PHẦN I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MỸ HỌC – Tài liệu text
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.68 KB, 45 trang )
của Paplop có ý nghóa phương pháp luận sâu sắc. Ta có thể rút ra 3 nhận xét qua câu nói
của ông:
1. Mỗi hiện tượng và sự vật trong tự nhiên và xã hội đều có nhiều mặt khác nhau
(mặt vật lý, mặt hóa học, mặt thẩm mỹ…).
2. Mỗi người (nhà vật lý, nhà hóa học, nhà nghệ sỹ…)khi tiếp cận tới muôn vật
muôn loài, tùy quan điểm, mục đích của mình mà quan tâm tới mặt này hay mặt kia của
sự vật và hiện tượng
3. Do mỗi chủ thể có từng đối tượng xác đònh mà nảy sinh ra những quan hệ không
giống nhau (quan hệ vật lý, quan hệ hóa học, quan hệ thẩm mỹ…).
Các nhà sáng lập ra Chủ nghóa Marx – Lê nin cũng có những ý kiến tương tư.ï
K.Marx chỉ rõ: một bộ bàn ghế kê ở nhà thì có giá trò sử dụng, đem ra chợ bán thì có giá
trò hàng hóa. Bàn về giá trò của cái cốc, V.l.Lênin cho rằng có khi nó được dùng không
phải để uống mà lại để nhốt bướm hoặc để chặn giấy… Trên đời, rõ ràng không hề có
những mối quan hệ trừu tượng, chung chung, chỉ tồn tại những mối quan hệ cụ thể, xác
đònh. Đó là quan hệ vật chất hay quan hệ tinh thần, là quan hệ kinh tế hay quan hệ
chính trò, văn hóa, đạo đức, khoa học, thẩm mỹ… Mỹ học nghiên cứu mối quan hệ thẩm
mỹ của con người đối với thực tại. Đó chính là đối tượng nghiên cứu đặc thù của mỹ học.
Để hiểu vấn đề, cần phải làm sáng tỏ thế nào là mối quan hệ?và thế nào là mối
quan hệ thẩm mỹ? Khi Marx cho rằng loài vật không có quan hệ, thì ông muốn khẳng
đònh sự khác biệt giữa hai thuật ngữ liên hệ và quan hệ. Muốn tồn tại, con vật phải liên
hệ với môi trường xung quanh, nhưng hoàn toàn không có chủ đích, không có ý thức.
Còn con người thì khác, con người không chỉ hoạt động mà còn hành động – nghóa la tác
động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên theo nhu cầu và ý đònh của mình. Trong bộ “Tư
bản”, khi phân biệt hoạt động của loài ong với kiến trúc sư, Marx đã giả đònh có thể
“con ong với những ngăn để sáp của mình còn khéo hơn một nhà kiến trúc nhiều”,
nhưng thật ra hoạt động của loài ong với lao động của một nhà kiến trúc khác nhau rất
nhiều, khác nhau về nguyên tắc. y là bởi trước khi tạo ra một tòa nhà, kiến trúc sư đã
hình dung ra từ trước trong đầu mình cấu trúc, hình dáng của toà nhà phù hợp với mục
đích sử dụng và mục đích thẩm mỹ. Nói khác đi, con ngươi ở đây có mối quan hệ với
hoàn cảnh, trong khi loài vật mới chỉ dừng ở mối liên hệ với môi trường mà thôi. Chính
nhân tố tích cực, chủ động đã biến những mối liên hệ thành những mối quan hệ. Nói như
vậy cũng có nghóa là không phải trong bất cứ sự tiếp xúc nào của con người cũng đều có
tính mục đích, cũng đều xác lập được mối quan hệ. Vậy nên, giữa nhiều sự vật và hiện
tượng mà con người tiếp cận có những sự vật và hiện tượng đối với con người chỉ là
khách thể chứ không phải là đối tượng. Chỉ có thể coi là tồn tại mối quan hệ khi chủ thể
có đối tượng của mình và đối tượng có chủ thể của mình. Chúng gắn bó và ràng buộc với
nhau, tồn tại bởi nhau và cho nhau.
