Mười điều tâm niệm của Phật :: Suy ngẫm & Tự vấn :: https://laodongdongnai.vn

1. Nghĩ đến thân thể đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
2. Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
3. Cứu xét tâm tính thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sự học không thấu đáo.
4. Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
5. Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành sinh lòng khinh thường, kiêu ngạo.
6. Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7. Với mọi người đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
8. Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu đồ.
9. Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.
10. Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa tiêu.

Lý giải:

Điều 1: Điều thứ nhứt trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng: “Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc thần”. Tại sao vậy? Bởi vì khi nào con người còn mang tấm thân tứ đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật. Tấm thân tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau, gây đau đớn, khổ sở cho con người. Người nào có phước nhiều thì ít bệnh. Người nào ít phước, kém phước, bạc phước thì bệnh tật triền miên. Cho đến khi hết duyên ở đời, con người phải ra đi, nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại, tan rả và trở về với tứ đại trong trời đất. Cát bụi lại trở về với cát bụi, thế thôi. Người nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng, êm thắm. Người nào tạo nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân xác, khổ lụy người thân!

Con người không ai mong cầu bệnh khổ, cho dù cầu mong không bệnh khổ, nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh khổ, con người khỏe mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những dục vọng này, con người gây thêm biết bao nhiêu là nghiệp báo, để rồi phải đền trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, bao giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được? Bởi vậy cho nên, Đức Phật dạy chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, nên coi bệnh khổ như là món thuốc thần, là tiên dược để điều trị những dục vọng trong tâm thức của chúng ta. Dục vọng càng nhiều chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy. Đạo Phật là đạo cứu khổ nhân loại. Phật Pháp có công năng điều trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị.

Chẳng hạn như người hay tham lam, bỏn sẻn thì pháp đối trị là hạnh bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại vô lượng vô biên phước báu và thực hành thực tế được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm tham lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Chẳng hạn như người hay nóng giận thì pháp đối trị là quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những cơn nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn luôn thương nhìn cuộc sống, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân với những lỗi lầm, sai lầm của người khác, không tận dụng lòng từ bi của mọi người. Các bậc cha mẹ cần có tâm từ bi quảng đại mới hoàn toàn có thể giữ gìn được niềm hạnh phúc trong mái ấm gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi quảng đại mới hoàn toàn có thể thương mến, dạy dỗ học viên như con ruột của chính mình. Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới hoàn toàn có thể thương xót chúng sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, chuẩn bị sẵn sàng quyết tử, Giao hàng nhơn loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ chết mang theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm hỷ xả. Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm thức của mình thì càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau, chẳng ích lợi gì, bèn nỗ lực tăng trưởng tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh an, nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc sống một cách sáng sủa hơn, đời sống sẽ an nhàn hơn .

Điều 2: Điều thứ hai trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng:”Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát”. Tại sao vậy?

Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu. Con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, do đó đời sống kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, nguy hiểm, bất như ý. Muốn đời sống bớt hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ, dù bằng hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta nên nhớ rằng : chỉ có phước báo mới hoàn toàn có thể che chở tất cả chúng ta qua những cơn hoạn nạn mà thôi. Không có Trời Phật nào cứu tất cả chúng ta khi gặp hoạn nạn đâu. Cũng như chỉ có chiếc ghe mới hoàn toàn có thể chở tất cả chúng ta qua sông mà không bị thấm nước vậy .Con người không ai cầu mong hoạn nạn, mặc dầu mong cầu không hoạn nạn, nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là tất cả chúng ta phải đền trả những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai hoàn toàn có thể tránh khỏi. Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng thành công xuất sắc thuận tiện, người đó thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, tiêu xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa lánh, không ai muốn thân thiện, thân cận, vì chẳng ích lợi gì. Khi gặp hoạn nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp nạn, không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không còn dễ nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lẫn, chính do tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp nạn ! Nghĩa là hoạn nạn giúp cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc của tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, nghi kỵ, chính là nghĩa đó vậy .Hơn nữa, trong đời sống phức tạp, nhiều khi gặp hoạn nạn này, hoàn toàn có thể tất cả chúng ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí dụ như có người vì thua bạc nên mất vé tàu đi du lịch, vì vậy thoát chết, vì chuyến tàu đó bị chìm đắm ngoài biển khơi ! Nghĩa là có khi trong hoạn nạn, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể tìm được sự như mong muốn, hay bài học kinh nghiệm, hoặc kinh nghiệm tay nghề nào đó vậy. Không có chuyện gì trọn vẹn rủi ro xấu, không có chuyện gì trọn vẹn suôn sẻ cả. Chẳng hạn như trúng số độc đắc hoàn toàn có thể giúp tất cả chúng ta mua nhà, tậu xe, làm ăn kinh doanh, cũng hoàn toàn có thể gây bất hòa trong nhà đạo, làm cho mái ấm gia đình tan nát, hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá nghỉ thở luôn ! Chẳng hạn như tù tội khó khăn, so với bậc thánh nhân phi phàm, là thời cơ tốt nhứt để rèn luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác phẩm để đời ! Biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền triết trên quốc tế, xuất thân từ ngục tù ! Còn so với kẻ hèn nhát, hoạn nạn chính là âm ti trần gian, nhận chìm họ trong biển khổ đau, phiền não !

