàng chuẩn bị bắt tay vào nghiên cứu, việc làm tiên phong là phải tìm đọc những sách báo tương quan. a – Tác dụng của sách báo : – Cung cấp lý luận cơ bản tương quan đến đề tài. – Cung cấp thông tin về tình hình tình hình. – Cung cấp những xu thế và giải pháp cơ bản. – Cho biết tình hình nghiên cứu trong nghành đang chăm sóc. b – Nguồn tài liệu từ sách báo : – Các nghị định, thông tư, luật … cung ứng những chủ trương chủ trương của Đảng và Nhà nước từTrung ương đến địa phương – Sách tìm hiểu thêm hay giáo khoa cung ứng những yếu tố lý luận. – Các thông tin được công bố trên những báo và những tạp chí ( đặc biệt quan trọng là tạp chí chuyên ngành ). – Các khu công trình khoa học gồm có những đề tài nghiên cứu thuộc những cấp, những luận văn, luận án từ cửnhân đến thạc sĩ tiến sỹ. – Số liệu thông kê từ những cấp thuộc hệ thống kê Nhà nước và thống kê những ngành. – Các báo cáo giải trình tại địa phương, những cơ quan, những cơ sở sản xuất. 16 – tin tức trên mạng internet. c-Cách đọc và ghi chép. Trong thời kỳ bùng nổ thông tin, tài liệu tìm hiểu thêm rất đa dạng chủng loại. Vấn đề đặt ra là làm thế nào đọc được nhanhchóng và tích lũy được những thông tin thiết yếu. Cách đọc : Mỗi người trong quy trình đọc sẽ tự tìm ra cho mình phương pháp đọc sao cho có hiệu suất cao. Đốivới mỗi ấn phẩm, không nên đọc tràn ngập mà cần sớm tìm ra những chỗ cần đọc. Trong quy trình đọc cũngcần rút ra kinh nghiệm tay nghề sao cho đọc được nhanh gọn. d – Phân loại thông tin thu nhập được. Thông tin tích lũy được qua sách báo thương tương quan đến nhiều nội dung khác nhau thuộc đề tài nghiêncứu. Để thuận tiện cho việc sử dụng cần sớm phân loại. Thông thường những thông tin tích lũy được người taghi vào những phiếu riêng không liên quan gì đến nhau đã được phân loại ngay từ đầu hoặc tàng trữ vào máy tính theo thư mục đãđịnh sẵn. Việc sớm phân loại thông tin sẽ tránh sự lộn xộn về tài liệu và tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho công tác làm việc xử lýthông tin về sau. e – Tổng hợp tài liệu trong quy trình đọc. Khi tìm hiểu thêm được 1 số ít tài liệu nhất định cần được tổng hợp lại. Trong quy trình tổng hợp, tất cả chúng ta sẽbiết được những quan điểm của những tác giả khác nhau về nghành đang chăm sóc. Từ đó hoàn toàn có thể phân loại ra cácnhóm quan điểm khác nhau, tìm quan điểm cho là tương thích nhất hoặc hoàn toàn có thể tâm lý trên những yếu tố đangxem xét. Làm như vậy người nghiên cứu đã biến kiến thức và kỹ năng sách vở thành kiến thức và kỹ năng của mình. ( Giải thích kỹ càng cho sinh viên về yếu tố này và nhắc nhỡ sinh viên về yếu tố tích luỹ kỹ năng và kiến thức qua đọcsách báo ). Lưu ý : Với sự tương hỗ của máy tính, người đọc tài liệu tìm hiểu thêm hoàn toàn có thể ghi chép ngay trên máy tính : * Mở 1 file trong word processing : Cách ghi chép thô : Ghi trích đoạn nguyên văn hoặc tóm lược thô những thông tin tương quan đến đề tài và phải kèm nguồn của thôngtin. Cụ thể, trong khi ghi chép phải ghi nguồn tài liệu đã sử dụng gồm có tên tác giả, tên tác phẩm, nhà xuấtbản, năm xuất bản, trang sử dụng. Đây là yếu tố quan trọng và là nhu yếu bắt buộc so với người sử dụng tàiliệu trong nghiên cứu khoa học. Làm như vậy cũng biểu lộ sự tráng lệ của người nghiên cứu, không mậpmờ giữa phát minh sáng tạo của mình với phát minh sáng tạo của người