Tổng quan các nghiên cứu về cảm xúc – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản rất đầy đủ của tài liệu tại đây ( 2.12 MB, 141 trang )

trong nghiên cứu trí tuệ cảm xúc. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ

giữa vô thức và ý thức trong đời sống tình cảm con người bằng những lý giải

khoa học hết sức thuyết phục.

Nhà tâm lý học Mĩ, Carroll E.Izard đã nghiên cứu về vai trò của cảm xúc

cũng như các yếu tố cấu thành cảm xúc của con người. Ông nhấn mạnh đến

vai trò của cảm xúc với tư cách là những nhân tố điều chỉnh hành vi, các mối

quan hệ xã hội, các quá trình tâm lý,… Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh đến chức

năng tích cực, thích nghi của các cảm xúc.

Trên cơ sở một loạt công trình nghiên cứu của E.Izard về vấn tương quan

của hai phức hợp cảm xúc như cảm nhận chủ quan và biểu hiện bên ngoài,

ông nhấn mạnh sự biểu cảm cảm xúc như là thành phần quan trọng nhất của

các cảm xúc.

Theo nghiên cứu của Osofsky, 1984, phụ nữ thường có thay đổi về lối

sống sau khi đứa con đầu lòng ra đời, ưu tiên các vai trò làm mẹ và gia đình

của mình. Ở nhiều đôi vợ chồng sau khi đứa con ra đời, các vấn đề tình dục

nảy sinh, xung đột phát sinh, số lần giao tiếp và thời gian cho những lợi ích

chung giảm đi.

Ở các nước Phương Tây, nhiều tác giả đã nghiên cứu về diễn biến tâm lý

cảm xúc của sản phụ, hiện tượng trầm nhược hậu sản, diễn biến tâm lý cảm

xúc và sự thích nghi của sản phụ trong thai nghén. [2, tr.4]

Có khá nhiều nghiên cứu về chứng trầm cảm, buồn sau sinh, rối loạn cảm

xúc, loạn thần sau sinh của người phụ nữ sau khi sinh con. Loạn thần sau sinh

là một nhóm các rối loạn tâm thần xảy ra trong thời kỳ sinh đẻ. Hippocrates

thường được công nhận là người đầu tiên nhận biết các rối loạn tâm thần sau

sinh, nhưng mãi đến những năm 1800 mới bắt đầu xuất hiện các thông báo

lâm sàng về “bệnh điên sau sinh” (puerperal insanity) trên các tài liệu y khoa

ở Đức và Pháp. Năm 1818, Jean Esquirol lần đầu tiên đưa ra các số liệu có

5

tính chất thuyết phục qua 92 trường hợp loạn thần sau sinh được nghiên cứu

tại Salpetriere trong thời kỳ Chiến tranh của Napoleon. Tuy nhiên, người có

công nhiều nhất trong lĩnh vực này là Victor Louis Marce, một bác sĩ người

Pháp; ông ta đã mô tả nhiều trường hợp rối loạn tâm thần sau sinh, bước đầu

xây dựng được cơ sở về những khái niệm phù hợp với hiện đại và đưa ra nhận

định những thay đổi sinh lý trong thời kỳ sinh đẻ có liến quan đến khí sắc của

bà mẹ (Theo tài liệu của Bệnh viện Tâm thần trung ương II)

Trong vòng vài thập niên gần đây, với những tiến bộ y học và công nghệ

hiện đại, người ta có thể quan sát và theo dõi tiềm năng của thai nhi, khả năng

sở trường của sơ sinh, ứng xử trong tương tác mẹ con và có thể phát hiện các

đặc điểm và rối nhiễu trong quan hệ mẹ con sớm.

Trong cuốn “Những vấn đề của các bậc làm cha mẹ”, B.M. Spock đã đề

cập đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái xét trên nhiều phương diện: xúc

cảm, tình cảm của cha mẹ và con cái, thái độ của cha mẹ về các vấn đề thuộc

đời sống tình cảm của con cái và cả thái độ của con cái đối với cha mẹ.

G.Heuyer thì cho rằng, nhân cách, cách cư xử cũng như cách biểu hiện

cảm xúc của của bà mẹ đối với con trẻ trong giai đoạn đầu đời có ảnh hưởng

quyết định đến đời sống tâm lý của trẻ trong tương lai. Bên cạnh đó, tác giả

còn nhấn mạnh rằng cách cư xử của bà mẹ còn phụ thuộc rất nhiều vào những

quan hệ khác trong gia đình. [ 27, tr.62]

Isabelle Fillozat trong cuốn “Thế giới cảm xúc của trẻ thơ” nói rõ, những

cảm xúc của con người không phải có sẵn ngay từ khi mới sinh ra. Cảm xúc

được hình thành, được củng cố qua chế độ sinh hoạt ổn định hàng ngày thông

qua cơ chế nhập tâm, bắt chước. Chính quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, cách

thức biểu hiện cảm xúc của những người chăm sóc, đặc biệt là người mẹ sẽ

tạo thành cho trẻ những cảm xúc đặc thù ở con người. Tình cảm yêu thương,

thù hận, thiện cảm, không thiện cảm, tình cảm đạo được cũng được hình

6

thành theo năm tháng phù hợp với sự phát triển lứa tuổi ở trẻ. Người lớn, mà

đặc biệt là người mẹ cần phải chú ý đến cách thức biểu hiện cảm xúc của

chính mình với con và giáo dục cảm xúc cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ.

Năm 1935, Spitz và Wolf đã nghiên cứu trên 130 trẻ ở hai điều kiện sống

khác nhau: một nhóm không có tình yêu thương của mẹ, một nhóm có tình

cảm của mẹ và đưa ra kết luận: Những đứa trẻ không nhận được tình yêu

thương của mẹ dễ bị rối nhiễu tâm lý, tâm thể phát triển không tốt. Theo

Spitz, chính cảm giác an toàn nhờ đôi tay bà mẹ tạo ra khi trẻ tập đi và tình

cảm ấm áp qua giọng nói của người mẹ gọi con làm cho đứa trẻ ham tập đi.

Nếu thiếu những yếu tố đó ngay trẻ 2, 3 tuổi không tập đi thành công. [27,

tr.76, 77]

Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng, sự chăm sóc của mẹ thôi chưa

đủ mà chính tình cảm của người mẹ có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự

phát triển về cả sinh lý và tâm lý của đứa trẻ trong tương lai. [27, tr.77]

Trên đây, chúng tôi điểm qua một số nghiên cứu về cảm xúc và kết

quả đạt được trong nghiên cứu của các tác giả.

Từ các kết qủa nghiên cứu nêu trên, có thể thấy tình yêu thương, sự âu

yếm của người mẹ dành cho con trong những năm tháng đầu tiên có vai trò

quan trọng. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu cũng nói rõ trong những

năm đầu đời của trẻ thì cách bà mẹ biểu hiện cảm xúc của mình đóng vai trò

trực tiếp đến sự phát triển đời sống xúc cảm – tình cảm sau này của trẻ.

1.2. Những nghiên cứu về cảm xúc trong nước

Từ năm 1993 tới nay Vũ Thị Chín đã biên soạn và dịch một số tài liệu

về tâm lý sản phụ và sơ sinh như: Bước đầu tìm hiểu tâm lý sản phụ và quan

hệ mẹ con sớm; Quan hệ mẹ con và giữa trẻ cùng trang lứa; Những quan hệ

đầu tiên của trẻ trong gia đình; v.v… Trong đó, tác giả đưa ra những thay đổi

7

tâm lý của sản phụ sau sinh, vai trò của người mẹ đối với sự phát triển toàn

diện của trẻ.