Điều 3: Điều thứ ba trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng:”Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị”. Tại sao vậy?

Bởi vì tâm tánh của tất cả chúng ta, vì duyên theo cảnh trần, cho nên vì thế không cố định và thắt chặt, tiếp tục biến hóa. Gặp cảnh thuận lòng vừa lòng, tâm trạng của tất cả chúng ta sung sướng, hớn hở, hỷ hạ, hân hoan, hài lòng. Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của tất cả chúng ta nổi sóng gió ngay, nhẹ thì còn giữ được trong lòng, nặng thì phun ra miệng những cơn bực dọc, tức tối. Gặp đối phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn hoàn toàn có thể êm xuôi, qua chuyện. Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố, thì câu truyện không biết sẽ kết thúc như thế nào ? Có thể người đi nhà thương hay vào nhà xác, còn người khác đi nhà tù !Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy : ” Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chơn tâm “. Nghĩa là tâm tánh của tất cả chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn động, không an tâm, được gọi là ” vọng tâm “, tức là tâm vọng động vì duyên theo cảnh trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì tất cả chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng có gì vui tươi cả. Trái lại, khi trong lòng thấy vui, có niềm hoan hỷ, tất cả chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh có vẻ như đang chia xẻ niềm vui hân hoan đó với tất cả chúng ta. Chính vọng tâm là cơ bản của sanh tử luân hồi. Tại sao vậy ? Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây, lúc nghĩ chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác, lúc có lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên miên trong từng sát na, trong từng tích tắc, ví như con ngựa chạy lung tung linh tinh lang tang khắp chốn, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp nơi vậy .” Vọng tâm ” là động lực chính dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi. Muốn tâm được an, mỗi khi vọng tâm khởi lên, tất cả chúng ta nhận ra ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi nó, thì được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu tư sau đó, phiền não và khổ đau sẽ không đến ! Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự, mọi việc, vẫn hoạt động và sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn như như, an định, không xao xuyến, không loạn động, tức là tất cả chúng ta đang sống trong cảnh giới niết bàn, an nhàn, tịch diệt, nói cách khác, lúc đó tất cả chúng ta sống với ” chơn tâm ” đó vậy. Chơn tâm ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, thoáng rộng, bát ngát bát ngát. Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ sóng nhỏ, gió mạnh sóng to. Sách có câu :

Tâm buồn cảnh được vui sao.
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.

Tục ngữ cũng có câu : ” Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai lấy thước mà đo lòng người “. Nghĩa là tâm tánh của con người biến thiên không cùng, lòng dạ con người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho nên vì thế khi cứu xét tâm tánh, tất cả chúng ta không thể nào tránh được những khúc mắc. Chúng ta đừng nãn lòng vì những khúc mắc đó. Bởi vì chính những khúc mắc đó giúp tất cả chúng ta thêm nhiều mê hoặc, nhiệt huyết hơn trên bước đường tu tâm dưỡng tánh, xả bỏ những tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng. Chúng ta luôn luôn thúc liễm thân tâm trong từng tích tắc, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng mình tu đã khá lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ. Có những lúc tất cả chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người, kiện thưa người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham lam. Chúng ta đem bố thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm dối gạt mình : thế là xong, hết tội rồi ! Trong thiền tông, chư Tổ dạy tất cả chúng ta phải ” sống trong tỉnh thức “, hay ” sống trong chánh niệm “, chính là nghĩa đó vậy .

Điều 4: Điều thứ tư trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng:”Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo”. Tại sao vậy?

