Gặp người thợ đặt thuốc nổ làm hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến – Báo Công an Nhân dân điện tử

“Ngày 15/12/1946, tôi mới được phổ biến chủ trương phá Nhà máy điện Yên Phụ là để làm hiệu lệnh cho quân dân Hà Nội và các tỉnh, thành miền Bắc nổ súng chống thực dân Pháp xâm lược. Khoảng 17h ngày 19/12/1946, tôi nhận lệnh phải khởi sự đúng 20h. Đó là mệnh lệnh chiến đấu.” – ông Quý, 1 trong 3 người của tổ phá Nhà máy điện Yên Phụ, kể.

Tổ phá Nhà máy điện Yên Phụ, làm tín hiệu lệnh kháng chiến toàn nước gồm 3 người : ông Dung, ông Thăng và ông Nguyễn Quý mà đồng đội cũ vẫn thân thương gọi theo biệt hiệu ” Ông Giang béo “. Hiện nay, 2 trong số 3 người ấy đã mất, chỉ còn mình ông Quý. Tôi tìm đến nhà ông trong ” trận đồ bát quái ” ở ngõ chợ Khâm Thiên .

Và tôi ngỡ ngàng khi trước mắt tôi, ông cụ dong dỏng cao, râu tóc bạc phơ. Ông niềm nở mời tôi vào nhà, vừa pha trà vừa cười hiền hậu: “Nay tôi đã 87 tuổi, trời cho còn mạnh khỏe, minh mẫn là may lắm”. Rồi ông dẫn dắt tôi trở về 61 năm trước.

Năm 1937, tôi đã hoạt động giải trí trong Hội Ái hữu ở Depot hỏa xa, hoạt động công nhân đấu tranh đòi tự do nghiệp đoàn. Khởi nghĩa Tháng Tám, tôi được điều lên Đa Phúc tham gia cướp chính quyền sở tại rồi tham gia công tác làm việc quân sự chiến lược ở đây .
Đầu năm 1946, Ban Công vận Thành ủy rút tôi về, hoạt động công nhân ở khu vực Hàng Đậu Đồng Xuân, Trúc Bạch. Lúc đó, tổ công vận 3 người gồm có tôi, anh Đỗ Tần, anh Minh “ hen ” do anh Minh đảm nhiệm. Từ tháng 9/1946, tôi đảm nhiệm công đoàn khối Nhà máy điện, nước .
Tháng 11/1946, Thành Phố Hà Nội được Trung ương chỉ huy, hối hả chuẩn bị sẵn sàng kháng chiến. Ủy ban Bảo vệ ( UBBV ) Khu XI ( TP. Hà Nội ) do anh Nguyễn Văn Trân làm quản trị, triển khai chủ trương của Bộ Tổng chỉ huy, làm công tác làm việc phá hoại để chặt đứt đường giao thông vận tải cầu và cống, ngăn ngừa bước tiến của địch. Do đó, Ban Phá hoại của thành phố được xây dựng do anh Trần Quốc Cư, Thành ủy viên làm Trưởng ban .
Ngày 10/12/1946, sau khi báo cáo giải trình với anh Nguyễn Văn Trân kế hoạch phá nhà máy điện, anh Trần Quốc Cư giao cho tôi trách nhiệm nghiên cứu và điều tra cách phá nguồn điện nhà máy như thế nào để đạt hiệu suất cao cao nhất .
Khi đó, việc ra vào Nhà máy điện Yên Phụ rất khó khăn vất vả vì quân đội ta và quân Pháp cùng gác nhà máy. Tôi phải tìm gặp anh Dung ở bộ phận lò và anh Thăng vốn là cai điện trước cách mạng, đảm nhiệm kỹ thuật và phòng bảng điện của toàn nhà máy .
Hai anh đều là đoàn viên công đoàn nên tôi bàn với những anh tìm hiểu và khám phá máy móc, chính sách quản lý và vận hành, mạng lưới hệ thống bảng điện, đồng hồ đeo tay điện … từ đó lên kế hoạch phá nơi phát điện. Sau đó, tôi báo cáo giải trình với anh Trần Quốc Cư giải pháp phá 4 tuốcbin, anh ấy trọn vẹn nhất trí .
Mãi đến ngày 15/12/1946, tôi mới được thông dụng chủ trương phá Nhà máy điện Yên Phụ là để làm tín hiệu lệnh cho quân dân Thành Phố Hà Nội và những tỉnh, thành miền Bắc nổ súng chống thực dân Pháp xâm lược. ( Khi cắt nguồn phát điện ở TP.HN thì điện ở Tỉnh Nam Định, Thành Phố Hải Dương, TP. Hải Phòng, cũng bị tắt ) .
Khoảng 17 h ngày 19/12/1946, tôi nhận lệnh phải khởi sự đúng 20 h. Đó là mệnh lệnh chiến đấu .
Tôi đến khu vực của Nhà máy Tương Lai ( lúc này, máy móc đã được dỡ đi, chỉ còn nhà xưởng thôi ) nhận vũ khí từ anh Phạm Lê Ninh gồm : 2 chai axít, kíp mìn, hộp mìn điện. Riêng thuốc nổ dẻo là loại thuốc của Pháp chuyên dùng cho phá đá, làm đường, tôi được mặt trận TP.HN phân phối 2 kg, mỗi kilôgam nhồi 5 kíp điện .

19h, chúng tôi  lọt qua cổng phụ  nhà máy; sau đó vào nhà phát điện. Anh Thăng và anh Dung giấu vũ khí vào người đi theo cầu thang vẫn dành cho công nhân làm việc. Tôi không thể đi công khai như vậy, các anh phải thả dây thừng từ buồng đồng hồ điện xuống cho tôi leo lên.