Trong mối quan hệ thẩm mỹ cũng vậy, không thể có mối quan hệ thẩm mỹ nếu
thiếu một trong hai yếu tố chủ thể thẩm mỹ hoặc đối tượng thẩm mỹ (đối tượng chứ
không phải khách thể thẩm mỹ như nhiều người quan niệm). Mọi ý đònh tách rời quan
hệ chặt chẽ giữa chủ thể và đối tượng để tìm kiếm tính thẩm mỹ trong sự vật và hiện
tượng đều siêu hình. Chẳng hạn, viên kim cương dồi dào phẩm chất thẩm mỹ kia đối với
người lái buôn chỉ có giá trò hàng hóa chứ không có giá trò thẩm mỹ. Trong khi đối với
một cô gái ưa trang sức thì khác, phẩm chất thẩm mỹ của viên kim cương nổi lên ở vò trí
hàng đầu khiến cô gái say mê và hứng thú.
5
Mối quan hệ thẩm mỹ có nhiều nét không giống với các mối quan hệ khác của con
người. Nó không hoàn toàn giống với các mối quan hệ kinh tế cũng như mối quan hệ
chính trò, đạo đức, khoa học, tôn giáo, pháp quyền… Sự khác biệt nằm trong tính hình
tượng của mối quan hệ thẩm mỹ. Trong các mối quan hệ khác, mặc dù có những đặc
trưng riêng cho từng kiểu loại quan hệ nhưng tất cả vẻ cảm tính, cụ thể đều chìm đi sau
những khái quát trừu tượng có tính luận lý. Mối quan hệ thẩm mỹ có một số biểu hiện
không giống như thế. Bất cứ một đối tượng nào trong mối quan hệ thẩm mỹ cũng đều
mang tính hình tượng. Đó chính là những yếu tố cảm tính, cụ thể của các sự vật, hiện
tượng đa dạng, độc đáo trươc các giác quan của con người: chủ thể thẩm mỹ đã cảm
nhận trực tiếp chúng bằng hình tượng của chính chúng.
Tóm lại, mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực – đối tượng nghiên cứu
riêng biệt của mỹ học, cần được quan niệm như trên. Tuy nhiên, do mối quan hệ thẩm
my õđược phản ánh trong một hình thái ý thức đặc thù là nghệ thuật và do nghệ thuật là
hình thái biểu hiện tập trung và cao độ của mối quan hệ thẩm mỹ đó, nên mỹ học không
thể không nghiên cứu nghệ thuật. Điều cần lưu ý chính là cấp độ quan tâm nghiên cứu
nghệ thuật của mỹ học so với triết học và các ngành nghệ thuật học. Không xác đònh
được điều này sẽ khó tránh khỏi sự trùng lập về cấu trúc tri thức mà không ít giáo trình
mỹ học đã mắc phải.
Để nói một cách ngắn gọn, ta có thể coi toàn bộ đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật
là đối tượng nghiên cứu của mỹ học. “Toàn bộ thế giới cùng toàn bộ quá trình diễn ra
trong thế giới, con người cùng tất cả nền văn hóa của con người, ở một phương diện và
trong một mức độ nào đó chúng đều có giá trò đối với con người như một giống loài
nghóa là đều có giá trò thẩm mỹ, chúng đều là môi trường của các nhu cầu mỹ học, là đối
tượng nghiên cứu của mỹ học”(Bôrep)1. Ở đây cần hết sức tránh nhầm lẫn hai khái
niệm thẩm mỹ và mỹ học. Cũng như sự khác biệt giữa lòch sử và sử học, văn chương và
văn học… thẩm mỹ hoàn toàn không phải là mỹ học. Đó là sự khác biệt giữa đối tượng
và khoa học nghiên cứu đối tượng. Chúng cần được phân biệt rạch ròi và dứt khoát.
6
PHẦN II. MỐI QUAN HỆ THẨM MỸ
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ MỐI QUAN HỆ THẨM MỸ
I.1. Thế nào là mối quan hệ thẩm mỹ?
Chúng ta có thể đònh nghóa mối quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ cụ thể về mặt
thẩm mỹ của một chủ thể thẩm mỹ nào đó trước một đối tượng thẩm mỹ nhất đònh. Đònh
nghóa này biểu hiện những dấu hiệu loại biệt của mối quan hệ thẩm mỹ, trong sự đối
chiếu các mối quan hệ vật chất và tinh thần khác nhau trong xã hội.