Từ cuối 1994, BS Phạm Bích Nhung cùng các cộng tác viên của Bệnh

viện đã tham gia thực hiện chuyên đề nghiên cứu: Tâm lý phụ sản và quan hệ

sớm mẹ con của Trung tâm nghiên cứu trẻ em. Nội dung nghiên cứu đã phần

lớn phác họa được những nét lớn về chân dung tâm lý của sản phụ từ khi bắt

đầu mang thai tới khi sinh và ngày đầu sau đẻ và nuôi con. Kết quả của

nghiên cứu cho thấy, về tâm lý trong cuộc đẻ và sinh con đó là sự mất chủ

động gần như biến phụ sản thành một đối tượng hoàn toàn thụ động đưa

người phụ nữ trở về với thời kỳ lo hãi thời thơ ấu đầy non nớt và chưa làm

chủ được mình.

Trong cuốn: “Năng lực cảm xúc của cha mẹ và số phận của con”,

Nguyễn Hạc Đạm Thư và Nguyễn Thị Châu Giang đã nghiên cứu một số

trường hợp cụ thể và đã theo dõi trong thời gian rất dài để rút ra những kết

luận bổ ích trong việc nuôi dạy con cái. Các tác giả tìm hiểu những đứa trẻ

trong gia đình luôn có cách ứng xử, giáo dục con cái theo cách tiêu cực như:

thường xuyên cáu gắt, mắng con cái, tức giận,… Qua quá trình theo dõi tác

giả nhận thấy những trẻ này thường trở nên bi quan, nghi ngờ, sống khép nép,

hư hỏng, bất cần đời… Hai tác giả đã rút ra một kết luận: khả năng làm chủ

cảm xúc của cha mẹ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển tâm lý nhân cách của con

cái sau này.

Trong bài viết “Ý thức và vô thức trong lĩnh vực xúc cảm – tình cảm con

người”, tác giả Lê Khanh đã chỉ ra mối quan hệ giữa vô thức và ý thức trong

đời sống xúc cảm – tình cảm con người. Tác giả đưa ra một kết luận liên quan

đến giáo dục đời sống tình cảm con cái từ tuổi ấu thơ trong cuộc sống gia đình

“Chính từ trong cái nôi gia đình, ngay từ lúc lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã nhận

được sự giáo dục xúc cảm đầu tiên thông qua cử chỉ âu yếm hay dửng dưng;

8

yêu thương, trừu mến hay độc ác, tàn nhẫn…của những người trực tiếp chăm

sóc, đặc biệt là người mẹ”. Tác giả cũng cho rằng, nhiều công trình nghiên

cứu đã khẳng định cách đối xử trực tiếp của cha mẹ đối với con cái, cũng như

cách bố và mẹ thể hiện tình cảm với nhau trước mặt chúng có những hậu quả

sâu xa và lâu bền đối với đời sống xúc cảm- tình cảm của chúng. [24, tr.11]

Năm 2003, Ngô Công Hoàn nghiên cứu vấn đề: “Xúc cảm và giáo dục

xúc cảm đối với trẻ em lứa tuổi mầm non”. Tác giả đã đề cập đến khái niệm

cảm xúc xét dưới những góc độ khác nhau, các loại cảm xúc của con người và

nội dung giáo dục cảm xúc cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Tác giả cũng đưa ra

kết luận: cha mẹ cần quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục cảm xúc cho trẻ từ

1 đến 3 tuổi. Các phản ứng hành vi cảm xúc, biểu cảm của cha mẹ là yếu tố

quan trọng để trẻ bắt chước một cách vô thức. [9, tr.16]

Theo tiến sĩ Nguyễn Ánh Tuyết trong cuốn “Mẹ và con” cũng chỉ ra rằng

trong mối quan hệ gắn bó mẹ con, cả hai đề phải phát ra tín hiệu cho nhau.

Nhưng trong giai đoạn đầu đời, người mẹ đóng vai trò vô cùng quan trọng

cho sự phát triển bình thường của trẻ. Người mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ

hàng ngày bằng một tình yêu thương một cách tự nhiên vô thức của người mẹ

giúp cho quá trình xã hội hóa của trẻ là nhịp cầu cho trẻ bước vào khám phá

thế giới và xã hội loài người.

