Phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du: Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang…

Ngoài kiệt tác Truyện Kiều, thi hào dân tộc Nguyễn Du còn để lại cho ba tập thơ chữ Hán, phần lớn nói về tâm sự của nhà thơ. Độc Tiểu Thanh kí là một bài thơ hay của Nguyễn Du, nhà thơ viết về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh và cũng chính là tâm sự của ông với đời.

Cũng như Truyện Kiều, Nguyễn Du (trong bài thơ này) đã viết về một người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Nàng Tiểu Thanh là một cô gái có sắc, có tài sống vào đầu đời Minh (Trung Quốc), vì lấy làm lẽ một người tên Phùng, nàng bị vợ cả ghen, bắt ở một ngôi nhà trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ nên buồn mà chết lúc mới mười tám tuổi. Cô đơn là thế, bạc mệnh là thế, khi nàng chết rồi, còn một tập thơ còn sót lại cũng bị vợ cả ghen mà đốt đi, chỉ còn vương lại vài bài. Thế là, Tiểu Thanh khi còn sống cũng như khi đã chết rồi vẫn còn bị đối xử bất công và tàn ác, vẫn chưa được yên, vẫn còn cô đơn. Không chỉ còn là nỗi đau nữa mà còn là hận. Hận chẳng thể nào nguôi.

Tiểu Thanh lúc còn sống trong ngôi nhà ở núi Cô Sơn

Mượn cảnh thực (Tây Hồ ở Trung Quốc) người thực (nàng Tiểu Thanh đã chết cách đây ba trăm năm) Nguyễn Du làm bài thơ để thổ lộ đồng cảm, đồng điệu về tâm hồn của mình với những con người cô đơn bạc mệnh mà tài hoa bị vùi dập. Nhà thơ thổn thức trước một vẻ đẹp lý tưởng đã tiêu tan. Tây Hồ còn đây, mảnh giấy tàn tức tập thơ của nàng Tiểu Thanh bị đốt còn sót lại còn đây mà Tiểu Thanh lúc còn sống trong ngôi nhà ở núi Cô Sơn. Đó cũng chính là hình ảnh của ngày vàng son của đất nước, nuối tiếc về những ngày trai trẻ đầy tài hoa của mình giữa những con người tài hoa ở đấy La Thành, quê hương tác giả như đã có lần nhắc đến trong thơ ông (tráng niên ngã diệt vì tài giả: thời trẻ tuổi ta cũng là kẻ có tài năng).

Hai câu thực:

Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nhà thơ đã nêu cụ thể nỗi đau của nàng Tiểu Thanh bằng cách nhân hoá những vật dụng và dư ảo của nàng, bằng cách thần cho son phấn, tạo mệnh cho văn chương. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du được bộc lộ rõ qua những câu thơ có hồn này, làm cho câu thơ có sức nặng. Đến như những vật vô tri như son phấn, văn chương bị chôn vẫn còn hận, bị đốt vẫn còn vương, thử hỏi rằng con người thì sao? Nàng Tiểu Thanh bị đau đớn, bị dằn vặt, bị phũ phàng như thế sao không hận, cái hận về thể xác, bị vùi dập, cái hận vì tài năng bị chôn vùi. Làm sao Tiểu Thanh không hận được, một khi văn chương là máu, là nước mắt của nàng. Đó cũng chính là cái hận của Nguyễn Du, ông cũng gán cái mệnh vào văn chương để xót thương cùng Tiểu Thanh.

Đến hai câu luận:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.

Là tiếp tục cái niềm thương cảm, chỉ có điều là niềm thương cảm ấy, cái hận ấy là muôn đời, không sao giải thoát được. Người đã chết đem theo mối hận vào lòng đất để rồi vĩnh viễn bị chôn chặt, người còn sống (chính nhà thơ) phải tự mang. Nguyễn Du đã hoà cái cảm xúc, cái nghịch cảnh đó vào cùng với Tiểu Thanh, người đã chết ba trăm năm trước. Thử hỏi: người đang sống, kẻ phong lưu tài hoa như nhà thơ thì có tội gì, vì sao phải hoá thân vào người đã chết để nói lên tâm trạng của mình. Phải chăng là xã hội bất công đã đố kỵ với tài năng của ông, đã bóp chết tâm hồn ông. Như thế, cái hận mà nhà thơ phải mang nặng biết chừng nào, cái hận không biết nói cùng ai, chỉ có thể chia sẻ với người cùng cảnh ngộ, kẻ tài tử gặp nhân là ở chỗ đó. Cái đớn đau, nỗi bế tắc của họ làm nhức nhối trái tim ta.

Nàng Tiểu Thanh là một cô gái có sắc, có tài sống vào đầu đời Minh (Trung Quốc)

Nếu như ở sáu câu thơ trên, Nguyễn Du lồng cảm xúc, nỗi đớn đau của mình vào Tiểu Thanh, thương cảm cho thân phận người con gái tài sắc là để ẩn ý tự thương mình, hai câu thơ cuối nhà thơ nói thẳng với độc giả bằng một câu hỏi:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Nguyễn Du đã đặt câu hỏi ra với đời, với muôn đời: liệu ba trăm năm lẻ, có thể là hơn ba trăm năm sau, có ai khóc Tố Như (hiệu của Nguyễn Du) chăng? Nàng Tiểu Thanh sau ba trăm năm thì đã có ít ra một người là nhà thơ khóc thương nàng. Câu hỏi đặt ra cho đời cũng là cho mình không lời đáp, bị rơi tõm vào hư không. Nói với quá khứ, nói với tương lai như thế, thổn thức về một người đàn bà cách ông ngàn dặm, chết đã ba trăm năm, ta như thấy Nguyễn Du thổn thức trăn trở biết bao!

Không phải chỉ một người, mà là cả dân tộc ta, cả nhân loại tiến bộ nữa‘chỉ hai trăm năm, đã long trọng kỷ niệm ngày sinh của thi hào, ghi tên ông vào danh sách những danh nhân văn hoá của thế giới. Hẳn là, Nguyễn Du và những nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh ở dưới suối vàng cũng ngậm cười, nỗi hờn kim cổ của họ đã được trả, thân phận con người, nhất là người phụ nữ được giải phóng khỏi những áp bức, bất công và đã được coi trọng về tài năng, địa vị xã hội, đã được tự do yêu thương và sống hạnh phúc.