khác và nhất là không chiếm hữu thành quả lao độngkhoa học của người khác. Ở file này tất cả chúng ta không cần xắp xếp theo nội dung mà chỉ liệt kê những nội dung tương quan đến đề tài. * Xắp xếp theo cấu trúc phần cơ sở lý luận. Từ file trên tất cả chúng ta xắp xếp theo cấu trúc của phần cơ sở lý luận mà ta kiến thiết xây dựng trong một file mới. 17 * Đọc và viết lại những trich dẫn : Từ file thô trên tất cả chúng ta đọc, tổng hợp, tinh lọc và viết lại nhưng phải bảo vệ tính lôgic. Ngoài ra ngườiviết hoàn toàn có thể so sánh, lồng ghép những yếu tố lại với nhau hoặc đưa những nhận định và đánh giá của mình vào bài viết. Như vậy trải qua ba bước trên, người nghiên cứu sẽ có một cái nhìn tổng quát và có ngay phần ” tổng quan tài liệu ”. ( Xem kỹ thêm bước d và e ). Hiện nay, internet là một phương tiện đi lại tốt để sinh viên khai thác những tài liệu. Tuy nhiên người khaithác tài liệu trên internet cần chú ý quan tâm : Chọn thông tin chính thống : Thông thường những tạp chí khoa học được chia thành tạp chí SCI ( rất tốt ), SCIE ( tốt và rất tốt ) và cáctạp chí khác. Tạp chí SCI và SCIE do ISI liệt kê ( indexing ) dựa trên số lượng trích dẫn. Như vậy, những bài báothuộc những tạp chí này có chất lượng. Các tạp chí được liệt kê trong hạng mục những tạp chí tính điểm phong hàm GS, PGS theo Quyết địnhsố 207 / QĐ-HĐCDGSNN năm 2009. – Các tạp chí khoa học của những trường ĐH trong nước. Ghi nhớ : ” Tam sao thất bổn ” – nên tìm hiểu thêm tài liệu gốc ! 3.1.2 Tổ chức tìm hiểu để tích lũy số liệu. a ) Sự thiết yếu phải tìm hiểu để tích lũy số liệuNguồn tài liệu từ sách báo tuy rất nhiều mẫu mã nhưng không hề bao quát đẩy đủ mọi thông tin thiết yếu choquá trình nghiên cứu, nhất là những thông tin cụ thể tại địa phận nghiên cứu. Vì vậy cần phải tổ chức triển khai tìm hiểu đểthu thập số liệu. b ) Về hình thức tổ chức triển khai tìm hiểu : Có hai hình thức tổ chức triển khai tích lũy số liệu : – Điều tra theo kiểu báo cáo giải trình thống kê định kì : Là hình thức tổ chức triển khai tích lũy tài liệu được tiến hànhtrên cơ sở ghi chép tiếp tục theo sổ sách, chứng từ đã được chuẩn bị sẵn sàng sẵn. – Điều tra trình độ : Là hình thức tổ chức triển khai tích lũy số liệu được triển khai theo một kế hoạch vàphương pháp riêng cho mỗi lần tìm hiểu. c ) Xây dựng giải pháp tìm hiểu : Để tích lũy số liệu cần phải kiến thiết xây dựng giải pháp tìm hiểu. Nội dung dung của giải pháp tìm hiểu gồm có : – Xác định mục tiêu tìm hiểu. – Xác định đối tượng người dùng tìm hiểu và đơn vị chức năng tìm hiểu. – Xác định nội dung tìm hiểu. – Xây dựng bảng tìm hiểu và bảng lý giải. – Xác định phương pháp tìm hiểu. 18 – Xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai tìm hiểu. d ) Xác định khoanh vùng phạm vi tìm hiểu : Xét về khoanh vùng phạm vi tìm hiểu, hoàn toàn có thể chia làm hai loại : Điều tra hàng loạt : Là tìm hiểu triển khai trên toàn bộ những đơn vị chức năng tổng thể và toàn diện. Điều tra hàng loạt có ưu điểm là phân phối cho tất cả chúng ta sốliệu có độï đúng chuẩn cao, độ an toàn và đáng tin cậy lớn. Tuy nhiên tìm hiểu hàng loạt rất tốn kém và khó bảo vệ tính đầy đủvà kịp thời của số liệu. Điều tra bộ phận : Là tìm hiểu chỉ triển khai ở một bộ phận toàn diện và tổng thể. Điều tra bộ phận phân phối cho tất cả chúng ta số liệu tuy có độchính xác và độ đáng tin cậy kém hơn tìm hiểu hàng loạt nhưng đỡ tốn kém và nâng cao được tính không thiếu và kịp thờicủa số liệu. Điều quan trọng so với tìm hiểu bộ phận để tích lũy số liệu nghiên cứu khoa học là phải bảo vệ tính đạibiểu của mẫu tìm hiểu. Muốn vậy phải xử lý hai yếu tố là xác lập số đơn vị chức năng mẫu và cách lựa chọn đơnvị mẫu để điều ra. • Ước lượng kích cỡ mẫu : Xuất phát từ công thức : / 2 / 2 z zx xn nα ασ σ − < < + Nếu ta gọi / 2 ∆ = là một nửa khoảng chừng đáng tin cậy. Khi n đủ lớn, ta đễ dàng xác lập công thức tính số đơn vịmẫu cung ứng nhu yếu nghiên cứu như sau : 2 21, / 2 ( ) Như vậy trong tìm hiểu chọn mẫu, số đơn vị chức năng mẫu phụ thuộc vào vào : - Độ an toàn và đáng tin cậy : Độ đáng tin cậy càng cao ( t lớn, tức Phần Trăm nhu yếu lớn ) thì số đơn vị chức năng mẫu càng lớn. - Độ đúng mực ( ) ( 50% khoảng chừng an toàn và đáng tin cậy ) : độ đúng chuẩn càng cao, tứccàng nhỏ, thì số đơn vị chức năng mẫu càng phảilớn. Tuỳ theo nhu yếu của cuộc tìm hiểu mà ta xác lập độ đúng chuẩn và độ đáng tin cậy sao cho hài hòa và hợp lý dể đảmbảo được nhu yếu nhưng số mẫu tìm hiểu không quá lớn. Về kim chỉ nan thì giữa độ đúng mực vá độ an toàn và đáng tin cậy cósự xích míc với nhau : Yêu cầu độ đúng chuẩn càng cao thì độ đáng tin cậy lại giảm đi và ngược lại. Do đó tuỳ thaoyêu cầu của công tác làm việc nghiên cứu mà xác lập đọ đúng chuẩn và độ đáng tin cậy sao cho tương thích. Trong trường hợpđảm bảo độ đúng chuẩn và độ an toàn và đáng tin cậy đều phải cao thì số đơn vị chức năng mẫu tìm hiểu sẽ lớn. 19C húng ta chú ý quan tâm rằng trong những công thức tính trên, ta gặp một khó khăn vất vả là không biết trước phươngsai của tổng thể và toàn diện chung. Khó khăn này được xử lý như sau : 1 - Lấy phương sai của lần tìm hiểu trước. Nếu trước đó có nhiều lần tìm hiểu thì lấylớn nhất. 2 - Có thể lấycủa cuộc tìm hiểu tựa như triển khai ở địa phương lân cận. 3 - Cũng hoàn toàn có thể thực thi tìm hiểu thử một mẫu, sau đó tính phương sai mẫu ( s ) thay cho phương saitổng thể chung. Người ta đã chứng tỏ được phương sai chung và phương sai mẫu không khác nhau đángkể nếu số đơn vị chức năng mẫu không quá nhỏ. Điều đó bộc lộ qua công thức về mối liên hệ giữa phương sai chungvà phương sai mẫu mà khoa học thống kê đã kiến thiết xây dựng như sau : 22N ếu n càng lớn thi phương sai của toàn diện và tổng thể và phương sai của mẫu càng gần bằng nhau. + Phương pháp chọn mẫu tìm hiểu. Để bảo vệ tính đại diện thay mặt của mẫu, ngoài việc xác lập đúng chuẩn số đơn vị chức năng mẫu còn phải thực thi chọn đơnvị mẫu tìm hiểu theo đúng phương pháp khoa học. Nguyên tắc chung khi chọn đơn vị chức năng đơn cử ra để tìm hiểu làphải bảo vệ tính khách quan. Việc chọn mẫu hoàn toàn có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau. Thống kê thườngdùng những cách sau : - Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn thuần. - Chọn mẫu máy móc. - Chọn mẫu phân loại. - Chọn mẫu cả khối. - Chọn mẫu nhiều cấp. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn thuần : Là phương pháp tổ chức triển khai chọn mẫu từ toàn diện và tổng thể chung một cách hếtsức ngẫu nhiên không qua sự sắp xếp nào. Chẳng hạn rút thăm, quay số, hoặc dùng bảng số ngẫu nhiên. Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn thuần hoàn toàn có thể cho hiệu quả tốt nếu trị số của những đơn vị chức năng tổng thểkhông khác nhau nhiều. Nếu toàn diện và tổng thể chung có cấu trúc phức tạp thì chọn theo phương pháp này khó đảm bảotính đại biểu. Mặt khác, so với những tổng thể và toàn diện lớn thì việc rút thăm trở nên rất phức tạp. Chọn mẫu máy móc : là phương pháp tổ chức triển khai chọn mẫu, trong đó những đơn vị chức năng được lựa chọn từ tổngthể chung theo khoảng cách thời hạn, khoảng trống hoặc thứ hạng bằng nhau. Chẳng hạn xếp theo thứ tựABC, theo số nhà, theo ngõ xóm. Chọn mẫu phân loại : Để chọn mẫu phân loại, thứ nhất phân loại tổng thể và toàn diện thành những tổ, nhóm có độthuần nhất cao ( trong cùng một tổ hay nhóm, những đơn vị chức năng phải có đặc thù giống nhau ). Sau đó chọn những đơnvị đại diện thay mặt cho từng tổ theo cách chọn ngẫu nhiên hoặc chọn máy móc. Số đơn vị chức năng chọn ra cho mỗi tổ thường20tỷ lệ với số đơn vị chức năng trong tổ. Khi đó gọi là chọn nổi bật theo tỷ suất. Cách chọn này thường cho mẫu có tínhđại diện cao, nhất là khi phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Chọn mẫu cả khối : Là phương pháp tổ chức triển khai chọn mẫu mà mỗi lần lấy ra không phải là một đơn vị chức năng màlà một khối đơn vị chức năng. Ví dụ : thuốc lá kiểm tra cả tút, loại sản phẩm sản phẩm & hàng hóa lấy ra trong một lô hàng. Ưu thế củacách chọn này là đơn thuần nhưng thường có sai số lớn, nhất là khi có những không bình thường xảy ra. Chọn mẫu nhiều cấp : Trong trường hợp những đơn vị chức năng toàn diện và tổng thể phân tán quá rộng và thiếu thông tin vềchúng, người ta triển khai chọn mẫu nhiều cấp. Chẳng hạn để tìm hiểu đời sống nông dân trong cả nước, cóthể chọn mẫu theo ba cấp như sau : - Đơn vị mẫu cấp 1 : Chọn những tỉnh, thành phố đại diện thay mặt. - Đơn vị mẫu cấp 2 : Trong những tỉnh, thành phố đã chọn, chọn ra những quận huyện đại diện thay mặt. - Đơn vị mẫu cấp 3 : Trong những Q., huyện đã chọn, chọn ra những hộ để tìm hiểu. Việc chọn mẫu ở mỗi cấp hoàn toàn có thể thực thi theo phương pháp chọn ngẫu nhiên đơn thuần, máy móc hayphân loại. 3.1.3 Tổng kết kinh nghiệm tay nghề của những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển. a ) Lý do : Phương pháp thống kê chỉ dùng để nghiên cứu những thuộc tính của tổng thể và toàn diện, mang tính đại diện thay mặt. Do đó cácđơn vị riêng biệt bị che lấp và thường thì thống kê học vô hiệu những thành viên này như là thành viên dị biệt ( outliers ). Bản chất những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển là riêng biệt ở hiện tại. Mặc dù những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển không ảnh hưởng tác động đáng kể tớitổng thể nhưng là tác nhân mới, tác nhân tích cực, trong tương lai hoàn toàn có thể sẽ là thông dụng, có công dụng quyết địnhđến sự tăng trưởng của tổng thể và toàn diện. Do đó tổng kết được kinh nghiệm tay nghề của những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển sẽ giúp ta nhận thứcsâu sắc hơn về thực chất của hiện tượng kỳ lạ, từ đó được cho phép rút ra những Tóm lại có địa thế căn cứ khoa học. b ) Phương pháp tiến hànhĐiều quan trọng là qua tổng kết rút kinh nghiệm tay nghề của những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển, ta phải nghiên cứu và phân tích cho được nguyênnhân hoặc những yếu tố thôi thúc đơn vị chức năng trở thành tiên tiến và phát triển và từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề cầnthiết. Kinh nghiệm của những đơn vị chức năng tiên tiến và phát triển, một mặt giúp người nghiên cứu có cơ sở chắc như đinh hơn trongviệc nhìn nhận tình hình tình hình, mặt khác là những gợi ý rất là quan trọng cho việc xác lập định hướngvà những giải pháp để xử lý yếu tố. 3.2 Xử lý số liệu. Xử lý số liệu là một khâu quan trọng. Số liệu tích lũy được trong nghiên cứu kinh tế có nhiều nguồn và giátrị của những số liệu này cũng rất khác nhau do đó phải giải quyết và xử lý trước khi sử dụng. 213.2.1 Đối với số liệu thứ cấp. Trước tiên tất cả chúng ta cần vô hiệu những số liệu kém giá trị. Để đơn thuần tất cả chúng ta cần so sánh những nguồn sốliệu với nhau. Ví dụ loại bổ những số liệu khác thường ( outliers ). Việc thống kê giám sát lại lại số liệu trên cơ sở tôntrọng số liệu gốc. Hơn nữa, tất cả chúng ta phải thống nhất về mặt đơn vị chức năng : ví dụ điển hình quy đổi sào thước ra ha hoặctính toán lại theo cùng một mặt phẳng giá. Ví dụ 1 : GDP của Trung Quốc trong thời kỳ 2005 - 2010 như sau : Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010GDP ( tỷ USD ) 2.2572.7134.4944.5204.9005.000 Trong đó từ 2005 đến 2008 tính theo giá cố định và thắt chặt 2004 được lấy từ nguồn WB, trong khi đó số liệu từ2009 đến năm 2010 tính theo giá cố định và thắt chặt năm 2008 lấy từ ADB.Như vậy, tất cả chúng ta không hề so sánh GDP Trung Quốc năm 2010 với GDP của Trung Quốc năm 2005 được. Do đó tất cả chúng ta phải đưa chúng về chung một gốc, ví dụ lấy năm gốc là 2004. Để đưa số liệu năm 2009 và 2010 về năm gốc 2004 ta chỉ cần chia số liệu đó với chỉ số giá ( chỉ số khử lạm phát kinh tế ) năm 2008 so với năm2004. 3.2.2 Đối với số liệu sơ cấp. Đây là số liệu tìm hiểu khởi đầu thường được gọi là số liệu thô. Những số liệu này rất đa dạng và phong phú và phản ánhchi tiết về từng đơn vị chức năng của tổng thể và toàn diện, tuy nhiên không nói lên đặc thù chung của cả hiện tượng kỳ lạ nghiên cứu. Do đó cần được tổng hợp, hệ thống hóa lại mới hoàn toàn có thể sử dụng trong nghiên cứu và phân tích được. Phương pháp cơ bản để tổng hợp và hệ thống hóa số liệu tìm hiểu là phương pháp phân tổ thống kê. Phân tổ thống kê là địa thế căn cứ vào một hay một vài tiêu thức nào đó để phân loại toàn diện và tổng thể thành những tổ hoặccác tiểu tổ có đặc thù khác nhauVí dụ : Căn cứ vào tiêu thức giới tính để phân loại sinh viên trong lớp thành hai tổ là nam và nữ ; địa thế căn cứ vàotrình độ tăng trưởng kinh tế phân loại những hộ nông dân thành năm tổ : đói, nghèo, trung bình, khá và giàu. Lý luận phân tổ bắt nguồn từ bản thân những hiện tượng kỳ lạ kinh tế và xã hội mà thông kê nghiên cứu. Đó lànhững hiện tượng kỳ lạ phức tạp, luôn gồm có những nhóm, những bộ phận có quy mô khác nhau, đặc thù khác nhau, tăng trưởng theo những khuynh hướng khác nhau. Do đó để trải qua mặt lượng hiểu được thực chất và quy luậtphát triển của hiện tượng kỳ lạ trong điều kiện kèm theo và thời hạn đơn cử, tất cả chúng ta không hề nghiên cứu chung cả tổngthể mà từng đi sâu xem xét từng bộ phận, từng nhóm, nghiên cứu đặc trưng của chúng cũng như mối liên hệcủa chúng với nhau. Do đó tổng hợp thống kê phải được triển khai trên cơ sở phân tổ thống kê. • Những yếu tố cần được xử lý khi thực thi phân tổ thống kêTô Dũng Tiến ( 2005 ). 22