Tiếp đó, tôi và anh Dung lên tầng 3 của nhà phát điện, nơi đặt 4 tuốcbin lớn. Anh Dung đổ 2 chai axít vào 2 tuốcbin dự trữ, rồi ra cửa gác. Anh Thăng ở buồng đặt bảng điện, theo dõi đồng hồ đeo tay đo điện, hạ bớt vôn kế, rải dây điện. Tôi nhồi 2 bánh thuốc nổ đã cắm kíp nổ vào máy kích thích cho 2 máy tuốcbin đang hoạt động giải trí rồi gắn kíp mìn vào .
Tất cả mọi động tác, ba chúng tôi phải phối hợp thật khớp. Khi loa phát thanh của thành phố vang lên : “ Đây là Đài Tiếng nói Nước Ta … ”, tôi làm ám hiệu cho anh Thăng cắt cầu dao, đồng thời chập đầu điện của mìn .
Mìn nổ ! Điện tắt ! Thành phố chìm trong bóng tối. Rồi tiếng đại bác từ pháo đài trang nghiêm Láng, Xuân Tảo rền vang rót vào thành. Tiếng súng những cỡ và lựu đạn nổ ầm ầm .
Cả Thành Phố Hà Nội rực lửa kháng chiến. Tôi xúc động vô cùng, khi từ đấy nhìn ra, bốn phía, những quầng sáng đạn lửa của quân và dân ta chống quân Pháp lan rộng ra. Tôi sang chùa Châu Long, ra cơ sở ở bãi Phúc Xá .
Sáng 20/12, tôi ra đại lý Hoàn Long, báo cáo giải trình tác dụng với anh Trần Quốc Cư và nhận trách nhiệm vào Liên khu I theo dõi công tác làm việc phá hoại. Những ngày này, tôi không hề biết người cha thân yêu của tôi, Trung đội phó Trung đội Vệ quốc đoàn đã quyết tử ngay trong trận đánh nhà Moóc-li-e ( nay là trụ sở Báo Nhân dân ) tối 24/12/1946. Mãi đến năm 1948, tôi mới biết tin dữ ; còn mái ấm gia đình tôi, năm 1958 mới nhận được giấy báo tử .
Ngày 25/12/1946, tôi nhận lệnh chuẩn bị sẵn sàng đi đánh trường bay Gia Lâm, một vị trí quân sự chiến lược quan trọng của quân Pháp mà trước đó ta vẫn chưa đánh được. Mặt trận Thành Phố Hà Nội điều một tiểu đoàn bộ đội nòng cốt phối hợp với tự vệ địa phương cho trận đánh. Tổ chúng tôi có một tiểu đội được phân công từ phía nam đánh lên TT trường bay. Chúng tôi về đóng ở làng Nông Vụ ( Gia Lâm ) hơn một tuần, vừa phải đi thám thính trường bay, vừa rèn luyện thêm quân sự chiến lược .
Ngày 27 tháng Giêng năm Đinh Hợi, chúng tôi hành quân lên Thổ Khối, áp sát trường bay. Vũ khí mang theo chỉ là bom ba càng, mìn dẻo, mìn bột rất thô sơ. Đêm đó, tiểu đội tôi phá được 3 máy bay Spit-phai, 3 máy bay Đa-kô-ta, nhưng 6 chiến sỹ quyết tử ngay tại trận đánh. Tôi bị thương nhẹ ở cánh tay và trên ngực, dìu anh Lê Hồng ( tức Hoàng Minh Chính ) bị thương nặng, lần ra khỏi trường bay .
Tối 28 tháng Giêng, đồng đội không thấy tôi trở lại, đã làm lễ truy điệu ; còn tôi được tự vệ Thổ Khối đưa đến đền Phù Đổng điều trị ở trạm y tế, anh Lê Hồng thì được chuyển lên bệnh viện của mặt trận TP.HN. Sau trận này, tôi được thưởng Huân chương Chiến công hạng ba. Nhưng còn phần thưởng quý giá nữa là “ cậu ấm ” đầu lòng sinh ra .

Giữa năm 1947, tôi tranh thủ về nơi gia đình đang tản cư, mới nhìn thấy mặt con”. Kể đến đây, ông quay sang bà vui vẻ bảo: “Bà ấy mải làm cứu thương cho bộ đội đánh nhà dầu Shell ở đầu phố Khâm Thiên không chịu đi tản cư sớm đến nỗi ra đến Trúc Sơn là sinh nó đấy”.

Bà Dương Thị Thục, vợ ông, cũng là tự vệ của ngõ chợ Khâm Thiên. Sau khi sinh con đầu lòng, bà thay chồng chăm nom mẹ già nơi tản cư, rồi theo cụ hồi cư về thành phố. Trong những năm Pháp chiếm đóng thành phố, căn nhà lá 5 gian của cụ nằm sâu trong ngõ, có hầm bí hiểm, lại thêm đường đi ngoắt ngoéo chữ chi là nơi nuôi giấu cán bộ bảo đảm an toàn. Vì vậy, sau ngày Thủ đô giải phóng, mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Chè được Nhà nước Tặng Huy chương Kháng chiến hạng nhất .
Thì ra, trong nhiều mái ấm gia đình người TP.HN mùa đông năm 1946 đều có những chàng trai, cô gái hào hoa lịch sự, cầm súng đánh giặc cứu nước, “ Thà chết không chịu làm nô lệ ” .
Và ông, người tham gia vào sự kiện lịch sử vẻ vang của dân tộc bản địa ở thời gian trọng đại ấy, là một chiến sỹ như bao chiến sỹ Vệ quốc đoàn hoặc tự vệ mà tôi đã gặp, đã nghe về những kỳ tích như lịch sử một thời của Thành Phố Hà Nội anh hùng