Trước hết, mối quan hệ thẩm mỹ phải rất cụ thể về không gian và thời gian. Đó
phải là mối quan hệ này hay mối quan hệ kia, nghóa là có xuất xứ rõ ràng, có đòa chỉ
minh bạch, không thể chung chung mà rất xác đònh – xác đònh cả về phía đối tượng lẫn
về phía chủ thể trong sự ràng buộc thẩm mỹ giữa chúng. Phép biện chứng chỉ ra rằng sự
vật và hiện tượng muôn vẻ ngoài đời sống luôn vận động và biến đổi trong không gian
và thời gian. Cũng sự vật và hiện tượng ấy, nhưng lúc này, ở đây không hoàn toàn giống
lúc khác, ở nơi khác. “Người ta không thể tắm hai lần ở cùng một dòng
sông”(Heraclite). Ấy là bởi dòng sông luôn luôn đổi khác. Ấy còn bởi con người cũng
luôn đổi khác. Chẳng phải tâm trạng, ý nghó, cảm xúc con người luôn vận động, kể cả
thay đổi theo sự động và thay đổi của cuộc sống đó ra sao. Những mối quan hệ xã hội
khác coi trọng cái tương đối ổn đònh trong vạn vật và con người. Mối quan hệ thẩm mỹ
lại coi trọng cái tuyệt đối vận động và biến chuyển của con người và vạn vật. Điều này
lý giải tại sao các giá trò thẩm mỹ bao giờ cũng độc nhất vô nhò. Càng có giá trò thẩm mỹ
càng độc đáo. Nhà thơ Hoài Anh trong một sáng mờ sương Đàlạt kia đã không kìm được
nổi sự rung động tràn ngập lòng mình. Những câu thơ lóng lánh sau chợt đến với anh:
Trước mặt bồng bềnh huyền ảo sương giăng
Người lâng lâng tưởng chân không bén đất
Đừng thở mạnh kẻo làm hơi bay mất
Như giấc mơ hoa chợt biến không ngờ.
Thử hỏi ở nơi khác, vào khi khác, anh có thể làm khổ thơ y nguyên như vậy được
không? Không thể. Đó là cái kỳ diệu của đời sống thẩm mỹ và nói riêng là của đối
tượng nghệ thuật. Điều này bắt nguồn từ những đặc tính cơ bản của mối quan hệ thẩm
mỹ.
I.2- Đặc tính của mối quan hệ thẩm mỹ
Để hiểu sâu khái niệm mối quan hệ thẩm mỹ, ta cần phân tích một số đặc điểm cơ
bản của mối quan hệ đặc thù này.
I.2..1- Tính tinh thần
Giống như nhiều mối quan hệ xã hội khác (như các mối quan hệ chính trò, đạo đức,
khoa học, tôn giáo…), mối quan hệ thẩm mỹ thuộc về đời sống tinh thần của con người.
Một trong những dấu hiệu nổi bật của tính tinh thần này là ở chỗ thụ cảm cái thẩm mỹ
ngoài đời sống và trong nghệ thuật trước tiên và chủ yếu dựa vào thò giác và thính giác.
Nói thế không có nghóa là các giác quan khác hoàn toàn không có ý nghóa trong việc tạo
lập mối quan hệ thẩm mỹ. Có điều, càng gián cách và gián tiếp thì cảm xúc thẩm mỹ
càng có điều kiện bộc lộ rõ hơn và cao hơn. Để rung động trước cái đẹp của bông hoa,
7
người ta ngắm hoa hơn là ngửi hoa. Trong nghệ thuật cũng vậy, thưởng thức một bức
họa, một pho tượng, bao giờ cũng cần một khoảng cách nhất đònh. Sự hài hòa của màu
sắc, đường nét, cảnh vật và con người vốn là một tiêu chuẩn của cái đẹp trong mỹ thuật
chỉ có thể cảm nhận được một cách đầy đủ, thấm thía khi lùi xa tác phẩm nghệ thuật.