Bởi vì ma chướng ở đây có nghĩa là những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu tất cả chúng ta hoàn toàn có thể coi những người khen chê như những người giúp sức tất cả chúng ta trên bước đường tu tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu tri thức, là bồ tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của tất cả chúng ta vậy. Bởi vì ma chướng ở đây cũng có nghĩa là những sóng gió của cuộc sống, những chuyện phiền não khổ đau, những chuyện thị phi phải quấy, những chuyện nguy hiểm bất như ý, những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng ngày. Thông suốt được như vậy, chí nguyện của tất cả chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển, khi gặp lời khen hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, khi gặp bát phong của cuộc sống, và tâm lý của tất cả chúng ta mới không bị xê dịch .Chúng ta không ai mong cầu ma chướng, mặc dầu cầu mong không ma chướng, nhưng ma chướng vẫn cứ tới túc tắc. Trên đời này có thiếu gì những kẻ luôn luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu, để bới lông tìm vết, trong khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật xấu. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy : ” Khi lên tiếng phê bình lỗi của người khác, thì lỗi của mình đã ở ngay bên chân rồi đó vậy “. Tuy nhiên, dù ma chướng có tới tiếp tục cỡ nào, nếu biết tu tâm dưỡng tánh, tất cả chúng ta cũng hoàn toàn có thể gật đầu được, chịu đựng được, coi đó như là những thử thách thiết yếu để nhắc nhở tất cả chúng ta rèn luyện tâm tánh, chuyển hóa đời sống từ phiền não khổ đau thành an nhàn niềm hạnh phúc. Sách có câu : ” Ví phỏng đường đời phẳng phiu cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai “, chính là nghĩa đó vậy .

Điều 5: Điều thứ năm trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng: “Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú”. Tại sao vậy?

Bởi vì việc làm nào càng khó khăn vất vả, càng khó khăn bao nhiêu, mà tất cả chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua, đạt được thành công xuất sắc, thắng lợi, thì việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu. Chẳng hạn như bài toán càng khó khăn vất vả bao nhiêu, khi giải được, tìm được hiệu quả, càng thú vị bấy nhiêu. Việc làm nào dễ thành chỉ là những việc làm tầm thường, không có giá trị cao, hoặc người thực thi có thừa năng lực, do đó dễ sanh ra khinh thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp vung .Ở trên trần gian có nhiều việc rất khó khăn vất vả, ít người thành đạt, ví dụ điển hình như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia, tìm ra món thuốc điều trị mới, ý tưởng ra máy móc văn minh, tối tân, sáng tạo ra phương pháp làm việc khoa học hơn, đem lại hiệu suất cao hơn. Các bậc anh hùng cứu quốc, hoàn toàn có thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho một dân tộc bản địa, không phải ai ai cũng hoàn toàn có thể làm được một cách thuận tiện. Trên phương diện xuất thế gian, việc tu tâm dưỡng tánh cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng hoàn toàn có thể thành Phật được, thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu. Một vị Phật sinh ra đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không hề nghĩ bàn. Có những người tu hành đạt được vài thành quả nhỏ nhoi, cũng tưởng đâu đã thành Phật, thành thánh nhơn, không ai bằng !

Điều 6: Điều thứ sáu trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng: “Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ”. Tại sao vậy?

Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên trần gian, cũng đều là những tiềm năng tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu người. Người đời thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để tranh danh đoạt lợi, cho nên vì thế mặc kệ đạo nghĩa, luân lý, tình thương, quan hệ. Con người chuẩn bị sẵn sàng thượng đội hạ đạp, chà đạp mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi nhỏ nhoi. Danh lợi ở đời ví như những miếng mồi câu cá. Cá nhỏ tới ăn miếng mồi liền bị cá lớn đớp gọn ! Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới lên ghe ngay tức thì ! Có người chán danh lợi thế gian, hoặc không đủ năng lực tranh đua, kiếm sống ngoài đời, bèn đi tìm danh lợi trong chốn thiền môn ! Thiệt là tội nghiệp !Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy : ” Khi tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây đầy trái chín mọng, không ai hái ăn, thì nên hiểu rằng đó là trái độc “. Nghĩa là ở đời không có mối lợi lớn nhỏ nào dành sẵn cho mình hưởng, hay người khác đem dâng Tặng Ngay mình, mà không có cái bẫy rập ô nhiễm bên trong, bên dưới, hay phía sau, chờ đón người tham lam, mê muội, thiếu tâm lý. Người đời thường thả con tép để bắt con tôm. Người nào tham lợi lớn, ham lời nhiều, thường hay bị tận dụng, bị sập bẫy một cách thuận tiện, ví như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những người không cố gắng nỗ lực tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không làm quyền lợi gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi, thích sự sung sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó .

Trong phạm vi gia đình, nếu vợ chồng con cái giao tiếp với nhau hằng ngày mà không biết thương yêu nhau, không biết nghĩ đến nhau, không biết hy sinh cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mình, chỉ nghĩ đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo nghĩa vợ chồng, còn gì là tình cha con, còn gì là mẫu tử tình thâm, còn gì gọi là hạnh phúc gia đình?

Trong khoanh vùng phạm vi xã hội, trong lúc tiếp xúc tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, mặc kệ hại người, người đó làm thế nào sống hòa thuận, yên ổn, vui tươi với những người chung quanh ? Người quá ích kỷ như vậy làm thế nào kết bạn được với ai, làm thế nào sống cuộc sống niềm hạnh phúc ? Hạnh phúc thực sự chỉ có với những người biết hai chữ ” quyết tử ” mà thôi. Trong cuộc sống, những kẻ ích kỷ, tệ bạc, chỉ biết lợi mình, mặc kệ hại người, chẳng kể nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa, nhiều không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy lại là kẻ giúp sức người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của mình. Có gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm lý của tất cả chúng ta vẫn như như, bất động, bình tĩnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập của mình đến đâu. Nếu toàn bộ mọi người đều tốt, đều hiền thiện, đều biết đạo nghĩa, thì tất cả chúng ta đâu biết tâm mình thế nào ? Bởi vậy vì vậy, người nào thực sự muốn phát tâm tu học, thì ngay cuộc sống này, ngay cõi ta bà ngũ trược ác thế này, chính là trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh tây phương cực lạc mới chịu mở màn tu. Tại sao vậy ? Bởi vì cõi tây phương cực lạc, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Đà, là nơi chỉ toàn bậc thánh nhơn, chư thượng thiện nhơn câu hội, đâu cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa hạng phàm phu không chịu tu !

Điều 7: Điều thứ bảy trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng:”Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du”. Tại sao vậy?

Bởi vì sách có câu ” năm người mười ý “, đâu ai có quan điểm giống ai, mỗi người thường có ít nhứt hai quan điểm trong cùng một yếu tố, nay vầy mai khác, thì làm thế nào bắt buộc người khác phải thuận theo ý mình ? Tại sao mình lại không thuận theo ý người khác ? Con người vì sự cố chấp, chấp chặt như vậy do đó phiền não và khổ đau dài dài !Trong mái ấm gia đình, nếu người chồng hay người vợ cố chấp, bảo thủ quan điểm của riêng mình, thì làm thế nào mái ấm gia đình đó có niềm hạnh phúc được ? Cái gì của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm thế nào chịu nghe quan điểm của người khác ? Cha mẹ và con cháu thuộc hai thế hệ khác nhau, thì tức nhiên quan điểm, tâm lý, thực trạng, thiên nhiên và môi trường hoạt động và sinh hoạt, toàn bộ đều khác nhau, không hề khai trừ nhau, vì vậy phải tùy thuận nhau mà sống, mới có được niềm hạnh phúc trong mái ấm gia đình. Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, điều thứ chín dạy : ” Hằng thuận chúng sanh “, chính là nghĩa đó vậy. Tuy nhiên, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là một người trong mái ấm gia đình có lòng tham lam, xúi giục cả mái ấm gia đình tham lam theo, mặc kệ thủ đoạn, lợi mình hại người !Trong khoanh vùng phạm vi xuất thế gian, người tu theo pháp môn này chê bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy ? Bởi vì đạo Phật có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn nguyên, trình độ, thực trạng, sở trường thích nghi của mỗi người, để mọi người đều hoàn toàn có thể tu tập được. Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới là đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho tất cả chúng ta ngày càng trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời. Trái lại, tất cả chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn Để ý đến, hoàn hảo quan điểm của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học hỏi thêm cái hay cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch ý, chống đối như vậy tất cả chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy móc để chạy, cũng cần có cái thắng mới hữu dụng vậy. Nếu không có cái thắng, chắc như đinh có ngày cũng lọt xuống hố mà thôi .

Điều 8: Điều thứ tám trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng: “Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ”. Tại sao vậy?