Trong cuốn “Phát triển tâm lý trong năm đầu” của Bác sĩ Nguyễn Khắc

Viện đã bàn về quan hệ gắn bó mẹ con và vai trò cảm xúc của người mẹ trong

mối quan hệ gắn bó mẹ con. Từ lúc lọt lòng, trẻ em đã có những ứng xử làm

cho mẹ quan tâm và chăm sóc: mút, bám víu, khóc, mỉm cười, tìm theo. Tùy

theo mức độ em bé đòi hỏi và người mẹ đáp ứng, sẽ tạo ra một mối gắn bó tốt

xấu, đậm nhạt khác nhau. Và từ 6 tháng trở đi, hình thành một hệ thống dần

dần chi phối toàn bộ quan hệ mẹ con, chi phối sự phát triển của trẻ mạnh mẽ

về nhiều mặt. Đây không chỉ có tác động của mẹ lên con, mà là một sự tác

9

động qua lại mẹ – con, ảnh hưởng đến cả tâm lý của hai bên. Trong tâm lý

người mẹ chăm nuôi con cũng có những biến đổi quan trọng, hai bên phản

ứng qua lại nhau, tạo ra những kiểu hình phản ứng khác nhau.

Trong bài viết “Tại sao trẻ hư và cảm xúc, phản ứng của người lớn” của

Đỗ Ngọc Khanh cũng nói tới cách ứng xử, cách phản ứng của cha mẹ sẽ để lại

hậu quả cho con trẻ. Khi cha mẹ gặp trường hợp con hư thì bố mẹ có cảm xúc

nào và phải xử lý ra sao đứa con trở nên ngoan ngoãn hơn.

Có khá nhiều nghiên cứu về hiện tượng trầm cảm, bệnh buồn, rối nhiễu

tâm lý sau sinh. Theo một nghiên cứu tại Bệnh viện Hùng Vương, TP. Hồ Chí

Minh tỉ lệ bệnh nhân có dấu hiệu trầm cảm sau sinh là 41%, còn theo báo cáo

mới hơn tại Bệnh Viện Từ Dũ con số này chỉ là 12,5% trong đó 5,3% là trầm

cảm thực sự. Trầm cảm sau sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe bà

mẹ, đặc biệt là sự phát triển trí tuệ, cảm xúc và thể chất của đứa trẻ. Trong

báo cáo của mình, bác sĩ Nguyễn Thị Như Ngọc – Phó giám đốc Bệnh viện

cho biết: Các yếu tố nguy cơ của trầm cảm sau sinh bao gồm: Mổ lấy thai,

không được sự hỗ trợ của chồng hoặc người thân tron gia đình, tình trạng

nghèo nàn, cuộc sống căng thẳng, mẹ chết từ lúc nhỏ…

Còn theo Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phương – nguyên Giám đốc bệnh

viện Từ Dũ cho biết: “Sinh con, người phụ nữ trở nên hạnh phúc hơn bao giờ

hết nhưng cùng với niềm vui vô bờ là sự mệt mỏi, căng thẳng và lo lắng hoặc

có những dấu hiệu tâm lý bất thường như: Khóc không lý do, cáu gắt, khó suy

nghĩ, bồn chồn, lo lắng…Khi đó, mẹ sẽ không đủ sức khỏe và tâm trạng để

chăm sóc và vui cùng con”.

Như vậy, trong nước có khá nhiều nghiên cứu về tâm lý sản phụ sau

sinh và quan hệ gắn bó mẹ con trong những năm tháng đầu đời của đứa trẻ.

Trong đó, các tác giả đều nói tới vai trò quan trọng của người mẹ trong quá

10

trình chăm sóc, cũng như cách biểu hiện, giáo dục cảm xúc cho con là vô

cùng quan trọng cho sự phát triển toàn diện trong tương lai của đứa trẻ.