Vai trò của nhìn và nghe trong thưởng thức nghệ thuật quan trọng đến mức có nhà mỹ
học đã dựa vào đó để phân chia nghệ thuật thành 3 loại hình: Nghệ thuật thò giác (như
hội họa, điêu khắc, kiến trúc…); Nghệ thuật thính giác (như âm nhạc); Nghệ thuật thính thò giác (như sân khấu , điện ảnh…)
Một vấn đề nảy sinh không thể không giải quyết là nếu thừa nhận tính tinh thần
của mối quan hệ thẩm mỹ, vậy thì nó liên quan như thế nào với quan hệ vật chất? Trong
lòch sử mỹ học, mối tương quan này được bộc lộ bằng mối quan hệ giữa cái có ích và cái
đẹp. Có 3 khuynh hướng giải quyết sau đây:
Một là: đồng nhất giữa cái đẹp và cái có ích. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là
quan niệm của Xocrate. Nhà mỹ học cổ Hy Lạp thẳng thừng tuyên bố :“Cái sọt đựng
phân cũng đẹp”. y là bởi, theo ông, cái sọt “đựng được phân”nghóa là nó hữu ích. ng
không phân biệt hai phạm trù này, hay đúng hơn là ông không chấp nhận các sự vật,
hiện tượng có giá trò thẩm mỹ mà lại không có giá trò vật chất thiết thực. Quan niệm cực
đoan của Xocrate thật khó thuyết phục. Nếu cái gì có ích cũng đều đẹp thì cái đẹp đâu
còn lý do thực tế để tồn tại nữa.
Hai là: tách biệt giữa giá trò thẩm mỹ và giá trò vật chất. Đại diện cho quan điểm
này là Kant. Trong tác phẩm “Phê phán khả năng phán đoán”, ông khẳng đònh: ”Một
phán đoán thẩm mỹ nếu pha trộn một chút ít tính toán lợi hại sẽ rất thiên tư. Đó không
phải là phán đoán thẩm mỹ đơn thuần, cần phải giữ sự thờ ơ với đối tượng mới làm chủ
được hứng thú thẩm mỹ”. Cần phải nói rằng, những phát hiện về tính không vụ lợi của
phán đoán thẩm mỹ là một cống hiến vô giá của Kant vào di sản mỹ học của nhân loại.
Tiếc là ông đã đi quá xa. Việc đào hố sâu ngăn cách không thể vượt qua giữa cái đẹp và
cái có ích, nói gì thì nói, cũng là không thực tế và không biện chứng. Tính không vụ lợi
của khoái cảm thẩm mỹ không cản trở các giá trò thẩm mỹ có tính mục đích thực tế. Đây
chính là chỗ sơ hở của học thuyết mỹ học Kant làm cơ sở cho không ít trào lưu nghệ
thuật xa rời cuộc sống lao động, đấu tranh sau này.
Ba là: đặt cái có ích lên trên cái đẹp. Đó là quan niệm khá phổ biến trong xã hội
khi chủ nghóa thực dụng, chủ nghóa ẩm thực có nguy cơ lan tràn trong lối sống của không
ít người, nhất là tầng lớp giàu có. Đành rằng muốn tồn tại, con người cần phải được thỏa
mãn những nhu cầu vật chất tối thiểu. Nhưng nếu coi đời sống vật chất là mục đích, nếu
xem thường đời sống tinh thần, trong đó có đời sống thẩm mỹ ,thì con người nào có hơn
gì con vật. Không phải vô cớ khi K.Marx coi cảm xúc thẩm mỹ là tiêu chí khu biệt của
đời sống con người. Rất lạ lùng trước câu trả lời của một nhà đại tư bản Mỹ, khi M.Gorki
hỏi: “Ngài yêu nhà thơ nào nhất?”ng ta lạnh lùng nói: “Tôi yêu hai cuốn sách: quyển
kinh thánh và quyển sổ cái. Cả hai đều gây cảm hứng cho tôi như nhau. Một quyển do
nhà tiên tri viết ra, một quyển do chính tay tôi viết ra. Quyển của tôi ít lời, có nhiều con
số…”(Ở Mỹ).
Đã đành cái đẹp và cái có ích, giá trò thẩm mỹ và giá trò vật chất không phải là
một, nhưng tuyệt hóa ranh giới giữa chúng, coi chúng là hai phạm trù không có dính
dáng gì với nhau cũng không đúng, không thuyết phục. Trong tác phẩm “Uốn thẳng”,
nhà văn hiện thực Nga Glev Uxpenxki đã thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu của cái đẹp vốn
8