Bởi vì tất cả chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải vì muốn được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn. Làm ơn mà muốn được cám ơn, muốn được nhớ ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì khét tiếng mới chịu làm. Làm ơn mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới chịu làm. Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang ơn, mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu tư, bực tức, khi gặp mặt kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì ít, mà muốn được đền ơn gấp bội phần. Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp sức tang quyến người khác chẳng bao nhiêu, lại muốn được ” trả công bội hậu ” ở nước thiên đường, thì quả là tham lam quá xá .Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy : ” Thi ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả tư lượng “. Nghĩa là tất cả chúng ta làm ơn bố thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không thấy có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước trợ giúp điều gì, không tính mình trợ giúp bao nhiêu người. Được như vậy, tất cả chúng ta sẽ ăn ngon ngủ yên, tâm lý không không an tâm vì những chuyện phước đã làm, vì gặp những người vô ơn, không hụt hẫng những vật đã đem cho, không ân hận đã giúp sức lầm người. Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước, cứu đời giúp người, khi thiết yếu, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm lượng từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới hoàn toàn có thể làm ơn được lâu bền hơn, giúp được nhiều người, nhiều lần và phước báu vô lượng vô biên, không hề nghĩ bàn. Sách có câu : ” Thi ân bất cầu báo đáp “, chính là nghĩa đó vậy. Hàng phục được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như vậy, tất cả chúng ta mới hoàn toàn có thể phát nguyện độ toàn bộ chúng sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ. Cho nên Đức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ, làm ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ lỡ liền, đừng ghi nhớ trong tâm thức cho thêm phần nặng nề. Được như vậy, tất cả chúng ta mau tiến đến chỗ giác ngộ và giải thoát .Điều 9 : Điều thứ chín trong ” Mười Điều Tâm Niệm ” dạy rằng : ” Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vẻ vang “. Tại sao vậy ?Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt, tất bật, mặc kệ mọi thủ đoạn, mặc kệ nhơn nghĩa, mặc kệ đạo lý, mới có được. Lợi lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở dưới đất trồi lên. Khi thấy có lợi lộc, cả khối người nhào vô, sẵn sàng chuẩn bị chà đạp, gạt gẫm, loại trừ, giết hại lẫn nhau để chiếm đoạt cho bằng được .Nhiều khi lợi lộc quá lớn lao, hoàn toàn có thể khiến cho con người đánh mất lương tri, sẵn sàng chuẩn bị thanh toán giao dịch người thân trong gia đình lẫn quân địch, chỉ nhằm mục đích đoạt được tiềm năng mà thôi. Chẳng hạn như một thái tử thủ đoạn sát hại phụ hoàng để chiếm ngai vàng, con cháu giết hại cha mẹ để đoạt gia tài, bè bạn cáo gian để hại nhau, chiếm đoạt gia tài, vợ con người khác. Con người vì ham lợi lộc vì vậy chuyện gì cũng dám làm, coi lợi lộc như vinh quang phú quí cần phải có trên trần gian, để ngẩng mặt nhìn đời cho có oai phong ngon lành. Chính do đó tâm si mê phải động, sai khiến con người làm toàn bộ mọi chuyện để thỏa mãn nhu cầu lòng tham lam của mình. Con người khi thấy lợi lộc liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra làm sao ? Đó chính là tâm si mê vậy .Các sòng bạc được mở ra khắp nơi, chính là những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền của những người nhẹ dạ ham vui tham tiền, hình như ai ai cũng biết vậy, nhưng người nào cũng vẫn nuôi kỳ vọng là mối lợi to lớn ở những sòng bạc đó, biết đâu suôn sẻ đến với mình, cho nên vì thế can đảm và mạnh mẽ nhào vô lãnh đủ. Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần tứ tung, nhưng vẫn không chừa, vẫn không không biết sợ ! Tục ngữ có câu : ” Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ tung “. Có cửa nhà để bán trả nợ là còn có phước đó ! Người nào muốn tu tâm dưỡng tánh thì phải xả bỏ tâm tham lợi, tâm si mê, phải biết sống cuộc sống thiểu dục tri túc, ít muốn và biết thế nào là đủ, tâm mới được khinh an, thơi thới, nhẹ nhàng, đời sống mới được an nhàn, cuộc sống mới được niềm hạnh phúc .

Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:

Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.

Nghĩa là người biết thế nào là đủ, không tham lợi lộc, thấy lợi lộc không nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn thấy an nhàn niềm hạnh phúc, bình yên vui vẻ. Chỉ cần ” biết ” đủ, thì đã quá đủ rồi. Trái lại, người nào không ” biết “, thì không khi nào thấy đủ, tấm thân tuy được ở trên thiên đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung sướng, nhưng tâm ý vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu, nỗ lực kiếm cho thiệt là nhiều tiền vẫn chưa chịu thôi, chưa chịu ngưng, chưa chịu an hưởng tuổi già gần đất xa trời. Sách cũng có câu :

Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.