2. Các khái niệm cơ bản

2.1. Cảm xúc

2.1.1. Khái niệm

Theo Từ điển Tâm lý học, Nguyễn Khắc Viện chủ biên [30, tr.43] cảm

xúc gồm hai mặt như sau:

– Những phản ứng sinh lý thần kinh thực vật, như tim đập nhanh, toát

mồ hôi, nội tiết tăng hay giảm, cơ bắp co thắt, hoặc run rẩy, rối loạn tiêu hóa.

– Những phản ứng tâm lý, qua những thái độ lời nói, hành vi và cảm giác

dễ chịu, khó chịu, vui sướng, buồn, khổ …

Theo Nguyễn Huy Tú, cảm xúc là những rung động khác nhau của con

người nảy sinh do sự thỏa mãn hay không thỏa mãn những nhu cầu nào đó, do

sự phù hợp hay không phù hợp của các biến cố hoàn cảnh, cũng như trạng

thái bên trong cơ thể với mong muốn, hứng thú khuynh hướng, niềm tin và

thói quen của chúng ta [22, tr.177].

Theo Nguyễn Quan Uẩn, xúc cảm – tình cảm là những rung cảm thể hiện

thái độ của cá nhân đối với các sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu,

động cơ của mình. [29]

Theo Vũ Dũng, những khía cạnh nội dung của cảm xúc được phản ánh ở

hiện tượng và hoàn cảnh có giá trị đặc biệt đối với chủ thể. [3]

Theo Carroll E.Izard thì cảm xúc được hiểu là một hiện tượng tâm lý

phức tạp, thể hiện qua ba yếu tố đặc trưng sau:

+ Cảm nhận hay ý thức về cảm xúc.

+ Các quá trình diễn ra trong hệ thần kinh, hệ nội tiết, hô hấp tiến hóa và hệ

khác của cơ thể.

11

+ Các phức hợp biểu cảm cảm xúc có thể quan sát được, đặc biệt là

những phức hợp phản ánh trên bộ mặt. [1]

Daniel Goleman hiểu cảm xúc vừa là một tình cảm vừa là các ý nghĩ, các

trạng thái tâm lý và sinh lý đặc biệt, vừa là thang bậc của các xu hướng hoạt

động do nó gây ra. [4]

Qua một số khái niệm trên, chúng tôi lựa chọn khái niệm cảm xúc cho

nghiên cứu của mình như sau

Cảm xúc là những rung cảm thể hiện thái độ của con người đối với các

sự vật, hiện tượng có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu

của họ.

Cảm xúc là một hiện tượng tâm lý phức tạp, thể hiện trên ba phương

diện:

+ Cảm nhận hay ý thức về cảm xúc.

+ Các quá trình diễn ra trong hệ thần kinh, hệ nội tiết, hô hấp tiến hóa và hệ

khác của cơ thể.

+ Các phức hợp biểu cảm cảm xúc có thể quan sát được, đặc biệt là những

phức hợp phản ánh trên bộ mặt.

Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tìm hiểu cảm xúc của các bà mẹ thông

qua cảm nhận chủ quan của họ về cảm xúc của mình trong một số tình huống

nuôi dạy, chăm sóc con cái.

2.1.2. Cơ sở sinh lý của cảm xúc

Cơ sở sinh lý thần kinh của cảm xúc là hoạt động của các bộ phận trên

vỏ não và dưới vỏ não. Phần cổ xưa nhất của não đầu là thân não, bắt đầu đốt

xương sống trên cùng rồi đến dưới vỏ. Thân não lúc đầu còn rất đơn giản và

sau dần thân não ngày càng phát triển và cùng với nó là cảm xúc cũng ngày

càng phức tạp hơn. Trong thân não có một bộ phận là “hạnh nhân” là nơi trú

ngụ trí nhớ cảm xúc và một bộ phận “cá ngựa” là nơi lưu giữ trí nhớ cụ thể về

12