Nghĩa là ” biết ” thế nào là đủ, tức thời được không thiếu ngay lập tức, không cần phải đợi đến lúc có thiệt nhiều tiền mới thấy đủ. Bao nhiêu mới gọi là nhiều so với người không biết đủ ? ” Biết ” thế nào là nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi đến già, hay khi nào hết. Nói tóm gọn là ” biết ” đủ thì đủ, ” biết ” nhàn thì nhàn. Không ” biết ” thì cực khổ tấm thân vậy thôi .

Điều 10: Điều thứ mười trong “Mười Điều Tâm Niệm” dạy rằng: “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh”. Tại sao vậy?

Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên khi gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc sống bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.

Người nào nói xấu mình, mình bèn tìm đủ cách nói xấu lại, cho bỏ ghét. Người nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại lại nặng hơn, cho đáng đời. Người nào không chịu giúp mình, không tốt với mình, mình bèn tìm đủ mọi cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu khống cáo gian, vu oan giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng chết luôn, cho chúng mạt luôn, khỏi ngóc lên nổi. Mình cho rằng người ta xấu xa, người ta độc ác, người ta bất chính, người ta vô lương, người ta bất thiện, người ta bất nhơn, người ta ác đức, người ta dã man, mà mình cũng làm giống như vậy, chỉ khoác danh nghĩa ” trả thù “, thì mình có khác gì người ta đâu ? Phản ứng y chang những điều người đời làm cho mình thực là thuận tiện. Còn như nhịn được mới thực là khó khăn vất vả vô cùng. Nhịn được như vậy chứng tỏ tất cả chúng ta không còn chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình, tức là tất cả chúng ta đã thấu rõ và hành được ” giáo lý vô ngã ” của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là ” Ta “, nên không có gì là ” của Ta “. Đó chính là triết lý hùng vĩ vô cùng mà tất cả chúng ta cần phải điều tra và nghiên cứu, tìm hiểu và khám phá cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên trần gian này, tất cả chúng ta vẫn giữ được tâm lý bình tĩnh, thản nhiên. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh .Người nào có nhiều ” tự ái “, thường cho rằng ta đây là nhứt, cái gì của mình cũng đứng nhứt, cái gì tương quan đến mình cũng nhứt, chấp nhứt từ chuyện lớn đến chuyện li ti, chẳng khi nào chịu nghe lời khuyên, thường thấy lỗi lầm của người khác, không khi nào cho là mình có lỗi gì cả, bất kỳ chuyện gì xảy ra cũng tìm đủ mọi cách, viện đủ lý lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người kia, tại thế này, bị thế khác, chứ không khi nào tại mình, bởi mình, do mình mà chuyện sai lầm xảy ra cả ! Người như vậy chính là người có ” tâm chấp ngã ” quá cao. Cho nên người đó vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi. Tại sao vậy ? Bởi vì những người như vậy rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một lời nói vô tình, một quan điểm trái nghịch, một việc làm không vừa lòng, một cử chỉ vụng về của người khác, tổng thể đều hoàn toàn có thể khiến cho những người như vậy nổi sân, bực tức, không dễ chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt thị, hơn thua, sống để dạ, chết mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi lên túc tắc mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy liên tục sống trong tâm trạng không an tâm, vọng động, thậm chí còn đau khổ nhiều thứ, nhiều mặt chính do kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não .Tóm lại, tất cả chúng ta nên biết rằng ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to thì sóng cả. Tâm của tất cả chúng ta ví như mặt biển cả, tùy theo ” bát phong ” của trần gian thổi đến, ví dụ điển hình như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc danh dự, lúc tủi nhục, lúc sung sướng lúc đau khổ, so với người không biết tu tâm dưỡng tánh thường để cho lòng nổi sóng, chìm đắm trong vui mừng tột độ, hay đau khổ triền miên. Còn so với người quyết tâm tu tập thì nỗ lực giữ gìn tâm ý bất động, bất loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi phong ba của cuộc sống. Được như vậy, chắc như đinh đời sống an nhàn, niềm hạnh phúc, tâm linh giác ngộ, giải thoát. Đó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt, chính là mục tiêu cứu kính của đạo Phật .